Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Nhân Vật Lịch Sử
Hồ Chí Minh
Tư tưởng Hồ Chí Minh
Đổi mới - linh hồn của tư tưởng Hồ Chí Minh
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="Hide Nguyễn" data-source="post: 10204" data-attributes="member: 6"><p>Nhìn chung, có thể thấy hệ thống những quan điểm mới của Hồ Chí Minh đều là sản phẩm của sự kế thừa biện chứng và sự phát triển nâng cao về chất của Người đối với những giá trị tinh thần và tư tưởng của dân tộc Việt Nam, những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin vẫn giữ được giá trị trong thời đại mới và những giá trị quý báu trong kho tàng tinh thần và tư tưởng của phương Đông, phương Tây, của toàn nhân loại. Đặc biệt, Người đã vận dụng tài tình hai quy luật của phép biện chứng duy vật, hai quy luật quy định tiến trình vận động và phát triển của xã hội: quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và quy luật cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng. Đồng thời, Người còn kết hợp, vận dụng một cách linh loạt và tài tình một quy luật khác nữa, đó là quy luật đổi mới công bằng. Luận điểm mang tính tiên tri đã nuêu của Người phản ánh yêu cầu tổng quát, mang tính tất yếu của quy luật này: nếu cứ duy trì phương pháp tư duy cũ, tư tưởng và quan niệm cũ và cách làm (bao gồm cả chiến lược, sách lược) cũ, là không đi đến đâu cả, có nghĩa là đi vào chỗ bế tắc, đi vào ngõ cụt. Thực ra, quy luật này cũng là một quy luật vận động của xã hội loài người. Con người thường vẫn vận dụng nó, nhưng không nhận thức ra nó. Trong thời đại mới ngày nay, sự hoạt động của nó trở nên hết sức sôi động, mạnh mẽ và nếu con người biết vận đụng nó một cách đúng đắn thì có thể đạt được những kết quả khả quan trong sự phát triển. Quy luật này yêu cầu: thứ nhất, tuỳ theo sự thay đổi của điều kiện, hoàn cảnh và tình hình thực tế ở trong nước và thế giới mà tiến hành đổi mới trong tư duy, nhận thức và hành động thực tiễn, thử hai, đổi mới phải toàn diện, đồng bộ, triệt để và nhất quán, bảo đảm duy trì được sự cân bằng giữa các mặt, các bộ phận cấu thành hữu cơ của chỉnh thể từ vĩ mô đến vi mô, từ đó duy trì được sự phát triển với tốc độ cao và bền vững trong sự ổn định của chỉnh thể, thử ba, đổi mới phải năng động, kịp thời, chắc chắn, tương ứng với đòi hỏi đổi mới của thực tiễn.</p><p></p><p>Quy luật này cũng là một quy luật của phép biện chứng. Trong thời đại mới ngày nay, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ phát triển như vũ bão, làm cho lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ và nhanh chóng, xã hội ngày càng phát triển mạnh mẽ và nhanh chóng. Nó đặt ra vấn đề "Đổi mới hay là chết ?" trước tất cả các nước, nhất là các nước đang phát triển (ở những nước này, nếu đưa ra khẩu hiệu "Chủ nghĩa xã hội hay là chết” thì như Ph.Ăngghen đã nói trong thư gửi Iôxíp Vâyđơmaiơ, ngày 12/4/ 1858, sẽ là "quá sớm"). Muốn tránh tụt hậu, nhanh chóng rút ngắn khoảng cách và đuổi kịp các nước phát triển tiên tiến, muốn tránh không rơi vào tình trạng trì trệ, khủng hoảng và bế tắc, muốn duy trì củ sự phát triển với tốc độ cao và bền vững, hạ thì phải vận dụng có hiệu quả quy luật này đi đôi với việc vận dụng đúng đắn quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và quy luật cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng, tuỳ theo sự thay đổi của điều kiện và tình hình thực tế ở trong và ngoài nước mà kịp thời tiến hành đổi mới năng động, thực hiện được sự cân bằng động trong quá trình phát triển. Sự cân bằng động này dựa trên cơ sở sự phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất, là sản phẩm của sự phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất. Trong điều kiện phát triển bình thường, nó có thể đạt được thông qua sự đổi mới mang tính điều chỉnh cục bộ. Còn trong tình trạng khủng hoảng toàn cục thì nó đòi hỏi phải tiến hành đổi mới căn bản, toàn điện và đồng bộ. Nhìn chung, nó bao hàm một chuỗi bất tận những sự cân bằng tĩnh tương đối của sự vật, ở đây là xã hội. Theo đà phát triển của lực lượng sản xuất, những nhân tố phá vỡ sự cân bằng tĩnh tương đối dần dần sản sinh và tích tụ, đến một trình độ nào đó sẽ đòi hỏi phải thiết lập một sự cân bằng tĩnh tương đối mới, và đây chính là lúc con người phải kịp thời nhận thức và hành động, tiến hành việc đổi mới, nhằm tạo nên một sự cân bằng tĩnh tương đối mới ở trình độ cao hơn cho sự vật, bảo đảm duy trì được sự phát riển liên tục, không để cho sự vật rơi vào tình trạng khủng hoảng, bế tắc và đổ vỡ. Đây chính là mục đích của việc nhận thức và vận dụng quy luật đổi mới cân bằng động theo tư tưởng đổi mới của Hồ Chí Minh, gắn liền với việc nhận thức và vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và quy luật cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng theo quan điểm duy vật biện chứng khi áp dụng vào việc nghiên cứu xã hội của C.Mác và Ph.Ăngghen.</p><p></p><p>Nhìn lại thực tế đổi mới trong hơn 15 năm qua, chúng ta thấy, từ những thành quả bước đầu rất đáng khích lệ đến những vấn đề còn cần được tiếp tục đổi mới, tất cả đều nói lên một điều mà Cố vấn Phạm Văn Đồng đã nêu trong Văn hóa và đổi mới: đổi mới là quy luật. Càng suy ngẫm, chúng ta càng thấy ý nghĩa sâu xa của luận điểm nêu trên của Hồ Chí Minh. Quả vậy, đúng như thực tế ta cho thấy, trong thời đại mới ngày một phát triển ngày nay, "nếu cứ giữ cái nếp cũ”, những cái đã trở nên lỗi thời, lạc hậu trong tư duy và hành động, không đổi mới là không có lối ra, là đi vào ngõ cụt, là đổ vỡ. Điều này thích hợp với mỗi quốc gia, mỗi doanh nghiệp và với cả mỗi cá nhân con người.</p><p></p><p>Chúng ta cần có sự suy ngẫm và nhận thức đầy đủ đối với luận điểm thể hiện chân lý và tính quy luật của thời đại mới nêu trên của Hồ Chí Minh. Thứ nhất, phải nhận thức và vận đụng cho tốt quy luật đổi mới cân bằng động nêu trên. Thứ hai, phải đổi mới căn bản, toàn điện và đồng bộ đối với "cái nếp cũ” nói chung cũng như đối với “cái nếp cũ” cụ thể trong mỗi lĩnh vực của đời sống xã hội. Chúng ta không chỉ phải nghiên cứu sự đổi mới “cái nếp cũ” trong tư tưởng và hành động của Hồ Chí Minh trong lĩnh vực xây dựng chiến lược, sách lược cách mạng, mà còn phải nghiên cứu những tư tưởng đổi mới của Người đối với "cái nếp cũ” trong tất cả các lĩnh vực của cuộc sống: nếp nhà, nếp làng, nếp nước, nếp tu thân - lối làm người, nếp tư duy - lối suy nghĩ, nếp hành động - lối làm việc, nếp diễn đạt - lối viết lối nói, nếp giao tiếp - lối ứng xử, nếp sinh hoạt - lối sống... Chắc chắn, tư tưởng đổi mới của Hồ Chí Minh trong các lĩnh vực này cũng hết sức độc đáo, đặc sắc, sáng ngời chân - thiện - mỹ. Nghiên cứu bộ phận tư tưởng này của Hồ Chí Minh cũng sẽ giúp chúng ta giải quyết tất mối quan hệ giữa cái quá khứ, cái hiện tại và cái tương lai. ở đây, chúng tôi xin phép được nêu lên một nhận xét chung là: con người bao giờ cũng sinh ra trong một hoàn cảnh mà trong đó, đã có sẵn "cái nếp cũ”, trong đó bao gồm cả những cái vốn là truyền thống nhưng nay đã trở nên lỗi thời, lạc hậu, được sản sinh và tồn tại từ trước trong quá khứ. Con người được thừa hướng những mặt tốt đẹp do quá khứ để lại, nhưng cũng phải gánh chịu những mặt tiêu cực của những cái cũ kỹ, lạc hậu, lỗi thời của quá khứ trong "cái nếp cũ” đó. Vì thế, con người bao giờ cũng đứng trước một nhiệm vụ kép, một mặt phải kế thừa, nâng cao và phát huy những cái tất đẹp, những cái vẫn phù hợp hoặc thích ứng được với cuộc sống hiện tại, mặt khác, phải khắc phục hoặc uốn nắn những cái cổ hủ, lạc hậu và những cái đã trở nên lỗi thời trước cuộc sống thực tế hiện tại, nói chung là phải khắc phục "cái nếp cũ” của quá khứ để lại kể cả những tập quán, quan niệm, thiết chế, hình thức truyền thống đã trở nên lỗi thời, lạc hậu. Muốn hoàn thành tốt trách nhiệm kép này, con người phải tiến hành đổi mới đối với "cái nếp cũ” trong tất cả các lĩnh vực, trước hết là cái nếp cũ trong chiến lược, sách lược cách mạng, bởi nhìn chung, đây là nhân tố quyết định chiều hướng và tính chất của sự đổi mới "cái nếp cũ” trong các lĩnh vực khác, sau đó, phải tiến hành sự đổi mới tương ứng "cái nếp cũ” ấy trong tất cả các lĩnh vực khác còn lại, nhất là trong lĩnh vực triển khai thực hiện cụ thể chiến lược, sách lược cách mạng đã được đổi mới.</p><p></p><p>Đương nhiên, con người không thể phủ nhận, nhất là không được chống lại quá khứ. Bởi vì, như thế tức là tự phủ nhận, là tự chống lại chính mình. Nhưng mà, vì lợi ích hiện tại và tương lai của mình, con người cũng không nên để mình trở thành tù nhân, trở thành nô lệ của quá khứ, nhất là không được để mình trở thành tù nhân, trở thành nô lệ của "cái nếp cũ” do quá khứ để lại, là "cái nếp" đã trở nên lỗi thời, không còn phù hợp với thực tế hiện tại đã thay đổi và còn tiếp tục thay đổi. Trong khi kế thừa, nâng cao và phát huy những cái tốt đẹp của quá khứ để lại, một mặt, con người cần phải tỉnh táo, không tự đánh mất mình trong cái vinh quang có sẵn, mặt khác, phải biết để cho những cái lạc lậu, lỗi thời - "cái nếp cũ” nằm yên trong quá khứ, không để mình bị chúng trói buộc chân tay, và hơn nửa, phải biết lấy chúng làm bài học lịch sử cho việc đổi mới hiện tại, chuẩn bị tất cho tương lai.</p><p></p><p>Trở lại một cách toàn diện và triệt để với hệ thống tư tưởng đổi mới của Hồ Chí Minh, với học thuyết Hồ Chí Minh đó là cơ sở, là điều kiện, là tiền đề cho việc đưa đất nước phát triển thành công theo định hướng xã hội chủ nghĩa, từng bước thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, tiến nhanh đến mục tiêu CHXH.</p><p></p><p>Nguồn : Internet</p></blockquote><p></p>
[QUOTE="Hide Nguyễn, post: 10204, member: 6"] Nhìn chung, có thể thấy hệ thống những quan điểm mới của Hồ Chí Minh đều là sản phẩm của sự kế thừa biện chứng và sự phát triển nâng cao về chất của Người đối với những giá trị tinh thần và tư tưởng của dân tộc Việt Nam, những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin vẫn giữ được giá trị trong thời đại mới và những giá trị quý báu trong kho tàng tinh thần và tư tưởng của phương Đông, phương Tây, của toàn nhân loại. Đặc biệt, Người đã vận dụng tài tình hai quy luật của phép biện chứng duy vật, hai quy luật quy định tiến trình vận động và phát triển của xã hội: quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và quy luật cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng. Đồng thời, Người còn kết hợp, vận dụng một cách linh loạt và tài tình một quy luật khác nữa, đó là quy luật đổi mới công bằng. Luận điểm mang tính tiên tri đã nuêu của Người phản ánh yêu cầu tổng quát, mang tính tất yếu của quy luật này: nếu cứ duy trì phương pháp tư duy cũ, tư tưởng và quan niệm cũ và cách làm (bao gồm cả chiến lược, sách lược) cũ, là không đi đến đâu cả, có nghĩa là đi vào chỗ bế tắc, đi vào ngõ cụt. Thực ra, quy luật này cũng là một quy luật vận động của xã hội loài người. Con người thường vẫn vận dụng nó, nhưng không nhận thức ra nó. Trong thời đại mới ngày nay, sự hoạt động của nó trở nên hết sức sôi động, mạnh mẽ và nếu con người biết vận đụng nó một cách đúng đắn thì có thể đạt được những kết quả khả quan trong sự phát triển. Quy luật này yêu cầu: thứ nhất, tuỳ theo sự thay đổi của điều kiện, hoàn cảnh và tình hình thực tế ở trong nước và thế giới mà tiến hành đổi mới trong tư duy, nhận thức và hành động thực tiễn, thử hai, đổi mới phải toàn diện, đồng bộ, triệt để và nhất quán, bảo đảm duy trì được sự cân bằng giữa các mặt, các bộ phận cấu thành hữu cơ của chỉnh thể từ vĩ mô đến vi mô, từ đó duy trì được sự phát triển với tốc độ cao và bền vững trong sự ổn định của chỉnh thể, thử ba, đổi mới phải năng động, kịp thời, chắc chắn, tương ứng với đòi hỏi đổi mới của thực tiễn. Quy luật này cũng là một quy luật của phép biện chứng. Trong thời đại mới ngày nay, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ phát triển như vũ bão, làm cho lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ và nhanh chóng, xã hội ngày càng phát triển mạnh mẽ và nhanh chóng. Nó đặt ra vấn đề "Đổi mới hay là chết ?" trước tất cả các nước, nhất là các nước đang phát triển (ở những nước này, nếu đưa ra khẩu hiệu "Chủ nghĩa xã hội hay là chết” thì như Ph.Ăngghen đã nói trong thư gửi Iôxíp Vâyđơmaiơ, ngày 12/4/ 1858, sẽ là "quá sớm"). Muốn tránh tụt hậu, nhanh chóng rút ngắn khoảng cách và đuổi kịp các nước phát triển tiên tiến, muốn tránh không rơi vào tình trạng trì trệ, khủng hoảng và bế tắc, muốn duy trì củ sự phát triển với tốc độ cao và bền vững, hạ thì phải vận dụng có hiệu quả quy luật này đi đôi với việc vận dụng đúng đắn quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và quy luật cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng, tuỳ theo sự thay đổi của điều kiện và tình hình thực tế ở trong và ngoài nước mà kịp thời tiến hành đổi mới năng động, thực hiện được sự cân bằng động trong quá trình phát triển. Sự cân bằng động này dựa trên cơ sở sự phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất, là sản phẩm của sự phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất. Trong điều kiện phát triển bình thường, nó có thể đạt được thông qua sự đổi mới mang tính điều chỉnh cục bộ. Còn trong tình trạng khủng hoảng toàn cục thì nó đòi hỏi phải tiến hành đổi mới căn bản, toàn điện và đồng bộ. Nhìn chung, nó bao hàm một chuỗi bất tận những sự cân bằng tĩnh tương đối của sự vật, ở đây là xã hội. Theo đà phát triển của lực lượng sản xuất, những nhân tố phá vỡ sự cân bằng tĩnh tương đối dần dần sản sinh và tích tụ, đến một trình độ nào đó sẽ đòi hỏi phải thiết lập một sự cân bằng tĩnh tương đối mới, và đây chính là lúc con người phải kịp thời nhận thức và hành động, tiến hành việc đổi mới, nhằm tạo nên một sự cân bằng tĩnh tương đối mới ở trình độ cao hơn cho sự vật, bảo đảm duy trì được sự phát riển liên tục, không để cho sự vật rơi vào tình trạng khủng hoảng, bế tắc và đổ vỡ. Đây chính là mục đích của việc nhận thức và vận dụng quy luật đổi mới cân bằng động theo tư tưởng đổi mới của Hồ Chí Minh, gắn liền với việc nhận thức và vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và quy luật cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng theo quan điểm duy vật biện chứng khi áp dụng vào việc nghiên cứu xã hội của C.Mác và Ph.Ăngghen. Nhìn lại thực tế đổi mới trong hơn 15 năm qua, chúng ta thấy, từ những thành quả bước đầu rất đáng khích lệ đến những vấn đề còn cần được tiếp tục đổi mới, tất cả đều nói lên một điều mà Cố vấn Phạm Văn Đồng đã nêu trong Văn hóa và đổi mới: đổi mới là quy luật. Càng suy ngẫm, chúng ta càng thấy ý nghĩa sâu xa của luận điểm nêu trên của Hồ Chí Minh. Quả vậy, đúng như thực tế ta cho thấy, trong thời đại mới ngày một phát triển ngày nay, "nếu cứ giữ cái nếp cũ”, những cái đã trở nên lỗi thời, lạc hậu trong tư duy và hành động, không đổi mới là không có lối ra, là đi vào ngõ cụt, là đổ vỡ. Điều này thích hợp với mỗi quốc gia, mỗi doanh nghiệp và với cả mỗi cá nhân con người. Chúng ta cần có sự suy ngẫm và nhận thức đầy đủ đối với luận điểm thể hiện chân lý và tính quy luật của thời đại mới nêu trên của Hồ Chí Minh. Thứ nhất, phải nhận thức và vận đụng cho tốt quy luật đổi mới cân bằng động nêu trên. Thứ hai, phải đổi mới căn bản, toàn điện và đồng bộ đối với "cái nếp cũ” nói chung cũng như đối với “cái nếp cũ” cụ thể trong mỗi lĩnh vực của đời sống xã hội. Chúng ta không chỉ phải nghiên cứu sự đổi mới “cái nếp cũ” trong tư tưởng và hành động của Hồ Chí Minh trong lĩnh vực xây dựng chiến lược, sách lược cách mạng, mà còn phải nghiên cứu những tư tưởng đổi mới của Người đối với "cái nếp cũ” trong tất cả các lĩnh vực của cuộc sống: nếp nhà, nếp làng, nếp nước, nếp tu thân - lối làm người, nếp tư duy - lối suy nghĩ, nếp hành động - lối làm việc, nếp diễn đạt - lối viết lối nói, nếp giao tiếp - lối ứng xử, nếp sinh hoạt - lối sống... Chắc chắn, tư tưởng đổi mới của Hồ Chí Minh trong các lĩnh vực này cũng hết sức độc đáo, đặc sắc, sáng ngời chân - thiện - mỹ. Nghiên cứu bộ phận tư tưởng này của Hồ Chí Minh cũng sẽ giúp chúng ta giải quyết tất mối quan hệ giữa cái quá khứ, cái hiện tại và cái tương lai. ở đây, chúng tôi xin phép được nêu lên một nhận xét chung là: con người bao giờ cũng sinh ra trong một hoàn cảnh mà trong đó, đã có sẵn "cái nếp cũ”, trong đó bao gồm cả những cái vốn là truyền thống nhưng nay đã trở nên lỗi thời, lạc hậu, được sản sinh và tồn tại từ trước trong quá khứ. Con người được thừa hướng những mặt tốt đẹp do quá khứ để lại, nhưng cũng phải gánh chịu những mặt tiêu cực của những cái cũ kỹ, lạc hậu, lỗi thời của quá khứ trong "cái nếp cũ” đó. Vì thế, con người bao giờ cũng đứng trước một nhiệm vụ kép, một mặt phải kế thừa, nâng cao và phát huy những cái tất đẹp, những cái vẫn phù hợp hoặc thích ứng được với cuộc sống hiện tại, mặt khác, phải khắc phục hoặc uốn nắn những cái cổ hủ, lạc hậu và những cái đã trở nên lỗi thời trước cuộc sống thực tế hiện tại, nói chung là phải khắc phục "cái nếp cũ” của quá khứ để lại kể cả những tập quán, quan niệm, thiết chế, hình thức truyền thống đã trở nên lỗi thời, lạc hậu. Muốn hoàn thành tốt trách nhiệm kép này, con người phải tiến hành đổi mới đối với "cái nếp cũ” trong tất cả các lĩnh vực, trước hết là cái nếp cũ trong chiến lược, sách lược cách mạng, bởi nhìn chung, đây là nhân tố quyết định chiều hướng và tính chất của sự đổi mới "cái nếp cũ” trong các lĩnh vực khác, sau đó, phải tiến hành sự đổi mới tương ứng "cái nếp cũ” ấy trong tất cả các lĩnh vực khác còn lại, nhất là trong lĩnh vực triển khai thực hiện cụ thể chiến lược, sách lược cách mạng đã được đổi mới. Đương nhiên, con người không thể phủ nhận, nhất là không được chống lại quá khứ. Bởi vì, như thế tức là tự phủ nhận, là tự chống lại chính mình. Nhưng mà, vì lợi ích hiện tại và tương lai của mình, con người cũng không nên để mình trở thành tù nhân, trở thành nô lệ của quá khứ, nhất là không được để mình trở thành tù nhân, trở thành nô lệ của "cái nếp cũ” do quá khứ để lại, là "cái nếp" đã trở nên lỗi thời, không còn phù hợp với thực tế hiện tại đã thay đổi và còn tiếp tục thay đổi. Trong khi kế thừa, nâng cao và phát huy những cái tốt đẹp của quá khứ để lại, một mặt, con người cần phải tỉnh táo, không tự đánh mất mình trong cái vinh quang có sẵn, mặt khác, phải biết để cho những cái lạc lậu, lỗi thời - "cái nếp cũ” nằm yên trong quá khứ, không để mình bị chúng trói buộc chân tay, và hơn nửa, phải biết lấy chúng làm bài học lịch sử cho việc đổi mới hiện tại, chuẩn bị tất cho tương lai. Trở lại một cách toàn diện và triệt để với hệ thống tư tưởng đổi mới của Hồ Chí Minh, với học thuyết Hồ Chí Minh đó là cơ sở, là điều kiện, là tiền đề cho việc đưa đất nước phát triển thành công theo định hướng xã hội chủ nghĩa, từng bước thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, tiến nhanh đến mục tiêu CHXH. Nguồn : Internet [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Nhân Vật Lịch Sử
Hồ Chí Minh
Tư tưởng Hồ Chí Minh
Đổi mới - linh hồn của tư tưởng Hồ Chí Minh
Top