Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Nhân Vật Lịch Sử
Nhân vật Lịch sử Việt Nam
Đinh Tiên Hoàng (924 - 979) là vị vua sáng lập triều đại nhà Đinh
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="Trang Dimple" data-source="post: 177578" data-attributes="member: 288054"><p><strong><span style="font-size: 18px">1. Nghi án cung đình</span></strong></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Cũng theo nhóm tác giả này, việc Lê Hoàn làm Phó vương khi Đinh Toàn lên ngôi, cấm cố họ Đinh cùng với việc các trung thần Nguyễn Bặc, Đinh Điền, Phạm Hạp khởi binh chống Lê Hoàn có thể là những biểu hiện cho thấy mưu đồ thoán đoạt của Lê Hoàn. Ngày nay, số đền thờ các trung thần này rất nhiều so với vài đền thờ Lê Hoàn và thái hậu họ Dương. Các nhà nghiên cứu có đặt giả thiết là hành động của Lê Hoàn có sự trợ giúp của Dương Vân Nga. Trong bối cảnh cung đình của nhà Đinh lúc ấy có 3 hoàng tử, trưởng là Liễn, thứ là Toàn, út là Hạng Lang. Liễn là con trưởng, có nhiều công lao; Hạng Lang lại được vua yêu nên đã lập làm thái tử dù mới lên 4 tuổi, khó có thể bộc lộ những phẩm chất cao siêu hơn Đinh Liễn. Tiên Hoàng lại có những 5 hoàng hậu; có thể đã xảy ra cuộc đua ganh giữa 5 hoàng hậu về tương lai của ngôi thái tử. Trong cuộc đua ganh này, Dương hậu đã chọn Lê Hoàn làm chỗ dựa. Sau sự kiện Đinh Liễn giết Hạng Lang, Đinh Tiên Hoàng không xử phạt Đinh Liễn mà vẫn dự định để Liễn nối nghiệp. Có thể điều này làm phật ý Dương hậu khi bà cho rằng trước đã đặt Hạng Lang trên Liễn thì nay Liễn cũng phải ở dưới Toàn; và Dương Hậu đã cùng Lê Hoàn hành động.</span></p><p><span style="font-size: 18px">Theo lý giải của một số nhà nghiên cứu, một trong những nguyên nhân khiến nhà Tống phát binh xâm lược Đại Cồ Việt chính là do Đinh Liễn, người đã đi lại với nhà Tống và được chính vua Tống phong chức, bị hại. Việc phong Liễn cho thấy nhà Tống thừa nhận ngôi vị của Liễn. Với danh nghĩa trừng trị kẻ phản nghịch, nhà Tống phát binh. Việc Lê Hoàn thành công trong cuộc kháng chiến chống Tống có thể đã khiến nhân dân tha thứ cho ông. Các nhà nghiên cứu cũng đặt giả thiết Đỗ Thích chỉ là người vô tình có mặt ở hiện trường sau khi cha con vua Đinh bị hại (vì là quan nội thị) và lúc bấy giờ ông không thể thanh minh mình vô tội lúc nhiều người ập tới. Ông vội vã chạy trốn và bị bắt chém sau 3 ngày, trở thành nạn nhân trong mưu đồ của Lê Hoàn và Dương hậu.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Tác giả Lê Văn Siêu trong sách "Việt Nam văn minh sử"[20] nêu ra giả thiết: </span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px"> <em> Trong cuộc chiến cung đình giữa các hoàng hậu, bà mẹ Hạng Lang đã chọn Nguyễn Bặc làm vây cánh. Khi Hạng Lang bị giết mà thủ phạm Đinh Liễn không bị trừng trị, bà nảy ý định trả hận và đã cùng Nguyễn Bặc dùng Đỗ Thích ra tay. Sau đó Nguyễn Bặc theo lệnh của bà bắt giết Thích để “diệt khẩu”.</em></span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Tuy nhiên, giả thiết này còn có những điểm không thoả đáng. Nguyễn Bặc là bạn “chí cốt” của Tiên Hoàng từ nhỏ. Quan hệ giữa ông và Tiên Hoàng rất gần, quan điểm cho rằng ông nảy ý định phản Tiên Hoàng là hơi gượng ép. Dù ông có bụng "thờ" Hạng Lang chứ không “thờ” Liễn (chọn chủ tương lai) thì cũng chỉ giết Liễn chứ không thể giết luôn cả Tiên Hoàng. Thứ nữa, nếu Nguyễn Bặc bày đặt sai Đỗ Thích giết cha con vua Đinh thì sau khi Thích hành sự xong, ông phải lập tức "đón lõng" bắt Thích ngay và chém tức khắc, không thể để trốn tránh tới 3 ngày, vì nhỡ trốn tránh lọt vào tay người khác lại khai ra ông, như vậy ông sẽ bị lộ là chủ mưu. </span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Cũng tác giả Lê Văn Siêu trong sách "Việt Nam văn minh sử" nêu ra một giả thiết khác: [21] </span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px"> <em> Đỗ Thích là "gian tế" của nhà Tống, giết cha con vua Đinh để làm rối triều đình và cho nhà Tống thừa cơ mang quân sang đánh chiếm. Vì Trung Hoa là nước lớn nên phía Đại Cồ Việt dù có biết, cũng không dám "làm to chuyện" gian tế đó, chỉ dồn sức đánh trả sau này.</em></span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Giả thiết này kém thuyết phục nhất. Cha con vua Đinh bị giết tháng 10 năm 979. Lê Hoàn lên thay ngôi nhà Đinh tháng 7 năm 980, hơn nửa năm sau (sau khi đã dẹp các trung thần nhà Đinh). Nhà Tống mãi tháng 3 năm 981 mới mang quân sang, tức là gần 1 năm rưỡi sau khi cha con vua Đinh bị hại. Nếu nhà Tống rắp tâm hại cha con vua Đinh để đánh chiếm thì phải sắp sẵn quân, chờ khi được tin "Đã giết được Giao Chỉ quận vương" là vượt biên giới ngay để người Nam bị "sét đánh không kịp bưng tai" thì mới chiếm được. Sự thực là tin vua Đinh bị hại đến khá muộn. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, cha con vua Đinh bị hại từ tháng 10 năm 979, tới tận tháng 6 năm 980, Tri Ung châu nhà Tống là Hầu Nhân Bảo mới dâng biểu lên Tống Thái Tông tâu nên đánh Giao Chỉ và từ tháng 7 năm đó vua Tống mới bắt đầu động binh. Tới khi Lê Hoàn đã lên ngôi (tháng 7 năm 980), nghe tin nhà Tống động binh và đưa thư dụ hàng, tới tháng 10 năm đó vẫn thác xưng danh của Đinh Toàn xin nối ngôi vua cha Tiên Hoàng để gửi thư sang vua Tống nhằm hoãn binh. Nhà Tống khi đó vẫn dè dặt dùng “lễ” để chiêu dụ trước. Nếu nhà Tống chủ mưu và chưa muốn dùng binh, ít ra cũng động binh sớm để áp sát biên giới, uy hiếp rồi sai sứ sang doạ để Giao Chỉ quy phục. Sự thực là nhà Tống động binh muộn và ra quân cũng muộn, đủ thời gian cho Lê Hoàn dẹp xong nội loạn, giữ vững nhân tâm và chuẩn bị đón đánh thắng lợi.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><strong><span style="font-size: 18px"></span></strong></p><p><strong><span style="font-size: 18px">2. Lời bàn</span></strong></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Sách Đại Việt Sử Ký Toàn Thư bản kỉ, quyển 1, có chép:</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px"> <em>Trước kia, khi vua [Đinh Tiên Hoàng] còn hàn vi, thường ra sông Giao Thủy [ở Ninh Bình] để đánh cá. Có lần kéo lưới, bắt được viên ngọc khuê to, nhưng lại lỡ làm va vào mũi thuyền, khiến bị mẻ mất một góc. Đêm ấy, nhà vua vào ngủ nhờ ở chùa Giao Thủy, để viên ngọc ở dưới đáy giỏ cá. Đang khi nhà vua ngủ say, thấy giỏ cá có ánh sáng lạ phát ra, nhà sư của chùa Giao Thủy bèn gọi Nhà vua dậy để hỏi cho ra duyên cớ. Nhà vua cứ tình thực mà kể, lại còn lấy viên ngọc cho nhà sư xem. Xem xong, nhà sư than rằng: "Ngày sau, anh sẽ phú quý không biết kể thế nào cho hết, nhưng tiếc là phúc đức không được bền lâu[22]..."</em></span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: </span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px"> "<em>Đế vương dấy nghiệp không ai không nhờ ở trời. Nhưng thánh nhân không cậy có mệnh trời mà làm hết phận sự của mình. Việc đã thành, lại càng lo nghĩ đề phòng. Sửa sang lễ nhạc hình án chính sự là để phòng giữ lòng người. Đặt nhiều lần cửa, đánh hiệu canh là đề phòng kẻ hung bạo. Bởi vì lòng dục không cùng, việc đời không bến, không thể không đề phòng trước… Cho nên Tiên Hoàng không được trọn đời là do chưa làm hết việc người, không phải mệnh trời không giúp. Cũng vì vua không giữ được trọn đời khiến cho cái thuyết sấm đồ đắc thắng, đời sau không thể không bị mê hoặc vì điều đó."</em></span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Sự kiện cái chết của Đinh Tiên Hoàng còn nhiều nghi vấn. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu hiện đại khẳng định chắc chắn Tiên Hoàng bị hại không phải vì Đỗ Thích muốn đoạt ngôi và có nhiều ý kiến[23] nghiêng về khả năng thủ phạm là Lê Hoàn và Dương hậu.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><strong><span style="font-size: 18px"></span></strong></p><p><strong><span style="font-size: 18px">VI. Điểm giống Tần Thủy Hoàng</span></strong></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Cuộc đời và sự nghiệp vua Đinh Tiên Hoàng của Việt Nam, có nhiều điểm giống với Tần Thủy Hoàng của Trung Hoa:</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px"> - Tên gọi Tiên Hoàng hay Thủy Hoàng đều có ý nghĩa là hoàng đế đầu tiên. Đinh Tiên Hoàng là vị hoàng đế mở nền chính thống đầu tiên của nước Việt thống nhất[24], Tần Thủy Hoàng là hoàng đế đầu tiên thống nhất Trung Hoa.</span></p><p><span style="font-size: 18px"> Thời gian ở ngôi hoàng đế đều là 12 năm: Đinh Tiên Hoàng (968 - 979), Tần Thủy Hoàng (221 - 210 TCN).</span></p><p><span style="font-size: 18px"> - Danh hiệu: Trước khi làm hoàng đế, cả hai đều có vương hiệu: Thuỷ Hoàng là Tần Vương, Tiên Hoàng là Vạn Thắng Vương. Sự thăng tiến trong danh hiệu này không chỉ là thăng tiến trong sự nghiệp cá nhân mà còn đều đánh dấu sự thay đổi của lịch sử quốc gia. Từ thời nhà Chu, các vua đứng đầu thiên hạ (thiên tử) đều chỉ xưng vương, các chư hầu thời Chiến Quốc cũng chỉ xưng vương, từ Tần Thủy Hoàng chính thức xưng hoàng đế là sự thay đổi "nâng bậc" về danh hiệu của vua đứng đầu thiên hạ. Đinh Bộ Lĩnh trong lịch sử Việt Nam cũng tương tự: từ khi giành độc lập trở lại thời họ Khúc, những người cầm quyền ban đầu đều chỉ xưng Tiết độ sứ với tư cách "trưởng quan" cai trị một vùng lãnh thổ thuộc về Trung Quốc. Tới nhà Ngô, các vua mới xưng vương và tới Đinh Bộ Lĩnh xưng hoàng đế, cũng là sự thay đổi lớn, tạo dấu ấn trong lịch sử quốc gia như Tần Thủy Hoàng.</span></p><p><span style="font-size: 18px"> - Đinh Tiên Hoàng xây dựng thành Hoa Lư bằng cách nối lại các dãy núi đá trong tự nhiên bằng tường thành nhân tạo, Tần Thuỷ Hoàng xây dựng Vạn Lý Trường Thành cũng bằng cách nối lại các đoạn thành sẵn có của các nước chư hầu. Cả hai đều lập đô ở những vùng núi non hiểm trở.</span></p><p><span style="font-size: 18px"> - Đinh Tiên Hoàng Đế và Tần Thủy Hoàng Đế cùng trở thành hoàng đế sau khi tiêu diệt các thế lực cát cứ phân tán (dẹp nội chiến) để lập nên một đất nước thống nhất, tự chủ, chuyển đổi chế độ phong kiến phân quyền sang chế độ phong kiến tập quyền.</span></p><p><span style="font-size: 18px"> - Cả Đinh Tiên Hoàng và Tần Thủy Hoàng khi làm vua đều dùng chính sách cai trị bằng pháp luật nghiêm khắc.</span></p><p><span style="font-size: 18px"> - Đinh Tiên Hoàng và Tần Thủy Hoàng khi mất đều đương quyền hoàng đế, người kế tục sự nghiệp đều là con thứ và sớm để quyền bính rơi vào tay quyền thần. Hai triều đại mà hai hoàng đế sáng lập đều ngắn ngủi.</span></p><p><span style="font-size: 18px">VII. Đời tư</span></p><p><span style="font-size: 18px">Theo Đại việt sử ký toàn thư, Vua Đinh Tiên Hoàng lập 5 hoàng hậu là Đan Gia, Trinh Minh, Kiều Quốc, Cồ Quốc và Ca Ông. Trong đó được nhắc đến nhiều là hoàng hậu hai triều Dương Vân Nga và bà tổ nghề may Nguyễn Thị Sen.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Về các con Vua Đinh Tiên Hoàng, các sử chép thống nhất có 3 con trai Đinh Liễn, Đinh Hạng Lang, Đinh Toàn. Riêng con gái vua không chép rõ ràng nhưng căn cứ vào các thần tích tại nhiều đền thờ có thể thấy ít nhất vua có 4 con gái là công chúa Phất Kim (được thờ ở đền thờ công chúa Phất Kim khu di tích cố đô Hoa Lư), công chúa Phù Dung (được thờ ở đình Phù Sa, xã Viên Sơn thị xã Sơn Tây Hà Nội)[25], công chúa Minh Châu là vợ của Trần Thăng, em sứ quân Trần Lãm và công chúa Liên Hoa (được thờ ở đình Trâm Nhị, Ân Thi, Hưng Yên).</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><strong><span style="font-size: 18px"></span></strong></p><p><strong><span style="font-size: 18px">VIII. Tôn vinh</span></strong></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Hầu hết các thành phố, thị xã ở Việt Nam đều có đường mang tên Đinh Tiên Hoàng. Các vận động viên thể thao khi gia nhập quốc tịch Việt Nam cũng lấy họ theo vua như Đinh Hoàng La, Đinh Hoàng Max (bóng đá), Đinh Hoàng Chai (bóng chuyền)</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Tháng 3 năm 2011, chiếc tàu hộ tống mang tên lửa lớp Gepard 3.9 đầu tiên của Hải quân nhân dân Việt Nam được đặt tên là Đinh Tiên Hoàng.[26][27]</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><strong><span style="font-size: 18px"></span></strong></p><p><strong><span style="font-size: 18px">1. Trong văn học, nghệ thuật</span></strong></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Ngoài các tư liệu chính sử, trong văn học Việt Nam có nhiều tác phẩm nổi tiếng viết về Đinh Bộ Lĩnh tiêu biểu như: Cờ lau dựng nước, Trận chiến trong thung lũng, Hoàng đế cờ lau, Sử ca Đinh Bộ Lĩnh, truyền thuyết sông Hoàng Long, truyền thuyết con ngựa đá, bóng cờ lau... Trong đó có tác phẩm đã được chuyển đổi thành phim nhựa như “Trận chiến trong thung lũng”, “Hoàng đế cờ lau” và "Đinh Tiên Hoàng đế". Trong dân gian, Đinh Bộ Lĩnh còn được xưng tụng với những tên gọi: anh hùng Vạn Thắng Vương, Đại Thắng Minh Hoàng đế... Hình ảnh Đinh Bộ Lĩnh thời niên thiếu đã đi vào thơ ca tuổi trẻ Việt Nam từ thời tiểu học:</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><em><span style="font-size: 18px">“Bé thì chăn nghé, chăn trâu</span></em></p><p><em><span style="font-size: 18px">Trận bày đã lấy bông lau làm cờ</span></em></p><p><em><span style="font-size: 18px">Lớn lên xây dựng cơ đồ</span></em></p><p><em><span style="font-size: 18px">Mười hai sứ tướng bây giờ đều thua”</span></em></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><strong><span style="font-size: 18px">2. Đền thờ, tượng đài</span></strong></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Các đền thờ Đinh Bộ Lĩnh có ở nhiều vùng miền khác nhau. Nổi bật nhất phải kể đến Ninh Bình với 16 đền thờ,[28][29] và nhiều nơi phối thờ đều nằm ở phía bắc tỉnh (trong khi các đền thờ Lê Đại Hành lại nằm ở nửa phía nam của tỉnh này). Các đền, đình này gồm: đền Vua Đinh Tiên Hoàng, đình Yên Trạch, đình Yên Thành ở khu di tích cố đô Hoa Lư, xã Trường Yên; đình Trung Trữ xã Ninh Giang, Hoa Lư; đền thờ Đinh Bộ Lĩnh ở xã Gia Phương, đình Viến và đền thung Lau ở động Hoa Lư, đình Kính Chúc và đình Thượng Kính Chúc, xã Gia Phú Gia Viễn; các đình Mỹ Hạ, đình Ngọc Nhị, đình Ngọc Ba xã Gia Thủy và các đình thôn Lược, thôn Me xã Sơn Lai huyện Nho Quan.</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Nam Định có đền vua Đinh ở xã Yên Thắng, đình Thượng Đồng ở xã Yên Tiến, Ý Yên; ở làng việt cổ Bách Cốc, Vụ Bản; đền vua Đinh ở Giao Thủy… Hà Nam có đền Lăng ở Thanh Liêm; đền Vua Đinh ở xã Đồng Hóa và đền Đặng Xá ở Văn Xá, Kim Bảng; đền Ung Liêm ở Phủ Lý… Hà Nội có đền thờ ở làng Cổ Điển, Tứ Hiệp, Thanh Trì… Xa hơn là Đà Nẵng có đền thờ vua Đinh ở xã Hoà Khương, Hoà Vang; Lạng Sơn có đền thờ Vua Đinh Tiên Hoàng ở thôn Quảng Trung xã Quảng Lạc, thành phố Lạng Sơn; Thanh Hóa có đền Vua Đinh ở làng Quan Thành, Triệu Sơn, Đăk Lăk có đình Cao Phong[30] ở Hòa Thắng, Buôn Ma Thuột ... Tượng đài anh hùng Đinh Bộ Lĩnh ở thành phố Hồ Chí Minh được dựng ở suối Tiên và công viên Tao Đàn. Tại trung tâm thành phố Ninh Bình đã xây dựng khu quảng trường - tượng đài Đinh Tiên Hoàng Đế.[31]</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px">Các vị quan trung thần của vua Đinh Tiên Hoàng được thờ chung ở rất nhiều nơi, qua đó thấy được sự nghiệp và tình cảm đặc biệt mà nhân dân dành cho vị vua này. Đó là các di tích: Phủ Khống ở Tràng An (Ninh Bình); đình làng Kim Sơn, (Gia Lâm, Hà Nội); Đình làng Đại Vi, xã Đại Hồng (Tiên Du, Bắc Ninh); Đình làng Mai Động (Hà Nam; Đình thôn Cẩm Du xã Thanh Lưu (Thanh Liêm, Hà Nam); Đình làng So xã Cộng Hòa (Quốc Oai, Hà Nội). Đình làng Thuỵ Trà xã Nam Trung (Nam Sách, Hải Dương). Tục đánh quân ở làng Yên Thư xã Yên Phương (Yên Lạc, Vĩnh Phúc) lại có các trò "Mục đồng đánh quân" và "Chợ mục đồng" suy tôn tinh thần thượng võ của Đinh Bộ Lĩnh khi qua đây đánh dẹp sứ quân Nguyễn Khoan ở Vĩnh Mỗ. Các lễ hội cố đô Hoa Lư, lễ hội động Hoa Lư ở Ninh Bình cũng diễn lại tích cờ lau tập trận của Đinh Bộ Lĩnh thuở nhỏ. </span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px"><strong>Chú thích</strong> </span></p><p><span style="font-size: 18px"> 1. Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam ghi tên ông là Đinh Hoàn (丁環), Bộ Lĩnh là chức vụ, tuy nhiên quan điểm này không thông dụng, tạm bỏ vào chú thích</span></p><p><span style="font-size: 18px"> 2. Nước Văn Lang thời đại Vua Hùng đến nước Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh, NXB Quân đội nhân dân trang 27</span></p><p><span style="font-size: 18px"> 3. Nước Việt có nền quan chế độc lập từ khi nào?</span></p><p><span style="font-size: 18px"> 4. Rước lửa thiêng từ cố đô Hoa Lư về Thăng Long</span></p><p><span style="font-size: 18px"> 5. Phố Đinh Tiên Hoàng</span></p><p><span style="font-size: 18px"> 6. Trên trang sở Văn hóa Thể thao Du lịch Ninh Bình</span></p><p><span style="font-size: 18px"> 7. Theo các sử cũ như Đại Việt sử ký toàn thư thì cho rằng ông là người động Hoa Lư, nay là xã Gia Hưng, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình, tuy nhiên hiện nay người ta phủ nhận giả thiết này và các địa danh trên rất gần nhau, đều thuộc huyện Gia Viễn, xem bài động Hoa Lư</span></p><p><span style="font-size: 18px"> 8. Địa danh này hiện thuộc thôn Đàm Xá, Gia Tiến, Gia Viễn. con đường Đinh Bộ Lĩnh chạy trốn từ Gia Phương đến Gia Tiến hiện vẫn được gọi là đường Vua Đinh. Tương truyền, khi người chú đuổi tới bến sông thì gặp người bạn của Đinh Công Trứ (cha ruột Đinh Bộ Lĩnh) đã quỳ sẵn ở đó và nói với Đinh Dự là đã có rồng chở Bộ Lĩnh sang sông. Ông làm như vậy để tạo "uy" cho Đinh Bộ Lĩnh khiến người chú cũng phải lạy và quay về. Sông đó là sông Hoàng Long hiện giờ</span></p><p><span style="font-size: 18px"> 9. Thái Bình xưa được xác định thuộc Sơn Tây ngày nay, không phải thuộc tỉnh Thái Bình bây giờ</span></p><p><span style="font-size: 18px"> 10. Có sách cho rằng Bình Kiều ở Khoái Châu, Hưng Yên. Phần lớn các tài liệu và ở đền Vua Đinh - Cố đô Hoa Lư có bản đồ chỉ ra Bình Kiều ở Thanh Hóa</span></p><p><span style="font-size: 18px"> 11. Có tài liệu chỉ nói Đinh Bộ Lĩnh là con nuôi của Trần Minh Công.</span></p><p><span style="font-size: 18px"> 12. Tiền Việt Nam</span></p><p><span style="font-size: 18px"> 13. [1]</span></p><p><span style="font-size: 18px"> 14. Từ Hùng Vương đến ngày cởi ách Bắc thuộc</span></p><p><span style="font-size: 18px"> 15. Một đồng tiền, một niềm tự hào</span></p><p><span style="font-size: 18px"> 16. Có nguồn ghi năm Quý Dậu 973</span></p><p><span style="font-size: 18px"> 17. Theo cuốn sách “Cố đô Hoa Lư” NXB Văn hóa dân tộc của Nguyễn Văn Trò</span></p><p><span style="font-size: 18px"> 18. Theo trang 25 cuốn Nước Văn Lang thời đại Vua Hùng đến nước Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh</span></p><p><span style="font-size: 18px"> 19. Phan Duy Kha, Lã Duy Lan, Đinh Công Vĩ, Nhìn lại lịch sử, Nhà xuất bản Văn hoá thông tin, 2003.</span></p><p><span style="font-size: 18px"> 20. "Việt Nam văn minh sử" - Lê Văn Siêu, NXB VHTT, 2004</span></p><p><span style="font-size: 18px"> 21. "Việt Nam văn minh sử" - Lê Văn Siêu, NXB VHTT, 2004</span></p><p><span style="font-size: 18px"> 22. Câu chuyện này ứng với sự nghiệp lớn và cái chết sớm của Đinh Tiên Hoàng</span></p><p><span style="font-size: 18px"> 23. Phan Duy Kha, Lã Duy Lan, Đinh Công Vĩ, Nhìn lại lịch sử, Nhà xuất bản Văn hoá thông tin, 2003.</span></p><p><span style="font-size: 18px"> 24. Thực ra cách gọi "Tiên Hoàng" để coi là hoàng đế đầu tiên, đã bỏ qua không tính tới 3 vị xưng đế trước, là Lý Nam Đế, Hậu Lý Nam Đế và Mai Hắc Đế; vì ba bị này xưng đế trong khoảng thời gian độc lập không dài giữa thời Bắc thuộc</span></p><p><span style="font-size: 18px"> 25. Đình Phù Sa</span></p><p><span style="font-size: 18px"> 26. Nga bàn giao Gepard 3.9 cho Việt Nam</span></p><p><span style="font-size: 18px"> 27. Под флагом Вьетнама</span></p><p><span style="font-size: 18px"> 28. Xem cuốn Cố đô Hoa Lư NXB VHDT, Nguyễn Đăng Trò trang 124</span></p><p><span style="font-size: 18px"> 29. Những di tích đền thờ Đinh Tiên Hoàng</span></p><p><span style="font-size: 18px"> 30. Đỉnh Cao Phong với tín ngưỡng của người Mường xa xứ (Số 89/2006)</span></p><p><span style="font-size: 18px"> 31. Đẩy nhanh dự án Quảng trường Đinh Tiên Hoàng Đế</span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><span style="font-size: 18px"></span></p><p><strong><span style="font-size: 18px">Theo wikipedia</span></strong></p></blockquote><p></p>
[QUOTE="Trang Dimple, post: 177578, member: 288054"] [B][SIZE=5]1. Nghi án cung đình[/SIZE][/B] [SIZE=5] Cũng theo nhóm tác giả này, việc Lê Hoàn làm Phó vương khi Đinh Toàn lên ngôi, cấm cố họ Đinh cùng với việc các trung thần Nguyễn Bặc, Đinh Điền, Phạm Hạp khởi binh chống Lê Hoàn có thể là những biểu hiện cho thấy mưu đồ thoán đoạt của Lê Hoàn. Ngày nay, số đền thờ các trung thần này rất nhiều so với vài đền thờ Lê Hoàn và thái hậu họ Dương. Các nhà nghiên cứu có đặt giả thiết là hành động của Lê Hoàn có sự trợ giúp của Dương Vân Nga. Trong bối cảnh cung đình của nhà Đinh lúc ấy có 3 hoàng tử, trưởng là Liễn, thứ là Toàn, út là Hạng Lang. Liễn là con trưởng, có nhiều công lao; Hạng Lang lại được vua yêu nên đã lập làm thái tử dù mới lên 4 tuổi, khó có thể bộc lộ những phẩm chất cao siêu hơn Đinh Liễn. Tiên Hoàng lại có những 5 hoàng hậu; có thể đã xảy ra cuộc đua ganh giữa 5 hoàng hậu về tương lai của ngôi thái tử. Trong cuộc đua ganh này, Dương hậu đã chọn Lê Hoàn làm chỗ dựa. Sau sự kiện Đinh Liễn giết Hạng Lang, Đinh Tiên Hoàng không xử phạt Đinh Liễn mà vẫn dự định để Liễn nối nghiệp. Có thể điều này làm phật ý Dương hậu khi bà cho rằng trước đã đặt Hạng Lang trên Liễn thì nay Liễn cũng phải ở dưới Toàn; và Dương Hậu đã cùng Lê Hoàn hành động. Theo lý giải của một số nhà nghiên cứu, một trong những nguyên nhân khiến nhà Tống phát binh xâm lược Đại Cồ Việt chính là do Đinh Liễn, người đã đi lại với nhà Tống và được chính vua Tống phong chức, bị hại. Việc phong Liễn cho thấy nhà Tống thừa nhận ngôi vị của Liễn. Với danh nghĩa trừng trị kẻ phản nghịch, nhà Tống phát binh. Việc Lê Hoàn thành công trong cuộc kháng chiến chống Tống có thể đã khiến nhân dân tha thứ cho ông. Các nhà nghiên cứu cũng đặt giả thiết Đỗ Thích chỉ là người vô tình có mặt ở hiện trường sau khi cha con vua Đinh bị hại (vì là quan nội thị) và lúc bấy giờ ông không thể thanh minh mình vô tội lúc nhiều người ập tới. Ông vội vã chạy trốn và bị bắt chém sau 3 ngày, trở thành nạn nhân trong mưu đồ của Lê Hoàn và Dương hậu. Tác giả Lê Văn Siêu trong sách "Việt Nam văn minh sử"[20] nêu ra giả thiết: [I] Trong cuộc chiến cung đình giữa các hoàng hậu, bà mẹ Hạng Lang đã chọn Nguyễn Bặc làm vây cánh. Khi Hạng Lang bị giết mà thủ phạm Đinh Liễn không bị trừng trị, bà nảy ý định trả hận và đã cùng Nguyễn Bặc dùng Đỗ Thích ra tay. Sau đó Nguyễn Bặc theo lệnh của bà bắt giết Thích để “diệt khẩu”.[/I] Tuy nhiên, giả thiết này còn có những điểm không thoả đáng. Nguyễn Bặc là bạn “chí cốt” của Tiên Hoàng từ nhỏ. Quan hệ giữa ông và Tiên Hoàng rất gần, quan điểm cho rằng ông nảy ý định phản Tiên Hoàng là hơi gượng ép. Dù ông có bụng "thờ" Hạng Lang chứ không “thờ” Liễn (chọn chủ tương lai) thì cũng chỉ giết Liễn chứ không thể giết luôn cả Tiên Hoàng. Thứ nữa, nếu Nguyễn Bặc bày đặt sai Đỗ Thích giết cha con vua Đinh thì sau khi Thích hành sự xong, ông phải lập tức "đón lõng" bắt Thích ngay và chém tức khắc, không thể để trốn tránh tới 3 ngày, vì nhỡ trốn tránh lọt vào tay người khác lại khai ra ông, như vậy ông sẽ bị lộ là chủ mưu. Cũng tác giả Lê Văn Siêu trong sách "Việt Nam văn minh sử" nêu ra một giả thiết khác: [21] [I] Đỗ Thích là "gian tế" của nhà Tống, giết cha con vua Đinh để làm rối triều đình và cho nhà Tống thừa cơ mang quân sang đánh chiếm. Vì Trung Hoa là nước lớn nên phía Đại Cồ Việt dù có biết, cũng không dám "làm to chuyện" gian tế đó, chỉ dồn sức đánh trả sau này.[/I] Giả thiết này kém thuyết phục nhất. Cha con vua Đinh bị giết tháng 10 năm 979. Lê Hoàn lên thay ngôi nhà Đinh tháng 7 năm 980, hơn nửa năm sau (sau khi đã dẹp các trung thần nhà Đinh). Nhà Tống mãi tháng 3 năm 981 mới mang quân sang, tức là gần 1 năm rưỡi sau khi cha con vua Đinh bị hại. Nếu nhà Tống rắp tâm hại cha con vua Đinh để đánh chiếm thì phải sắp sẵn quân, chờ khi được tin "Đã giết được Giao Chỉ quận vương" là vượt biên giới ngay để người Nam bị "sét đánh không kịp bưng tai" thì mới chiếm được. Sự thực là tin vua Đinh bị hại đến khá muộn. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, cha con vua Đinh bị hại từ tháng 10 năm 979, tới tận tháng 6 năm 980, Tri Ung châu nhà Tống là Hầu Nhân Bảo mới dâng biểu lên Tống Thái Tông tâu nên đánh Giao Chỉ và từ tháng 7 năm đó vua Tống mới bắt đầu động binh. Tới khi Lê Hoàn đã lên ngôi (tháng 7 năm 980), nghe tin nhà Tống động binh và đưa thư dụ hàng, tới tháng 10 năm đó vẫn thác xưng danh của Đinh Toàn xin nối ngôi vua cha Tiên Hoàng để gửi thư sang vua Tống nhằm hoãn binh. Nhà Tống khi đó vẫn dè dặt dùng “lễ” để chiêu dụ trước. Nếu nhà Tống chủ mưu và chưa muốn dùng binh, ít ra cũng động binh sớm để áp sát biên giới, uy hiếp rồi sai sứ sang doạ để Giao Chỉ quy phục. Sự thực là nhà Tống động binh muộn và ra quân cũng muộn, đủ thời gian cho Lê Hoàn dẹp xong nội loạn, giữ vững nhân tâm và chuẩn bị đón đánh thắng lợi. [/SIZE] [B][SIZE=5] 2. Lời bàn[/SIZE][/B] [SIZE=5] Sách Đại Việt Sử Ký Toàn Thư bản kỉ, quyển 1, có chép: [I]Trước kia, khi vua [Đinh Tiên Hoàng] còn hàn vi, thường ra sông Giao Thủy [ở Ninh Bình] để đánh cá. Có lần kéo lưới, bắt được viên ngọc khuê to, nhưng lại lỡ làm va vào mũi thuyền, khiến bị mẻ mất một góc. Đêm ấy, nhà vua vào ngủ nhờ ở chùa Giao Thủy, để viên ngọc ở dưới đáy giỏ cá. Đang khi nhà vua ngủ say, thấy giỏ cá có ánh sáng lạ phát ra, nhà sư của chùa Giao Thủy bèn gọi Nhà vua dậy để hỏi cho ra duyên cớ. Nhà vua cứ tình thực mà kể, lại còn lấy viên ngọc cho nhà sư xem. Xem xong, nhà sư than rằng: "Ngày sau, anh sẽ phú quý không biết kể thế nào cho hết, nhưng tiếc là phúc đức không được bền lâu[22]..."[/I] Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: "[I]Đế vương dấy nghiệp không ai không nhờ ở trời. Nhưng thánh nhân không cậy có mệnh trời mà làm hết phận sự của mình. Việc đã thành, lại càng lo nghĩ đề phòng. Sửa sang lễ nhạc hình án chính sự là để phòng giữ lòng người. Đặt nhiều lần cửa, đánh hiệu canh là đề phòng kẻ hung bạo. Bởi vì lòng dục không cùng, việc đời không bến, không thể không đề phòng trước… Cho nên Tiên Hoàng không được trọn đời là do chưa làm hết việc người, không phải mệnh trời không giúp. Cũng vì vua không giữ được trọn đời khiến cho cái thuyết sấm đồ đắc thắng, đời sau không thể không bị mê hoặc vì điều đó."[/I] Sự kiện cái chết của Đinh Tiên Hoàng còn nhiều nghi vấn. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu hiện đại khẳng định chắc chắn Tiên Hoàng bị hại không phải vì Đỗ Thích muốn đoạt ngôi và có nhiều ý kiến[23] nghiêng về khả năng thủ phạm là Lê Hoàn và Dương hậu. [/SIZE] [B][SIZE=5] VI. Điểm giống Tần Thủy Hoàng[/SIZE][/B] [SIZE=5] Cuộc đời và sự nghiệp vua Đinh Tiên Hoàng của Việt Nam, có nhiều điểm giống với Tần Thủy Hoàng của Trung Hoa: - Tên gọi Tiên Hoàng hay Thủy Hoàng đều có ý nghĩa là hoàng đế đầu tiên. Đinh Tiên Hoàng là vị hoàng đế mở nền chính thống đầu tiên của nước Việt thống nhất[24], Tần Thủy Hoàng là hoàng đế đầu tiên thống nhất Trung Hoa. Thời gian ở ngôi hoàng đế đều là 12 năm: Đinh Tiên Hoàng (968 - 979), Tần Thủy Hoàng (221 - 210 TCN). - Danh hiệu: Trước khi làm hoàng đế, cả hai đều có vương hiệu: Thuỷ Hoàng là Tần Vương, Tiên Hoàng là Vạn Thắng Vương. Sự thăng tiến trong danh hiệu này không chỉ là thăng tiến trong sự nghiệp cá nhân mà còn đều đánh dấu sự thay đổi của lịch sử quốc gia. Từ thời nhà Chu, các vua đứng đầu thiên hạ (thiên tử) đều chỉ xưng vương, các chư hầu thời Chiến Quốc cũng chỉ xưng vương, từ Tần Thủy Hoàng chính thức xưng hoàng đế là sự thay đổi "nâng bậc" về danh hiệu của vua đứng đầu thiên hạ. Đinh Bộ Lĩnh trong lịch sử Việt Nam cũng tương tự: từ khi giành độc lập trở lại thời họ Khúc, những người cầm quyền ban đầu đều chỉ xưng Tiết độ sứ với tư cách "trưởng quan" cai trị một vùng lãnh thổ thuộc về Trung Quốc. Tới nhà Ngô, các vua mới xưng vương và tới Đinh Bộ Lĩnh xưng hoàng đế, cũng là sự thay đổi lớn, tạo dấu ấn trong lịch sử quốc gia như Tần Thủy Hoàng. - Đinh Tiên Hoàng xây dựng thành Hoa Lư bằng cách nối lại các dãy núi đá trong tự nhiên bằng tường thành nhân tạo, Tần Thuỷ Hoàng xây dựng Vạn Lý Trường Thành cũng bằng cách nối lại các đoạn thành sẵn có của các nước chư hầu. Cả hai đều lập đô ở những vùng núi non hiểm trở. - Đinh Tiên Hoàng Đế và Tần Thủy Hoàng Đế cùng trở thành hoàng đế sau khi tiêu diệt các thế lực cát cứ phân tán (dẹp nội chiến) để lập nên một đất nước thống nhất, tự chủ, chuyển đổi chế độ phong kiến phân quyền sang chế độ phong kiến tập quyền. - Cả Đinh Tiên Hoàng và Tần Thủy Hoàng khi làm vua đều dùng chính sách cai trị bằng pháp luật nghiêm khắc. - Đinh Tiên Hoàng và Tần Thủy Hoàng khi mất đều đương quyền hoàng đế, người kế tục sự nghiệp đều là con thứ và sớm để quyền bính rơi vào tay quyền thần. Hai triều đại mà hai hoàng đế sáng lập đều ngắn ngủi. VII. Đời tư Theo Đại việt sử ký toàn thư, Vua Đinh Tiên Hoàng lập 5 hoàng hậu là Đan Gia, Trinh Minh, Kiều Quốc, Cồ Quốc và Ca Ông. Trong đó được nhắc đến nhiều là hoàng hậu hai triều Dương Vân Nga và bà tổ nghề may Nguyễn Thị Sen. Về các con Vua Đinh Tiên Hoàng, các sử chép thống nhất có 3 con trai Đinh Liễn, Đinh Hạng Lang, Đinh Toàn. Riêng con gái vua không chép rõ ràng nhưng căn cứ vào các thần tích tại nhiều đền thờ có thể thấy ít nhất vua có 4 con gái là công chúa Phất Kim (được thờ ở đền thờ công chúa Phất Kim khu di tích cố đô Hoa Lư), công chúa Phù Dung (được thờ ở đình Phù Sa, xã Viên Sơn thị xã Sơn Tây Hà Nội)[25], công chúa Minh Châu là vợ của Trần Thăng, em sứ quân Trần Lãm và công chúa Liên Hoa (được thờ ở đình Trâm Nhị, Ân Thi, Hưng Yên). [/SIZE] [B][SIZE=5] VIII. Tôn vinh[/SIZE][/B] [SIZE=5] Hầu hết các thành phố, thị xã ở Việt Nam đều có đường mang tên Đinh Tiên Hoàng. Các vận động viên thể thao khi gia nhập quốc tịch Việt Nam cũng lấy họ theo vua như Đinh Hoàng La, Đinh Hoàng Max (bóng đá), Đinh Hoàng Chai (bóng chuyền) Tháng 3 năm 2011, chiếc tàu hộ tống mang tên lửa lớp Gepard 3.9 đầu tiên của Hải quân nhân dân Việt Nam được đặt tên là Đinh Tiên Hoàng.[26][27] [/SIZE] [B][SIZE=5] 1. Trong văn học, nghệ thuật[/SIZE][/B] [SIZE=5] Ngoài các tư liệu chính sử, trong văn học Việt Nam có nhiều tác phẩm nổi tiếng viết về Đinh Bộ Lĩnh tiêu biểu như: Cờ lau dựng nước, Trận chiến trong thung lũng, Hoàng đế cờ lau, Sử ca Đinh Bộ Lĩnh, truyền thuyết sông Hoàng Long, truyền thuyết con ngựa đá, bóng cờ lau... Trong đó có tác phẩm đã được chuyển đổi thành phim nhựa như “Trận chiến trong thung lũng”, “Hoàng đế cờ lau” và "Đinh Tiên Hoàng đế". Trong dân gian, Đinh Bộ Lĩnh còn được xưng tụng với những tên gọi: anh hùng Vạn Thắng Vương, Đại Thắng Minh Hoàng đế... Hình ảnh Đinh Bộ Lĩnh thời niên thiếu đã đi vào thơ ca tuổi trẻ Việt Nam từ thời tiểu học: [/SIZE] [I][SIZE=5]“Bé thì chăn nghé, chăn trâu Trận bày đã lấy bông lau làm cờ Lớn lên xây dựng cơ đồ Mười hai sứ tướng bây giờ đều thua”[/SIZE][/I] [SIZE=5] [/SIZE] [B][SIZE=5]2. Đền thờ, tượng đài[/SIZE][/B] [SIZE=5] Các đền thờ Đinh Bộ Lĩnh có ở nhiều vùng miền khác nhau. Nổi bật nhất phải kể đến Ninh Bình với 16 đền thờ,[28][29] và nhiều nơi phối thờ đều nằm ở phía bắc tỉnh (trong khi các đền thờ Lê Đại Hành lại nằm ở nửa phía nam của tỉnh này). Các đền, đình này gồm: đền Vua Đinh Tiên Hoàng, đình Yên Trạch, đình Yên Thành ở khu di tích cố đô Hoa Lư, xã Trường Yên; đình Trung Trữ xã Ninh Giang, Hoa Lư; đền thờ Đinh Bộ Lĩnh ở xã Gia Phương, đình Viến và đền thung Lau ở động Hoa Lư, đình Kính Chúc và đình Thượng Kính Chúc, xã Gia Phú Gia Viễn; các đình Mỹ Hạ, đình Ngọc Nhị, đình Ngọc Ba xã Gia Thủy và các đình thôn Lược, thôn Me xã Sơn Lai huyện Nho Quan. Nam Định có đền vua Đinh ở xã Yên Thắng, đình Thượng Đồng ở xã Yên Tiến, Ý Yên; ở làng việt cổ Bách Cốc, Vụ Bản; đền vua Đinh ở Giao Thủy… Hà Nam có đền Lăng ở Thanh Liêm; đền Vua Đinh ở xã Đồng Hóa và đền Đặng Xá ở Văn Xá, Kim Bảng; đền Ung Liêm ở Phủ Lý… Hà Nội có đền thờ ở làng Cổ Điển, Tứ Hiệp, Thanh Trì… Xa hơn là Đà Nẵng có đền thờ vua Đinh ở xã Hoà Khương, Hoà Vang; Lạng Sơn có đền thờ Vua Đinh Tiên Hoàng ở thôn Quảng Trung xã Quảng Lạc, thành phố Lạng Sơn; Thanh Hóa có đền Vua Đinh ở làng Quan Thành, Triệu Sơn, Đăk Lăk có đình Cao Phong[30] ở Hòa Thắng, Buôn Ma Thuột ... Tượng đài anh hùng Đinh Bộ Lĩnh ở thành phố Hồ Chí Minh được dựng ở suối Tiên và công viên Tao Đàn. Tại trung tâm thành phố Ninh Bình đã xây dựng khu quảng trường - tượng đài Đinh Tiên Hoàng Đế.[31] Các vị quan trung thần của vua Đinh Tiên Hoàng được thờ chung ở rất nhiều nơi, qua đó thấy được sự nghiệp và tình cảm đặc biệt mà nhân dân dành cho vị vua này. Đó là các di tích: Phủ Khống ở Tràng An (Ninh Bình); đình làng Kim Sơn, (Gia Lâm, Hà Nội); Đình làng Đại Vi, xã Đại Hồng (Tiên Du, Bắc Ninh); Đình làng Mai Động (Hà Nam; Đình thôn Cẩm Du xã Thanh Lưu (Thanh Liêm, Hà Nam); Đình làng So xã Cộng Hòa (Quốc Oai, Hà Nội). Đình làng Thuỵ Trà xã Nam Trung (Nam Sách, Hải Dương). Tục đánh quân ở làng Yên Thư xã Yên Phương (Yên Lạc, Vĩnh Phúc) lại có các trò "Mục đồng đánh quân" và "Chợ mục đồng" suy tôn tinh thần thượng võ của Đinh Bộ Lĩnh khi qua đây đánh dẹp sứ quân Nguyễn Khoan ở Vĩnh Mỗ. Các lễ hội cố đô Hoa Lư, lễ hội động Hoa Lư ở Ninh Bình cũng diễn lại tích cờ lau tập trận của Đinh Bộ Lĩnh thuở nhỏ. [B]Chú thích[/B] 1. Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam ghi tên ông là Đinh Hoàn (丁環), Bộ Lĩnh là chức vụ, tuy nhiên quan điểm này không thông dụng, tạm bỏ vào chú thích 2. Nước Văn Lang thời đại Vua Hùng đến nước Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh, NXB Quân đội nhân dân trang 27 3. Nước Việt có nền quan chế độc lập từ khi nào? 4. Rước lửa thiêng từ cố đô Hoa Lư về Thăng Long 5. Phố Đinh Tiên Hoàng 6. Trên trang sở Văn hóa Thể thao Du lịch Ninh Bình 7. Theo các sử cũ như Đại Việt sử ký toàn thư thì cho rằng ông là người động Hoa Lư, nay là xã Gia Hưng, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình, tuy nhiên hiện nay người ta phủ nhận giả thiết này và các địa danh trên rất gần nhau, đều thuộc huyện Gia Viễn, xem bài động Hoa Lư 8. Địa danh này hiện thuộc thôn Đàm Xá, Gia Tiến, Gia Viễn. con đường Đinh Bộ Lĩnh chạy trốn từ Gia Phương đến Gia Tiến hiện vẫn được gọi là đường Vua Đinh. Tương truyền, khi người chú đuổi tới bến sông thì gặp người bạn của Đinh Công Trứ (cha ruột Đinh Bộ Lĩnh) đã quỳ sẵn ở đó và nói với Đinh Dự là đã có rồng chở Bộ Lĩnh sang sông. Ông làm như vậy để tạo "uy" cho Đinh Bộ Lĩnh khiến người chú cũng phải lạy và quay về. Sông đó là sông Hoàng Long hiện giờ 9. Thái Bình xưa được xác định thuộc Sơn Tây ngày nay, không phải thuộc tỉnh Thái Bình bây giờ 10. Có sách cho rằng Bình Kiều ở Khoái Châu, Hưng Yên. Phần lớn các tài liệu và ở đền Vua Đinh - Cố đô Hoa Lư có bản đồ chỉ ra Bình Kiều ở Thanh Hóa 11. Có tài liệu chỉ nói Đinh Bộ Lĩnh là con nuôi của Trần Minh Công. 12. Tiền Việt Nam 13. [1] 14. Từ Hùng Vương đến ngày cởi ách Bắc thuộc 15. Một đồng tiền, một niềm tự hào 16. Có nguồn ghi năm Quý Dậu 973 17. Theo cuốn sách “Cố đô Hoa Lư” NXB Văn hóa dân tộc của Nguyễn Văn Trò 18. Theo trang 25 cuốn Nước Văn Lang thời đại Vua Hùng đến nước Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh 19. Phan Duy Kha, Lã Duy Lan, Đinh Công Vĩ, Nhìn lại lịch sử, Nhà xuất bản Văn hoá thông tin, 2003. 20. "Việt Nam văn minh sử" - Lê Văn Siêu, NXB VHTT, 2004 21. "Việt Nam văn minh sử" - Lê Văn Siêu, NXB VHTT, 2004 22. Câu chuyện này ứng với sự nghiệp lớn và cái chết sớm của Đinh Tiên Hoàng 23. Phan Duy Kha, Lã Duy Lan, Đinh Công Vĩ, Nhìn lại lịch sử, Nhà xuất bản Văn hoá thông tin, 2003. 24. Thực ra cách gọi "Tiên Hoàng" để coi là hoàng đế đầu tiên, đã bỏ qua không tính tới 3 vị xưng đế trước, là Lý Nam Đế, Hậu Lý Nam Đế và Mai Hắc Đế; vì ba bị này xưng đế trong khoảng thời gian độc lập không dài giữa thời Bắc thuộc 25. Đình Phù Sa 26. Nga bàn giao Gepard 3.9 cho Việt Nam 27. Под флагом Вьетнама 28. Xem cuốn Cố đô Hoa Lư NXB VHDT, Nguyễn Đăng Trò trang 124 29. Những di tích đền thờ Đinh Tiên Hoàng 30. Đỉnh Cao Phong với tín ngưỡng của người Mường xa xứ (Số 89/2006) 31. Đẩy nhanh dự án Quảng trường Đinh Tiên Hoàng Đế [/SIZE] [B][SIZE=5]Theo wikipedia[/SIZE][/B] [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Nhân Vật Lịch Sử
Nhân vật Lịch sử Việt Nam
Đinh Tiên Hoàng (924 - 979) là vị vua sáng lập triều đại nhà Đinh
Top