Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KIẾN THỨC PHỔ THÔNG
Trung Học Cơ Sở
LỚP 9
Ngữ văn 9
Truyện Kiều - Nguyễn Du
Điển Tích trong Truyện Kiều
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="kem_97" data-source="post: 77756" data-attributes="member: 84499"><p>Hôm nay mình giới thiệu về các điển tích trong lần đầu Kiều đánh đàn nhé :</p><p></p><p><em>So dần dây vũ dây văn,</em></p><p><em>Bốn dây to nhỏ theo vần cung thương.</em></p><p><em>Khúc đâu hán sở chiến trường,</em></p><p><em>Nghe ra tiếng sắt tiếng vàng chen nhau.</em></p><p><em>Khúc đâu Tư Mã Phượng Cầu,</em></p><p><em>Nghe ra như oán như sầu phải chăng!</em></p><p><em>Kê khang này khúc Quảng Lăng,</em></p><p><em>Một rằng lưu thủy hai rằng hành vân.</em></p><p><em>Quá quan này khúc Chiêu Quân,</em></p><p><em>Nửa phần luyến chúa nửa phần tư gia.</em></p><p></p><p>Ðây là những bản nhạc: Khúc chiến trường giữa Hán và Sở, khúc Tư Mã phượng cầu của Tư Mã Tương Như, khúc Quảng lăng của Kê Khang, khúc đi cống Hồ của Chiêu Quân. Mỗi khúc có một tính chất đặc biệt.</p><p></p><p><span style="color: seagreen"><strong>Khúc "Hán Sở chiến trường"</strong></span></p><p></p><p>Tần Thuỷ Hoàng sau khi dẹp tan 6 nước: Yên, Tề, Sở, Nguỵ, Triệu, Hàn chấm dứt thời Chiến quốc (479- 220 trước DL)- cũng gọi là Thất hùng- thống nhất đất nước, lập nên nhà Tần. Nhưng vì chế độ nhà Tần quá khắc nghiệt, dân chúng nổi dậy chống lại. Trước có Trần Thắng, Ngô Quảng. Bước đầu dân nghèo chỉ chặt cây làm binh khí và dùng gậy làm cờ. Nhưng đều bị quân Tần đánh vỡ. Chỉ còn lại lực lượng của Lưu Bang ở đất Bái và hạng Võ ở đất Ngô chống cự được với quân Tần. Sau Hạng Võ đánh bại được tướng Tần là Chương Hàm ở đất Cự Lộc (tỉnh Hà Bắc), Lưu Bang thừa dịp, đem binh thẳng đến Hàm Dương (kinh đô nhà Tần) dứt được nhà Tần. Nhưng rồi qua phân làm hai nhà: Hán (Lưu Bang) và Sở (Hạng Võ) tương tranh.</p><p></p><p>Sở Hạng Võ có tướng tài, tham mưu giỏi mà không biết dùng. Hán Lưu Bang nhờ biết dùng người nên có nhiều bực hiền tài đến phò tá, như Tiêu Hà, Hàn Tín, Trương Lương được gọi là Tam Kiệt... nên đánh thắng được Sở, lên ngôi Vua, thống nhất đất nước (206 trước DL)</p><p></p><p>Cuộc tương tranh giữa Hán, Sở chỉ khoảng 10 năm nhưng cường độ chiến tranh lúc nào cũng khốc liệt. Cuối cùng, Sở Hạng Võ bị tướng soái của Hán Lưu Bang là Hàn Tín bao vây tại núi Cửu lý ở phía bắc thành Từ Châu. Tuy lâm vào tình thế nguy ngập, thiếu lương thảo nhưng bên cạnh vua Sở còn 8.000 tử đệ theo từ lúc ban đầu, ở vào lúc cùng, họ quyết tử chiến mở con đường máu, thẳng về Giang Ðông tức đất cũ, tu chỉnh binh mã, dựng lại thế lực để tiếp tục cuộc chiến đấu.</p><p></p><p>Như vậy là một bất lợi cho Hán, dầu có đại thắng bằng binh lực nhưng phải trả một giá rất đắt bằng xương máu. Vì thế, Trương Lương hiến kế là tìm cách phân tán 8.000 tử đệ để cô lập Hạng Võ. Có thế cuộc chiến thắng đỡ bớt hao sinh mạng. Trương Lương liền thừa lúc đêm khuya thanh vắng của tiết cuối thu lạnh lẽo, đi qua lại từ trên núi Kê Minh đến núi Cửu lý, thổi tiêu rồi hát. Trương Lương lại tuyển quân Hán học tiếng nước Sở cho hát bài "Bi ca tán Sở" do Trương soạn lấy.</p><p></p><p>Canh khuya đêm vắng, tiết trời lạnh lẽo, lá vàng rụng bay lả tả, tiếng tiêu thâm trầm, giọng hát ai oán gợi lòng thương nhớ gia đình cha mẹ già, vợ yếu con thơ... vọng vào dinh Sở. Quân Sở , tám ngàn tử đệ vốn người nước Sở, lìa quê nhà theo Hạng Võ nay gặp phải gian nguy, mạng sống như ngàn cân treo phải chỉ mành... nên trước chỉ buồn bã than thở, sau cùng càng thấm thía nước mắt đầm đìa, rồi bàn nhau bỏ trốn. Bên ngoài, Hàn Tín khéo léo nới rộng vòng vây để quân Sở tự do ra đi.</p><p></p><p>Chỉ trong ba đêm, tám ngàn tử đệ cùng quân sĩ các dinh trại của Sở, mười phần bỏ trốn hết bảy, tám. Cuối cùng, Hạng Võ phải từ biệt vợ là Ngu Cơ, cùng uống chén rượu buồn, cất tiếng hát một cách tuyệt vọng:</p><p></p><p>Lực bạt sơn hề khí cái thế</p><p>Thời bất lợi hề chuy bất thệ</p><p>Chuỳ bất thệ hề khả nại hà?</p><p>Ngu hề Ngu hề khả nại hà?</p><p></p><p>Tạm dịch:</p><p></p><p>Sức nhổ núi chừ khí hơn đời</p><p>Thời bất lợi chừ ngựa chẳng đi</p><p>Ngựa chẳng đi chừ biết làm sao?</p><p>Ngu chừ, Ngu chừ biết làm sao?</p><p></p><p>Ngu Cơ càng cảm động, cất giọng hoà lại:</p><p></p><p>Hán binh dĩ lược địa</p><p>Tứ diện Sở ca thinh</p><p>Ðại vương ý khí tận</p><p>Tiện thiếp hà biểu sinh</p><p></p><p>Tạm dịch:</p><p></p><p>Binh Hán chiếm lấy đất</p><p>Bốn mặt tiếng Sở kêu</p><p>Ðại vương y khí hết</p><p>Mạng sống thiếp phải liều</p><p></p><p><img src="https://i334.photobucket.com/albums/m435/mumu_love/a27-NguHuyenCo-1.jpg" alt="" class="fr-fic fr-dii fr-draggable " data-size="" style="" /></p><p>Ngu Cơ cầm gươm tự tử</p><p>Thế rồi Vua Sở Hạng Võ một người một ngựa đánh mở con đường máu, thoát khỏi vòng vây chạy đến bên sông Ô, nhưng không qua được sông, cuối cùng tự tử.</p><p></p><p>"Khúc Hán Sở chiến trường", "tiếng sắt tiếng vàng" là tiếng những binh khí bằng kim loại va chạm nhau. Tiếng đục (sắt), tiếng trong (vàng), nghe đàn mà cảm thấy như nghe TIẾNG GƯƠM GIÁO CHẠM MẠNH, SÁT PHẠT GIỮA CHIẾN TRƯỜNG. Ý nói khúc đàn hùng tráng, rộn rã hoà hợp với tâm hồn rộn rã, tưng bừng của người gảy đàn như mở màn, chào đón một cuộc hội ngộ của đôi bạn son trẻ đắm đuối yêu nhau.</p><p></p><p></p><p><span style="color: seagreen"><strong>Khúc "Tư Mã phượng cầu"</strong></span> </p><p>tức là khúc "Phượng cầu hoàng" (chim phượng trống tìm chim phượng mái) của Tư Mã Tương Như đàn tỏ tình với nàng Trác Văn Quân.</p><p></p><p>Tư Mã Tương Như tự Trường Khanh, người ở Thành Ðô đời vua Cảnh Ðế (163- 149 trước DL) nhà Hán. Người đa tài, văn hay đàn giỏi.</p><p></p><p>Khi lìa quê lên Trường An (kinh đô nhà Hán) lập công danh, đến con sông đầu làng, Tương Như viết trên cầu một câu: "Bất thừa cao xa tứ mã, bất phục quá thử Kiều" (không ngồi xe cao bốn ngựa, không qua lại cầu này nữa). Vì quyên tiền, Tương Như được làm một chức quan Lang.</p><p></p><p>Vốn con người hào hoa phong nhã rất mực, làm quan một thời gian sinh chán, cáo bịnh từ quan qua chơi nước Lương, làm bài "Ngọc như ý" được vua nước Lương ban cho một cây đàn lục ỷ, trên khắc bốn chữ "đồng tử hợp tinh", lại trở về đất Thục. Ðến đâu, Tương Như cũng dùng bút mực và cây đàn để giao thiệp bằng hữu.</p><p></p><p>Khi đến đất Lâm cùng, Tương Như vốn sẵn quen thân với quan Lịnh ở huyện là Vương Cát nên đến chơi. Cát lại mời Tương Như cùng đi dự tiệc ở nhà Trác Vương Tôn là viên ngoại trong huyện. Nghe tiếng Tương Như đàn hay nên quan huyện cùng Trác Vương Tôn yêu cầu Tương Như cho thưởng thức một bài.</p><p></p><p>Trác ông vốn có người con gái rất đẹp tên Văn Quân còn trẻ mà sớm goá chồng, thích nghe đàn. Tương Như được biết, sinh lòng yêu mến, nhân đó định trêu nàng nên vừa đàn vừa hát "Khúc Phượng cầu hoàng":</p><p></p><p>"Phượng hề phượng hề quy cố hương</p><p>Ngao du tứ hải cầu kỳ hoàng</p><p>Thời vị ngô hề vô sở tương</p><p>Hữu diện thục nữ tại khuê phường</p><p>Thất nhĩ ngân hà, sầu ngã trường</p><p>Hà duyên giao cảnh vi uyên ương</p><p>Tương hiệt ương hề cộng cao tường"</p><p></p><p>Nghĩa:</p><p></p><p>"Chim phượng, chim phượng về cố hương</p><p>Ngao du bốn biển tìm chim hoàng</p><p>Thời chưa gặp chừ luống lỡ làng</p><p>Hôm nay bước đến chốn thênh thang</p><p>Có cô gái đẹp ở đài trang</p><p>Nhà gần người xa não tâm tràng</p><p>Ước gì giao kết đôi uyên ương</p><p>Bay liệng cùng nhau thoả mọi đường"</p><p>(Bản dịch của Trúc Khê)</p><p><img src="https://hinh.trochoivui.com/data/media/59/trac_van_quan34.png" alt="" class="fr-fic fr-dii fr-draggable " data-size="" style="" /></p><p>Tiếng đàn lảnh lót, giọng hát thâm trầm, ý đầy tình cảm, con người hào hoa phong nhã, Văn Quân đứng nép bên trong nghe tiếng nghìn người, biết người gợi ý đến mình nên lòng sinh bồi hồi cảm xúc. Rồi một đêm, nàng bỏ nhà đi theo tiếng gọi của tình yêu. Tương Như đưa nàng về nhà mình. Nhà quá nghèo, gió lộng bốn bề. Ông già họ Trác quyết định từ con.</p><p></p><p>Tương Như nghèo nàn buồn bã, đem chiếc áo cừu túc sương đi cầm cho người ở chợ, để mua rượu về cùng Văn Quân đối ẩm. Văn Quân ôm đầu, khóc nói: "Ta xưa này giàu có, nay đến nỗi phải đi cầm áo mua rượu, buồn biết chừng nào!"</p><p></p><p>Thế rồi, vợ chồng mở một quán nấu rượu. Văn Quân giữ việc nhóm lò nấu rượu, còn Tương Như thì mặc quần cộc làm lụng rửa vò hủ ở chợ.</p><p></p><p>Sau Hán Võ đế đọc bài "Tử hư phú" của Tương Như, khen tài mới vời vào triều, ban chức quan Lang. Vì muốn thông sứ các dân tộc miền Tây nam, nhà vua phong chức Trang Lang tướng, cầm cờ tiết mao đi sứ. Tương Như vào đến đất Thục, quan lại từ dưới đến Thái thú đều ra tận ngoài thành tiếp rước, quan huyện Lịnh thì vác cung nỏ đi tiền khu; người người đón tiếp long trọng. Trác Vương Tôn bấy giờ không còn dám khinh thường chàng rể nữa. Nhưng Tương Như làm quan ít lâu lại chán, cáo bịnh lui về quê.</p><p></p><p>"Khúc Tư Mã phượng cầu" tức là khúc "Phượng cầu hoàng" mà Tư Mã Tương Như gảy tỏ tình với Trác Văn Quân. Ðây là một khúc đàn tình tứ lãng mạn khá đẹp.</p><p></p><p>Trong "Bích Câu Kỳ ngộ" của Vô Danh, có câu:</p><p></p><p>Cầu hoàng tay lựa nên vần</p><p>Tương Như lòng ấy Văn Quân lòng nào</p><p></p><p>Qua phút từng bừng rộn rã "tiếng sắt tiếng vàng chen nhau" như "Hán Sở chiến trường", thì bây giờ tình cảm chuyển sang thâm trầm, dịu dàng, đằm thắm, thiết tha, chứa chan mộng đẹp lâng lâng của một mối tình đầu như nụ hoa tình chớm nở buổi sương mai</p></blockquote><p></p>
[QUOTE="kem_97, post: 77756, member: 84499"] Hôm nay mình giới thiệu về các điển tích trong lần đầu Kiều đánh đàn nhé : [I]So dần dây vũ dây văn, Bốn dây to nhỏ theo vần cung thương. Khúc đâu hán sở chiến trường, Nghe ra tiếng sắt tiếng vàng chen nhau. Khúc đâu Tư Mã Phượng Cầu, Nghe ra như oán như sầu phải chăng! Kê khang này khúc Quảng Lăng, Một rằng lưu thủy hai rằng hành vân. Quá quan này khúc Chiêu Quân, Nửa phần luyến chúa nửa phần tư gia.[/I] Ðây là những bản nhạc: Khúc chiến trường giữa Hán và Sở, khúc Tư Mã phượng cầu của Tư Mã Tương Như, khúc Quảng lăng của Kê Khang, khúc đi cống Hồ của Chiêu Quân. Mỗi khúc có một tính chất đặc biệt. [COLOR=seagreen][B]Khúc "Hán Sở chiến trường"[/B][/COLOR] Tần Thuỷ Hoàng sau khi dẹp tan 6 nước: Yên, Tề, Sở, Nguỵ, Triệu, Hàn chấm dứt thời Chiến quốc (479- 220 trước DL)- cũng gọi là Thất hùng- thống nhất đất nước, lập nên nhà Tần. Nhưng vì chế độ nhà Tần quá khắc nghiệt, dân chúng nổi dậy chống lại. Trước có Trần Thắng, Ngô Quảng. Bước đầu dân nghèo chỉ chặt cây làm binh khí và dùng gậy làm cờ. Nhưng đều bị quân Tần đánh vỡ. Chỉ còn lại lực lượng của Lưu Bang ở đất Bái và hạng Võ ở đất Ngô chống cự được với quân Tần. Sau Hạng Võ đánh bại được tướng Tần là Chương Hàm ở đất Cự Lộc (tỉnh Hà Bắc), Lưu Bang thừa dịp, đem binh thẳng đến Hàm Dương (kinh đô nhà Tần) dứt được nhà Tần. Nhưng rồi qua phân làm hai nhà: Hán (Lưu Bang) và Sở (Hạng Võ) tương tranh. Sở Hạng Võ có tướng tài, tham mưu giỏi mà không biết dùng. Hán Lưu Bang nhờ biết dùng người nên có nhiều bực hiền tài đến phò tá, như Tiêu Hà, Hàn Tín, Trương Lương được gọi là Tam Kiệt... nên đánh thắng được Sở, lên ngôi Vua, thống nhất đất nước (206 trước DL) Cuộc tương tranh giữa Hán, Sở chỉ khoảng 10 năm nhưng cường độ chiến tranh lúc nào cũng khốc liệt. Cuối cùng, Sở Hạng Võ bị tướng soái của Hán Lưu Bang là Hàn Tín bao vây tại núi Cửu lý ở phía bắc thành Từ Châu. Tuy lâm vào tình thế nguy ngập, thiếu lương thảo nhưng bên cạnh vua Sở còn 8.000 tử đệ theo từ lúc ban đầu, ở vào lúc cùng, họ quyết tử chiến mở con đường máu, thẳng về Giang Ðông tức đất cũ, tu chỉnh binh mã, dựng lại thế lực để tiếp tục cuộc chiến đấu. Như vậy là một bất lợi cho Hán, dầu có đại thắng bằng binh lực nhưng phải trả một giá rất đắt bằng xương máu. Vì thế, Trương Lương hiến kế là tìm cách phân tán 8.000 tử đệ để cô lập Hạng Võ. Có thế cuộc chiến thắng đỡ bớt hao sinh mạng. Trương Lương liền thừa lúc đêm khuya thanh vắng của tiết cuối thu lạnh lẽo, đi qua lại từ trên núi Kê Minh đến núi Cửu lý, thổi tiêu rồi hát. Trương Lương lại tuyển quân Hán học tiếng nước Sở cho hát bài "Bi ca tán Sở" do Trương soạn lấy. Canh khuya đêm vắng, tiết trời lạnh lẽo, lá vàng rụng bay lả tả, tiếng tiêu thâm trầm, giọng hát ai oán gợi lòng thương nhớ gia đình cha mẹ già, vợ yếu con thơ... vọng vào dinh Sở. Quân Sở , tám ngàn tử đệ vốn người nước Sở, lìa quê nhà theo Hạng Võ nay gặp phải gian nguy, mạng sống như ngàn cân treo phải chỉ mành... nên trước chỉ buồn bã than thở, sau cùng càng thấm thía nước mắt đầm đìa, rồi bàn nhau bỏ trốn. Bên ngoài, Hàn Tín khéo léo nới rộng vòng vây để quân Sở tự do ra đi. Chỉ trong ba đêm, tám ngàn tử đệ cùng quân sĩ các dinh trại của Sở, mười phần bỏ trốn hết bảy, tám. Cuối cùng, Hạng Võ phải từ biệt vợ là Ngu Cơ, cùng uống chén rượu buồn, cất tiếng hát một cách tuyệt vọng: Lực bạt sơn hề khí cái thế Thời bất lợi hề chuy bất thệ Chuỳ bất thệ hề khả nại hà? Ngu hề Ngu hề khả nại hà? Tạm dịch: Sức nhổ núi chừ khí hơn đời Thời bất lợi chừ ngựa chẳng đi Ngựa chẳng đi chừ biết làm sao? Ngu chừ, Ngu chừ biết làm sao? Ngu Cơ càng cảm động, cất giọng hoà lại: Hán binh dĩ lược địa Tứ diện Sở ca thinh Ðại vương ý khí tận Tiện thiếp hà biểu sinh Tạm dịch: Binh Hán chiếm lấy đất Bốn mặt tiếng Sở kêu Ðại vương y khí hết Mạng sống thiếp phải liều [IMG]https://i334.photobucket.com/albums/m435/mumu_love/a27-NguHuyenCo-1.jpg[/IMG] Ngu Cơ cầm gươm tự tử Thế rồi Vua Sở Hạng Võ một người một ngựa đánh mở con đường máu, thoát khỏi vòng vây chạy đến bên sông Ô, nhưng không qua được sông, cuối cùng tự tử. "Khúc Hán Sở chiến trường", "tiếng sắt tiếng vàng" là tiếng những binh khí bằng kim loại va chạm nhau. Tiếng đục (sắt), tiếng trong (vàng), nghe đàn mà cảm thấy như nghe TIẾNG GƯƠM GIÁO CHẠM MẠNH, SÁT PHẠT GIỮA CHIẾN TRƯỜNG. Ý nói khúc đàn hùng tráng, rộn rã hoà hợp với tâm hồn rộn rã, tưng bừng của người gảy đàn như mở màn, chào đón một cuộc hội ngộ của đôi bạn son trẻ đắm đuối yêu nhau. [COLOR=seagreen][B]Khúc "Tư Mã phượng cầu"[/B][/COLOR] tức là khúc "Phượng cầu hoàng" (chim phượng trống tìm chim phượng mái) của Tư Mã Tương Như đàn tỏ tình với nàng Trác Văn Quân. Tư Mã Tương Như tự Trường Khanh, người ở Thành Ðô đời vua Cảnh Ðế (163- 149 trước DL) nhà Hán. Người đa tài, văn hay đàn giỏi. Khi lìa quê lên Trường An (kinh đô nhà Hán) lập công danh, đến con sông đầu làng, Tương Như viết trên cầu một câu: "Bất thừa cao xa tứ mã, bất phục quá thử Kiều" (không ngồi xe cao bốn ngựa, không qua lại cầu này nữa). Vì quyên tiền, Tương Như được làm một chức quan Lang. Vốn con người hào hoa phong nhã rất mực, làm quan một thời gian sinh chán, cáo bịnh từ quan qua chơi nước Lương, làm bài "Ngọc như ý" được vua nước Lương ban cho một cây đàn lục ỷ, trên khắc bốn chữ "đồng tử hợp tinh", lại trở về đất Thục. Ðến đâu, Tương Như cũng dùng bút mực và cây đàn để giao thiệp bằng hữu. Khi đến đất Lâm cùng, Tương Như vốn sẵn quen thân với quan Lịnh ở huyện là Vương Cát nên đến chơi. Cát lại mời Tương Như cùng đi dự tiệc ở nhà Trác Vương Tôn là viên ngoại trong huyện. Nghe tiếng Tương Như đàn hay nên quan huyện cùng Trác Vương Tôn yêu cầu Tương Như cho thưởng thức một bài. Trác ông vốn có người con gái rất đẹp tên Văn Quân còn trẻ mà sớm goá chồng, thích nghe đàn. Tương Như được biết, sinh lòng yêu mến, nhân đó định trêu nàng nên vừa đàn vừa hát "Khúc Phượng cầu hoàng": "Phượng hề phượng hề quy cố hương Ngao du tứ hải cầu kỳ hoàng Thời vị ngô hề vô sở tương Hữu diện thục nữ tại khuê phường Thất nhĩ ngân hà, sầu ngã trường Hà duyên giao cảnh vi uyên ương Tương hiệt ương hề cộng cao tường" Nghĩa: "Chim phượng, chim phượng về cố hương Ngao du bốn biển tìm chim hoàng Thời chưa gặp chừ luống lỡ làng Hôm nay bước đến chốn thênh thang Có cô gái đẹp ở đài trang Nhà gần người xa não tâm tràng Ước gì giao kết đôi uyên ương Bay liệng cùng nhau thoả mọi đường" (Bản dịch của Trúc Khê) [IMG]https://hinh.trochoivui.com/data/media/59/trac_van_quan34.png[/IMG] Tiếng đàn lảnh lót, giọng hát thâm trầm, ý đầy tình cảm, con người hào hoa phong nhã, Văn Quân đứng nép bên trong nghe tiếng nghìn người, biết người gợi ý đến mình nên lòng sinh bồi hồi cảm xúc. Rồi một đêm, nàng bỏ nhà đi theo tiếng gọi của tình yêu. Tương Như đưa nàng về nhà mình. Nhà quá nghèo, gió lộng bốn bề. Ông già họ Trác quyết định từ con. Tương Như nghèo nàn buồn bã, đem chiếc áo cừu túc sương đi cầm cho người ở chợ, để mua rượu về cùng Văn Quân đối ẩm. Văn Quân ôm đầu, khóc nói: "Ta xưa này giàu có, nay đến nỗi phải đi cầm áo mua rượu, buồn biết chừng nào!" Thế rồi, vợ chồng mở một quán nấu rượu. Văn Quân giữ việc nhóm lò nấu rượu, còn Tương Như thì mặc quần cộc làm lụng rửa vò hủ ở chợ. Sau Hán Võ đế đọc bài "Tử hư phú" của Tương Như, khen tài mới vời vào triều, ban chức quan Lang. Vì muốn thông sứ các dân tộc miền Tây nam, nhà vua phong chức Trang Lang tướng, cầm cờ tiết mao đi sứ. Tương Như vào đến đất Thục, quan lại từ dưới đến Thái thú đều ra tận ngoài thành tiếp rước, quan huyện Lịnh thì vác cung nỏ đi tiền khu; người người đón tiếp long trọng. Trác Vương Tôn bấy giờ không còn dám khinh thường chàng rể nữa. Nhưng Tương Như làm quan ít lâu lại chán, cáo bịnh lui về quê. "Khúc Tư Mã phượng cầu" tức là khúc "Phượng cầu hoàng" mà Tư Mã Tương Như gảy tỏ tình với Trác Văn Quân. Ðây là một khúc đàn tình tứ lãng mạn khá đẹp. Trong "Bích Câu Kỳ ngộ" của Vô Danh, có câu: Cầu hoàng tay lựa nên vần Tương Như lòng ấy Văn Quân lòng nào Qua phút từng bừng rộn rã "tiếng sắt tiếng vàng chen nhau" như "Hán Sở chiến trường", thì bây giờ tình cảm chuyển sang thâm trầm, dịu dàng, đằm thắm, thiết tha, chứa chan mộng đẹp lâng lâng của một mối tình đầu như nụ hoa tình chớm nở buổi sương mai [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KIẾN THỨC PHỔ THÔNG
Trung Học Cơ Sở
LỚP 9
Ngữ văn 9
Truyện Kiều - Nguyễn Du
Điển Tích trong Truyện Kiều
Top