Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
VĂN HỌC
Văn học dân gian
Điển cố, giai thoại văn học
Điển ngữ: cá kình
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="Hide Nguyễn" data-source="post: 89008" data-attributes="member: 6"><p><strong>Trong Văn học ta đã từng nghe đến điển ngữ Cá Kình, vậy cá kình là cá như thế nào ? Tại sao một số nhân vật trong văn học lại được ví như cá kình ?</strong></p><p><strong></strong></p><p></p><p></p><p><strong>Cá hổ kình</strong> hay <strong>Cá voi sát thủ</strong> (danh pháp khoa học: <em><strong>Orcinus orca</strong></em>) thuộc phân bộ Cá heo có răng là loài cá heo lớn nhất trong họ và cũng là loài cá voi ăn thịt hung dữ nhất đại dương, còn có một số tên gọi ít phổ biến hơn ví dụ Cá đen (Blackfish) hay Sói biển (Seawolf), Cá hổ kình sống tại tất cả các đại dương trên thế giới, từ Bắc Băng Dương và vùng châu Nam Cực cho đến các vùng biển nhiệt đới ấm áp.</p><p> Orca linh hoạt, nhanh nhẹn và là một loài động vật ăn thịt cơ hội. Một số ăn cá, một số săn các loài thú biển ( Sư tử biển, Hải cẩu, Cá voi và cả loài cá mập trắng lớn cũng là nạn nhân của nó ). Có thể có đến 5 loại (type) Orca khác nhau, một số có thể tách thành giống, loài phụ, thậm chí loài riêng biệt. Orca là loài có tổ chức xã hội cao, một số theo chế độ mẫu hệ, bền vững hơn bất kì loài thú nào khác. Cách cư xử xã hội phức tạp, kỹ thuật săn mồi, âm thanh giao tiếp của Orca được coi là một nét văn hóa của chúng. Tuy cá hổ kình không phải loài nguy cấp, một số quần thể cục bộ được coi là bị đe dọa hoặc ở tình trạng nguy cấp do ô nhiễm, sự suy giảm của con mồi, xung đột với các hoạt động đánh cá và tàu bè, mất môi trường sống, và vì cá voi. Cá hổ kình hoang dã thường không được xem là mối đe dọa đối với con người.[1] Tuy nhiên, có một số ghi nhận cá biệt về cá hổ kình trong môi trường nuôi nhốt tấn công người điều khiển tại các thủy cung.[2]</p><p></p><p></p><p>Orca còn được gọi là <strong>Cá voi sát thủ</strong> bởi chiến lược săn mồi rất hiệu quả và tàn nhẫn của chúng. Chúng có thể ăn những con cá nhỏ, nhưng cũng có thể ăn những con cá voi khác như cá voi lưng xám con. Bằng cách săn mồi theo bầy (thường là cả một gia đình gồm 3-5 con hoặc thậm chí là hai gia đình cùng kết hợp), chúng tách con cá voi con ra khỏi cá voi mẹ và liên tục dùng các cú húc đầu khủng khiếp tấn công cá voi con cho đến khi cá voi con tử vong. Cá voi sát thủ có đặc điểm là được trang bị 50 cái răng sắc nhọn[<em>cần dẫn nguồn</em>], tuy nhiên, chúng không đủ để cắn được lớp mỡ và da dày của cá voi con, vì vậy chúng ăn phần dễ bị tổn thương nhất của cá voi, đó là cái lưỡi giàu protein[<em>cần dẫn nguồn</em>]. Trong cuộc chiến săn mồi, các con cá voi sát thủ cái lại là những cá thể ở giữa vòng vây và làm nhiệm vụ vất vả hơn những con cá voi đực. Cá voi sát thủ đực có cái vây dài và nhọn hơn cá voi cái.[3]</p><p></p><p></p><p><strong>Phân loài</strong></p><p></p><p> Có thể có 3 đến 5 loại Orca có thể phân chia thành các giống, loài phụ hoặc loài riêng biệt. Trong những năm 1970 và 1980 , nghiên cứu bờ biển phía tây Canada và Hoa Kỳ đã chỉ rõ 3 loại (type) Orca sau đây:</p><p> </p><ul> <li data-xf-list-type="ul"><strong>Loại định cư</strong>: Đây là loại thường thấy nhất trong 3 loại tại những vùng bờ biển Đông bắc Thái bình dương bao gồm cả Puget Sound. “Thực đơn” chủ yếu của chúng là cá, đôi khi là mực. Chúng sống trong những gia đình (thường là mẫu hệ) liên kết chặt chẽ và phức tạp.</li> </ul><p></p><ul> <li data-xf-list-type="ul"><strong>Loại di cư</strong>: Loại Orca này hầu như chỉ ăn các loài thú biển; chúng không ăn cá. Chỉ ở lại phía Nam Alaska trong một thời gian ngắn, di chuyển theo từng nhóm từ 2 đến 6 cá thể. Khác với loại định cư, chúng có thể không luôn sống cùng nhau như một gia đình.</li> </ul><p>Con cái của loại di cư có vây lưng giống hình tam giác và nhọn hơn vây lưng con cái của loài định cư.</p><p> </p><ul> <li data-xf-list-type="ul"><strong>Loại xa bờ</strong>: Loại này được phát hiện năm 1988, sống ở ngoài khơi xa, thức ăn chủ yếu là cá, cá mập và rùa biển. Chúng thường di chuyển với những nhóm khoảng 60 cá thể. Con cái của loại này có vây lưng tròn hơn loại định cư và loại di cư. Hiện nay hiểu biết về tập quán của loại xa khơi còn rất hạn chế.</li> </ul><p>Loại Orca di cư và loại định cư sống trong cùng một vùng nhưng luôn tránh nhau. Cái tên di cư xuất phát từ niềm tin cho rằng chúng là những cá thể tự tách ra khỏi những đàn định cư lớn. Nhưng những nghiên cứu sau này chỉ ra rằng loại di cư không sinh ra từ những đàn định cư và ngược lại. Sự tiến hóa của hai loại này được cho rằng bắt đầu cách đây 2 triệu năm. Phân tích gen hiện tại cũng cho thấy chúng ít ra cũng không có quan hệ giao phối (interbred) với nhau khoảng 10.000 năm.</p><p> Ba loại Orca gần đây đã có được trong tài liệu nhiên cứu ở Nam Cực:</p><p> </p><ul> <li data-xf-list-type="ul"><strong>Loại A</strong>: Được coi là loại Orca “điển hình”. Thức ăn chủ yếu là cá voi Minke (feeding mostly on Minke Whales)</li> </ul><p></p><ul> <li data-xf-list-type="ul"><strong>Loại B</strong>: Nhỏ hơn loại A. Chúng có một miếng vá trắng vùng mắt rộng hơn, và có thêm miếng vá màu xám quanh vây lưng. Thức ăn chủ yếu là hải cẩu.</li> </ul><p></p><ul> <li data-xf-list-type="ul"><strong>Loại C</strong>: Là loại nhỏ nhất. Miếng vá trắng ở mắt có xu hướng trúc xuống phía trước, có miếng vá ở lưng như loại B. Sống trong những đàn lớn hơn 2 loại A, B. Ăn chủ yếu loại cá toothfish Nam cực.</li> </ul><p></p><p><strong>Hình dạng</strong></p><p></p><p> <img src="https://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/8/86/Type_C_Orcas.jpg/220px-Type_C_Orcas.jpg" alt="" class="fr-fic fr-dii fr-draggable " data-size="" style="" /> <img src="https://bits.wikimedia.org/skins-1.17/common/images/magnify-clip.png" alt="" class="fr-fic fr-dii fr-draggable " data-size="" style="" /></p><p> Type C killer whales in the Ross Sea. The eye patch slants forward.</p><p></p><p></p><p> </p><p> </p><p> Orca có màu đen ở phía trên thân mình, màu trắng ở ngực, bụng, 2 bên hông, phía trên sau mắt. Lúc nhỏ những phần trắng có màu vàng hay vàng cam, khi trưởng thành mới dần trở thành màu trắng. Con đực (Orca Nam cực) dài khoảng 6-8 m, có thể nặng hơn 6 tấn. Con cái (Orca Nam cực) nhỏ hơn với chiều dài 5-7 m, nặng 4-5 tấn.</p><p> Nếu lấy dữ liệu từ khắp nơi thì một con trưởng thành cân nặng từ 2.585 tới 7.257 kg. Hiện nay, Orca lớn nhất được biết đến là tại vùng bờ biển Nhật bản, nó dài khoảng 9,8m và nặng hơn 8 tấn. Con non mới sinh thường dài 2,4 m, nặng khoảng 180kg.</p><p> <strong> Vòng đời</strong></p><p></p><p> Orca cái trưởng thành ở tuổi 15, thời kỳ sinh sản kéo dài đến 40 tuổi và trung bình sống đến 50 tuổi, ngoại lệ có thể lên tới 70-80 tuổi ( trung bình sinh 5 con trong vòng đời) . Con đực có tuổi thọ thấp hơn, thường là 30, hiếm có trường hợp 50-60 tuổi.</p><p></p><p></p><p></p><p></p><p>Nguồn : Wikiviet.</p><p><em>Các bạn tìm hiểu chi tiết tại wikiviet.</em></p></blockquote><p></p>
[QUOTE="Hide Nguyễn, post: 89008, member: 6"] [B]Trong Văn học ta đã từng nghe đến điển ngữ Cá Kình, vậy cá kình là cá như thế nào ? Tại sao một số nhân vật trong văn học lại được ví như cá kình ? [/B] [B]Cá hổ kình[/B] hay [B]Cá voi sát thủ[/B] (danh pháp khoa học: [I][B]Orcinus orca[/B][/I]) thuộc phân bộ Cá heo có răng là loài cá heo lớn nhất trong họ và cũng là loài cá voi ăn thịt hung dữ nhất đại dương, còn có một số tên gọi ít phổ biến hơn ví dụ Cá đen (Blackfish) hay Sói biển (Seawolf), Cá hổ kình sống tại tất cả các đại dương trên thế giới, từ Bắc Băng Dương và vùng châu Nam Cực cho đến các vùng biển nhiệt đới ấm áp. Orca linh hoạt, nhanh nhẹn và là một loài động vật ăn thịt cơ hội. Một số ăn cá, một số săn các loài thú biển ( Sư tử biển, Hải cẩu, Cá voi và cả loài cá mập trắng lớn cũng là nạn nhân của nó ). Có thể có đến 5 loại (type) Orca khác nhau, một số có thể tách thành giống, loài phụ, thậm chí loài riêng biệt. Orca là loài có tổ chức xã hội cao, một số theo chế độ mẫu hệ, bền vững hơn bất kì loài thú nào khác. Cách cư xử xã hội phức tạp, kỹ thuật săn mồi, âm thanh giao tiếp của Orca được coi là một nét văn hóa của chúng. Tuy cá hổ kình không phải loài nguy cấp, một số quần thể cục bộ được coi là bị đe dọa hoặc ở tình trạng nguy cấp do ô nhiễm, sự suy giảm của con mồi, xung đột với các hoạt động đánh cá và tàu bè, mất môi trường sống, và vì cá voi. Cá hổ kình hoang dã thường không được xem là mối đe dọa đối với con người.[1] Tuy nhiên, có một số ghi nhận cá biệt về cá hổ kình trong môi trường nuôi nhốt tấn công người điều khiển tại các thủy cung.[2] Orca còn được gọi là [B]Cá voi sát thủ[/B] bởi chiến lược săn mồi rất hiệu quả và tàn nhẫn của chúng. Chúng có thể ăn những con cá nhỏ, nhưng cũng có thể ăn những con cá voi khác như cá voi lưng xám con. Bằng cách săn mồi theo bầy (thường là cả một gia đình gồm 3-5 con hoặc thậm chí là hai gia đình cùng kết hợp), chúng tách con cá voi con ra khỏi cá voi mẹ và liên tục dùng các cú húc đầu khủng khiếp tấn công cá voi con cho đến khi cá voi con tử vong. Cá voi sát thủ có đặc điểm là được trang bị 50 cái răng sắc nhọn[[I]cần dẫn nguồn[/I]], tuy nhiên, chúng không đủ để cắn được lớp mỡ và da dày của cá voi con, vì vậy chúng ăn phần dễ bị tổn thương nhất của cá voi, đó là cái lưỡi giàu protein[[I]cần dẫn nguồn[/I]]. Trong cuộc chiến săn mồi, các con cá voi sát thủ cái lại là những cá thể ở giữa vòng vây và làm nhiệm vụ vất vả hơn những con cá voi đực. Cá voi sát thủ đực có cái vây dài và nhọn hơn cá voi cái.[3] [B]Phân loài[/B] Có thể có 3 đến 5 loại Orca có thể phân chia thành các giống, loài phụ hoặc loài riêng biệt. Trong những năm 1970 và 1980 , nghiên cứu bờ biển phía tây Canada và Hoa Kỳ đã chỉ rõ 3 loại (type) Orca sau đây: [LIST] [*][B]Loại định cư[/B]: Đây là loại thường thấy nhất trong 3 loại tại những vùng bờ biển Đông bắc Thái bình dương bao gồm cả Puget Sound. “Thực đơn” chủ yếu của chúng là cá, đôi khi là mực. Chúng sống trong những gia đình (thường là mẫu hệ) liên kết chặt chẽ và phức tạp. [/LIST] [LIST] [*][B]Loại di cư[/B]: Loại Orca này hầu như chỉ ăn các loài thú biển; chúng không ăn cá. Chỉ ở lại phía Nam Alaska trong một thời gian ngắn, di chuyển theo từng nhóm từ 2 đến 6 cá thể. Khác với loại định cư, chúng có thể không luôn sống cùng nhau như một gia đình. [/LIST] Con cái của loại di cư có vây lưng giống hình tam giác và nhọn hơn vây lưng con cái của loài định cư. [LIST] [*][B]Loại xa bờ[/B]: Loại này được phát hiện năm 1988, sống ở ngoài khơi xa, thức ăn chủ yếu là cá, cá mập và rùa biển. Chúng thường di chuyển với những nhóm khoảng 60 cá thể. Con cái của loại này có vây lưng tròn hơn loại định cư và loại di cư. Hiện nay hiểu biết về tập quán của loại xa khơi còn rất hạn chế. [/LIST] Loại Orca di cư và loại định cư sống trong cùng một vùng nhưng luôn tránh nhau. Cái tên di cư xuất phát từ niềm tin cho rằng chúng là những cá thể tự tách ra khỏi những đàn định cư lớn. Nhưng những nghiên cứu sau này chỉ ra rằng loại di cư không sinh ra từ những đàn định cư và ngược lại. Sự tiến hóa của hai loại này được cho rằng bắt đầu cách đây 2 triệu năm. Phân tích gen hiện tại cũng cho thấy chúng ít ra cũng không có quan hệ giao phối (interbred) với nhau khoảng 10.000 năm. Ba loại Orca gần đây đã có được trong tài liệu nhiên cứu ở Nam Cực: [LIST] [*][B]Loại A[/B]: Được coi là loại Orca “điển hình”. Thức ăn chủ yếu là cá voi Minke (feeding mostly on Minke Whales) [/LIST] [LIST] [*][B]Loại B[/B]: Nhỏ hơn loại A. Chúng có một miếng vá trắng vùng mắt rộng hơn, và có thêm miếng vá màu xám quanh vây lưng. Thức ăn chủ yếu là hải cẩu. [/LIST] [LIST] [*][B]Loại C[/B]: Là loại nhỏ nhất. Miếng vá trắng ở mắt có xu hướng trúc xuống phía trước, có miếng vá ở lưng như loại B. Sống trong những đàn lớn hơn 2 loại A, B. Ăn chủ yếu loại cá toothfish Nam cực. [/LIST] [B]Hình dạng[/B] [IMG]https://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/8/86/Type_C_Orcas.jpg/220px-Type_C_Orcas.jpg[/IMG] [IMG]https://bits.wikimedia.org/skins-1.17/common/images/magnify-clip.png[/IMG] Type C killer whales in the Ross Sea. The eye patch slants forward. Orca có màu đen ở phía trên thân mình, màu trắng ở ngực, bụng, 2 bên hông, phía trên sau mắt. Lúc nhỏ những phần trắng có màu vàng hay vàng cam, khi trưởng thành mới dần trở thành màu trắng. Con đực (Orca Nam cực) dài khoảng 6-8 m, có thể nặng hơn 6 tấn. Con cái (Orca Nam cực) nhỏ hơn với chiều dài 5-7 m, nặng 4-5 tấn. Nếu lấy dữ liệu từ khắp nơi thì một con trưởng thành cân nặng từ 2.585 tới 7.257 kg. Hiện nay, Orca lớn nhất được biết đến là tại vùng bờ biển Nhật bản, nó dài khoảng 9,8m và nặng hơn 8 tấn. Con non mới sinh thường dài 2,4 m, nặng khoảng 180kg. [B] Vòng đời[/B] Orca cái trưởng thành ở tuổi 15, thời kỳ sinh sản kéo dài đến 40 tuổi và trung bình sống đến 50 tuổi, ngoại lệ có thể lên tới 70-80 tuổi ( trung bình sinh 5 con trong vòng đời) . Con đực có tuổi thọ thấp hơn, thường là 30, hiếm có trường hợp 50-60 tuổi. Nguồn : Wikiviet. [I]Các bạn tìm hiểu chi tiết tại wikiviet.[/I] [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
VĂN HỌC
Văn học dân gian
Điển cố, giai thoại văn học
Điển ngữ: cá kình
Top