Diễn biến tâm lý trong Chinh phụ ngâm

Bút Nghiên

ButNghien.com
DIỄN BIẾN TÂM LÝ TRONG "CHINH PHỤ NGÂM"


Diễn biến tâm trạng của người chinh phụ trong tác phẩm Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn .


Cần chú ý theo dõi hai vấn đề:

-Những vấn đề chinh phụ suy nghĩ và đặt ra.

-Sợi dây lôgic dẫn dắt quá trình tâm lí của chinh phụ.

1.Mở đầu khúc ngâm, người chinh phụ nhớ lại cảnh chia tay.

-Mâu thuẫn cơ bản đạt ra trong suốt tác phẩm là mâu thuẫn giữa phép công và niềm tây (niềm tư), mở đầu tác phẩm mối mâu thuẫn này cũng đã xuất hiện. Ðôi vợ chồng trẻ này đang sống trong hạnh phúc, yên ổn thì chiến tranh xảy ra. Vì tình thế khẩn trương, vì ý thức về nghĩa vụ, vì danh dự của trang nam nhi hào kiệt và đây cũng là dịp lập công danh, đem vinh hiển về cho gia đình, người chinh phu đã "xếp bút nghiên theo việc đao cung". Người chinh phụ sẽ nói gì cho thực tế tàn nhẫn này. Bên cạnh nỗi buồn, nỗi lưu luyến, sầu muộn chinh phụ cũng đã khẳng khái nói:

"Phép công là trọng, niềm tây sá nào"

Nàng đã ca ngợi chí khí, hành động của chinh phu:

"Chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt,
Xếp bút nghiên theo việc đao cung
Thành liền mong tiến bệ rồng
Thước gươm thề quyết chẳng dung giặc trời.
Chí làm trai dặm nghìn da ngựa
Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao.
Giã nhà đeo bức chiến bào
Thét roi cầu Vị ào ào gió thu".

Nàng thấy hình ảnh của người chồng rực rỡ, uy nghi như một trang dũng tướng giữa đoàn quân:

"Áo chàng đỏ tựa ráng pha
Ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in".
Ðó là về lí trí còn về mặt tình cảm thì:
"Ðưa chàng lòng dặc dặc buồn
Bộ khôn bằng ngựa, thủy khôn bằng thuyền".
"Bóng cờ, tiếng trống xa xa
Sầu lên ngọn ải, oán ra cửa phòng"

2.Sau hồi tiễn biệt người chinh phụ trở về chốn phòng khuê.

-Bằng đôi cánh của trí tưởng tượng nàng đã phóng tầm mắt ra chiến trường để theo dõi cuộc sống, vận mệnh của chinh phu nơi chiến địa.

+Cảnh chiến trường hiện lên trước mắt nàng thật đen tối. Ở đây không hề có tiếng ngựa hí, tiếng quân reo, hay tiếng va chạm của vũ khí mà chỉ có một luồng tử khí lạnh lẽo bao trùm.

Hồn tử sĩ gió ù ù thổi
Mặt chinh phu trăng dõi dõi theo

+Trong cảnh chiến trường đen tối ấy, chinh phụ cũng đã hình dung ra cuộc sống và vận mệnh của chinh phu. Cuộc sống của chàng thật gian lao, vất vả:

Ôm yên gối trống đã chồn
Nằm vùng cát trắng, ngủ cồn rêu xanh

Rồi hành quân di chuyển tưởng như không bao giờ chấm dứt:

Nay Hán xuống, Bạch Thành đóng lại


+Giữa hoàn cảnh hiểm nghèo, gian lao ấy chinh phu không còn giữ được khí thế hào hùng của buổi đầu xuất quân. Chàng trở nên mệt mỏi, bạc nhược trước cuộc sống chiến tranh:

Hơi gió lạnh người rầu mặt dạn
Dòng nước sâu ngựa nản chân bon
Não người áo giáp bấy lâu
Lòng quê qua đó mặt sầu chẳng khuây

+Nàng như đã nhìn thấy kết cục bi thảm của chồng mình ở chốn đạn lạc, tên rơi:

Chinh phu tử sĩ mấy người
Nào ai mạc mặt, nào ai gọi hồn?
hoặc Phận trai già ruổi chiến trường
Chàng Siêu mái tóc điểm sương mới về

+Những trang thơ này của tác phẩm đã đưa đến cho người đọc một nhận thức: Chiến tranh phong kiến không có chỗ nào dung hợp với con người, chiến tranh phong kiến là đối lập với cuộc sống con người. Trong quan niệm của nhà thơ những con người tham gia vào cuộc chiến tranh là những con người đi vào cõi chết. Quan niệm này thực chất là một cách phản đối chiến tranh.

-Sau khi trải qua những giây phút lo âu cho cuộc sống và vận mệnh của chồng nơi chiến địa chinh phụ trở lại với thực tại của mình. Giờ đây cuộc sống đơn chiếc, lẻ loi gợi lên trong tâm trí nàng bao nhiêu câu hỏi về nguyên nhân của sự xa cách:

Trong cửa này đã đành phận thiếp
Ngoài mây kia há kiếp chàng vay,
Những mong cá nước sum vầy.
Bao ngờ đôi ngả nước mây cách vời
Thiếp chẳng tưởng ra người chinh phụ,
Chàng há từng học lũ vương tôn
Cớ sao cách trở nước non
Khiến người thôi sớm thôi hôm những sầu
Khách phong lưu đương chừng niên thiếu
Sánh cùng nhau dan díu chữ duyên
Nỡ nào đôi lứa thiếu niên
Quan sơn để cách, hàn huyên bao đành

Ở đây cái nhận thức đầu tiên rõ rệt nhất của chinh phụ là cuộc sống hạnh phúc của vợ chồng nàng bị phá vỡ, hai người phải chia lìa đôi ngả là hết sức vô lí, là không thể chấp nhận được.

3.Tiếp theo, người chinh phụ sống trong hoàn cảnh vắng biệt tin chồng.

-Chinh phụ nhiều lần nhớ lại những lời hẹn của chồng nhưng Người sao mười hẹn chín thường đơn sai, rồi tiếp theo có lúc nàng được tin chồng, dần dần rồi vắng biệt. Vì vậy nàng đã phải sống trong một tâm trạng chờ đợi, hi vọng rồi thất vọng đến chua xót. Ðau khổ vì biệt li, vì chờ đợi, vì thất vọng đã làm cho nàng như khô héo thêm. Chiến tranh đã làm tàn phai nhan sắc, làm héo hon tấm lòng người vợ trẻ trông chồng.Sự đối lập giữa con người và chiến tranh càng trở nên mạnh mẽ.

Trâm cài, xiêm giắt thẹn thùng
Lệch vòng tóc rối, lỏng vòng lưng eo.

Nỗi sầu muộn như ngày càng chồng chất thêm trong lòng chinh phụ, nó như một sức mạnh vật chất đè nặng lên cuộc sống của nàng:

Sầu ôm nặng hãy chồng làm gối
Muộn chứa đầy hãy thổi làm cơm

Chinh phụ đã tìm mọi cách để giải sầu như xem hoa, đánh đàn thậm chí dùng cả biện pháp mạnh nhất là uống rượu, nhưng Sầu làm rượu nhạt, muộn làm hoa ôi.Nỗi sầu muộn vẫn lấn át tất cả, nỗi sầu muộn đã làm cho nàng mất hết mọi cảm giác trước cuộc sống.

-Mặt khác sự xa cách như một luồng gió mạnh thổi cháy bùng thêm khát vọng hạnh phúc ở chinh phụ. Vì thế nàng đã nghĩ đến việc được gần chồng và cuối cùng nàng đã tìm đến giấc mộng, trong mộng nàng đã được gặp lại người chồng thân yêu:

Duy còn hồn mộng được gần
Ðêm đêm thường đến Giang Tân tìm người
Tìm chàng thưở Dương đài lối cũ
Gặp chàng nơi Tương Phố bến xưa.

Nhưng mộng quá ngắn ngủi, vả lại mộng vẫn là mộng, thực vẫn là thực không sao thay thế cho nhau được. Trái lại cái đẹp đẽ của hồn mộng càng làm cho cuộc sống của nàng thêm chua xót hơn mà thôi:

Sum vầy mấy lúc tình cờ
Chẳng qua trên gối một giờ mộng xuân
Giận thiếp thân lại không bằng mộng
Ðược gần chàng bến Lũng thành quan
Khi mơ những tiếc khi tàn
Tình trong giấc mộng muôn vàn cũng không

Người chinh phụ nhận ra rằng cái hạnh phúc đáng quí nhất đối với nàng vẫn là hạnh phúc trần tục.

-Rồi chinh phụ lại tìm cách lên cao để ngóng trông chồng, nhưng lên cao nhìn khắp bốn bề Ðông, Tây, Nam, Bắc phía nào nàng cũng bắt gặp những cảnh buồn hiu hắt, tiêu điều. Chưa hết người chinh phụ lại ao ước có được phép tiên để đi gặp chồng nhưng rồi nàng phải thú nhận với lòng mình là điều đó không bao giờ có được. Người chinh phụ đã khai thác hết mọi khả năng, mong làm cho mình bớt sầu, bớt khổ, mong được gặp lại chồng nhưng đằng nào cũng thấy dựng lên những bức tường cao ngất. Bế tắc đến tuyệt vọng, chinh phụ đã phải thốt lên thật cay đắng:

Lòng này hóa đá cũng nên
E không lệ ngọc mà lên trông lầu

Chinh phụ tưởng chừng như không còn đủ sức chịu nổi nỗi đau đớn phải lên lầu một lần nữa. Cơn khủng hoảng tinh thần đã lên tới đỉnh điểm, con người thật trong chinh phụ đã bắt đầu cất tiếng nói, nàng hối hận vì giấc mộng công hầu mà để chồng ra đi chinh chiến để rồi hạnh phúc tuổi xuân bị dang dở:

Lúc ngoảnh lại ngắm màu dương liễu,
Thà khuyên chàng đừng chịu sắc phong

Trong con người chinh phụ giờ đây niềm tây đã chiến thắng phép công. Nàng đã dám phủ nhận lí tưởng công danh, nàng đã hiểu hạnh phúc lứa đôi có ý nghĩa hơn chiếc ấn phong hầu. Ðây cũng là một nét tâm lí phổ biến của con người thời đại lúc bấy giờ, chàng trai trong Chinh phu ngâm khúc cũng đã thú nhận:

Lòng ta không muốn mặc áo giáp
Bụng nàng há muốn giữ chinh y

-Ý nghĩ Thà khuyên chàng đừng chịu tước phong đặt vào hoàn cảnh lúc bấy giờ nó có ý nghĩa lúc bấy giờ vì nó coi trọng hạnh phúc, coi trọng sinh mệnh của con người. Nó có ý nghĩa phản chiến vì nó đối lập với âm mưu của giai cấp thống trị muốn dùng cái bả công danh để thúc đẩy binh sĩ, tướng tá ra trận để bảo vệ ngai vàng cho chúng, làm bia đỡ đạn cho chúng. Nhưng do điểm xuất phát của chinh phụ chỉ là hạnh phúc cá nhân, cho nên phản ứng của nàng chỉ có thể dừng lại ở mức độ đó.

4.Người chinh phụ tìm cách giải quyết mối mâu thuẫn giữa niềm tây và phép công bằng sự cầu nguyện.

-Nàng cầu mong cho ông trời phù hộ cho chồng mình trăm trận nên công và trở về trong ánh hào quang của chiến thắng với mọi vinh dự mà chế độ phong kiến có thể đưa lại cho những kẻ đã tận tâm phục vụ nó.

Bài liên quan : Đoạn trích tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ
( Sưu tầm )​
 
Tìm hiểu tác phẩm "Chinh phụ ngâm"

TÌM HIỂU TÁC PHẨM CHINH PHỤ NGÂM


I.TÁC GIẢ VÀ DỊCH GIẢ

1.Tác giả


-Chinh phụ ngâm là tác phẩm Hán văn rất nổi tiếng của Ðặng Trần Côn. Tiểu sử của tác giả cho đến nay biết được còn rất ít. Kể cả năm sinh năm mất cũng không biết chính xác. Các nhà nghiên cứu ước đoán ông sinh vào khoảng năm 1710-1720, mất khoảng 1745.

-Quê hương: Làng Nhân Mục, huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Ðông (nay là Hà Tây).

Ông có làm quan nhưng chức quan không lớn (ông từng làmhuấn đạo trường phủ., làm tri huyện Thanh Oai, cuối cùng làm chức Ngự sử đài chiếu khám).

-Về sáng tác: Chinh phụ ngâm là tác phẩm tiêu biểu nhất, ngoài ra ông có một số bài thơ, bài phú tả cảnh thiên nhiên. Khuynh hướng chung của thơ văn ông là đi sâu vào tình cảm, đi sâu vào nỗi lòng trắc ẩn, phức tạp, sâu kín của con người, nhất là đối với người phụ nữ.

2.Dịch giả:

-Chinh phụ ngâm ra đời đã gây một tiếng vang lớn trong giới nho sĩ đương thời. Người ta chú ý đến tác phẩm này không phải chỉ vì nghệ thuật điêu luyện của nó mà trước hết là vì tác phẩm đã thể hiện một khuynh hướng mới của văn học-khuynh hướng hướng tới cuộc sống của con người. Tác phẩm viết bằng chữ Hán giữa thời đại văn học Nôm đang nở rộ cho nên nhiều người đã tìm cách dịch nó ra chữ Nôm. Có nhiều bản dịch và phỏng dịch của Ðoàn Thị Ðiểm, Nguyễn Khản, Bạch Liên Am Nguyễn, Phan Huy Ích. Trong số có những bản dịch đó, có một bản dịch thành công nhất được gọi là Bài hiện hành (bản đang được lưu hành).Vấn đề đặt ra là ai là tác giả của bản dịch này? Hiện nay vẫn tồn tại hai khuynh hướng:

-Khuynh hướng thứ nhất cho rằng tác giả của bản dịch này là nữ sĩ Ðoàn Thị Ðiểm.

-Khuynh hướng thứ hai cho rằng tác giả của bản dịch này là Phan Huy Ích.

-Hiện nay những người biên soạn sách giáo khoa PTTH vẫn theo khuynh hướng thứ nhất.

II.ÐỀ TÀI VÀ NGUỒN CẢM HỨNG CỦA TÁC GIẢ, DỊCH GIẢ.

1.Ðề tài chiến tranh, chinh phu, chinh phụ là đề tài truyền thống và phổ quát của nhiều nền văn học.

-Trong văn học Việt Nam, tiếng nói oán trách chiến tranh đã vang lên từ những câu ca dao trữ tình đầy oán hận. Từ thế kỷ XV, nhà thơ Thái Thuận cũng đã từng đặt bút với đề tài này (Bài thơ Chinh phụ ngâm).

Thế kỷ XVII, Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng đã từng viết về đề tài này.

-Trong văn học Trung Quốc, văn học đời Hán đã để lại những bài thơ nổi tiếng về thảm họa chiến tranh. Ðặc biệt đến đời Ðường đã xuất hiện những nhà thơ chuyên khai thác đề tài này: Sầm Tham, Vương Xương Linh.

2.Cảm hứng của tác giả và dịch giả.

-Tác giả và dịch giả Chinh phụ ngâm có phần đã tìm nguồn thi hứng từ những trang sách cổ. Nhưng cái chính là nguồn cảm hứng của cả hai đều bắt nguồn từ hiện thực cuộc sống .

III.THỂ LOẠI, BÚT PHÁP, BỐ CỤC.

1.Thể loại:


Tìm hiểu đặc trưng thể loại để xacï định phương pháp tiếp cận tác phẩm. Chinh phụ ngâm là tác phẩm trữ tình, tác phẩm chỉ có một nhân vật -người chinh phụ- hình tượng cảm nghĩ. Toàn bộ khúc ngâm chỉ là sự diễn tả tâm trạng của người chinh phụ. Do đó phương pháp tiếp cận tác phẩm là phân tích diễn biến tâm trạng của nhân vật trữ tình.

2. Bút pháp

Tác phẩm được viết với bút pháp tượng trưng, ước lệ là chủ yếu. Khi phân tích phải đặc biệt chú ý đặc điểm này.

3.Bố cục:

Nguyên văn bằng chữ Hán gồm 477 câu. Bản dịch do nhà xuất bản Văn Hóa in có 408 câu. Bản in của nhà in Tân Việt có 412 câu. Có thể chia tác phẩm làm ba phần như sau:

-Phần 1:Bốn câu đầu, phần này có giá trị như phần đặt vấn đề.

-Phần 2: Tiếp đến câu 369 (Mọi bề trung hiếu thiếp xin vẹn tròn) đây là phần chính của khúc ngâm miêu tả tâm trạng của người chinh phụ với nhiều sắc thái khác nhau.

-Phần3: Phần kết thúc tác phẩm với ước mơ sum họp trong cảnh thanh bình.

IV. NỘI DUNG

1.Diễn biến tâm trạng của người chinh phụ.

Cần chú ý theo dõi hai vấn đề:

-Những vấn đề chinh phụ suy nghĩ và đặt ra.

-Sợi dây lôgic dẫn dắt quá trình tâm lí của chinh phụ.

4.1.1.Mở đầu khúc ngâm, người chinh phụ nhớ lại cảnh chia tay.

-Mâu thuẫn cơ bản đạt ra trong suốt tác phẩm là mâu thuẫn giữa phép công và niềm tây (niềm tư), mở đầu tác phẩm mối mâu thuẫn này cũng đã xuất hiện. Ðôi vợ chồng trẻ này đang sống trong hạnh phúc, yên ổn thì chiến tranh xảy ra. Vì tình thế khẩn trương, vì ý thức về nghĩa vụ, vì danh dự của trang nam nhi hào kiệt và đây cũng là dịp lập công danh, đem vinh hiển về cho gia đình, người chinh phu đã "xếp bút nghiên theo việc đao cung". Người chinh phụ sẽ nói gì cho thực tế tàn nhẫn này. Bên cạnh nỗi buồn, nỗi lưu luyến, sầu muộn chinh phụ cũng đã khẳng khái nói:

"Phép công là trọng, niềm tây sá nào"

Nàng đã ca ngợi chí khí, hành động của chinh phu:

"Chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt,
Xếp bút nghiên theo việc đao cung
Thành liền mong tiến bệ rồng
Thước gươm thề quyết chẳng dung giặc trời.
Chí làm trai dặm nghìn da ngựa
Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao.
Giã nhà đeo bức chiến bào
Thét roi cầu Vị ào ào gió thu".

Nàng thấy hình ảnh của người chồng rực rỡ, uy nghi như một trang dũng tướng giữa đoàn quân:

"Áochàng đỏ tựa ráng pha
Ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in".

Ðó là về lí trí còn về mặt tình cảm thì:

"Ðưa chàng lòng dặc dặc buồn
Bộ khôn bằng ngựa, thủy khôn bằng thuyền".
"Bóng cờ, tiếng trống xa xa
Sầu lên ngọn ải, oán ra cửa phòng"

4.1.2.Sau hồi tiễn biệt người chinh phụ trở về chốn phòng khuê.

-Bằng đôi cánh của trí tưởng tượng nàng đã phóng tầm mắt ra chiến trường để theo dõi cuộc sống, vận mệnh của chinh phu nơi chiến địa.

+Cảnh chiến trường hiện lên trước mắt nàng thật đen tối. Ở đây không hề có tiếng ngựa hí, tiếng quân reo, hay tiếng va chạm của vũ khí mà chỉ có một luồng tử khí lạnh lẽo bao trùm.

Hồn tử sĩ gió ù ù thổi
Mặt chinh phu trăng dõi dõi theo

+Trong cảnh chiến trường đen tối ấy, chinh phụ cũng đã hình dung ra cuộc sống và vận mệnh của chinh phu. Cuộc sống của chàng thật gian lao, vất vả:

Ôm yên gối trống đã chồn
Nằm vùng cát trắng, ngủ cồn rêu xanh

Rồi hành quân di chuyển tưởng như không bao giờ chấm dứt:

Nay Hán xuống, Bạch Thành đóng lại


+Giữa hoàn cảnh hiểm nghèo, gian lao ấy chinh phu không còn giữ được khí thế hào hùng của buổi đầu xuất quân. Chàng trở nên mệt mỏi, bạc nhược trước cuộc sống chiến tranh:

Hơi gió lạnh người rầu mặt dạn
Dòng nước sâu ngựa nản chân bon
Não người áo giáp bấy lâu
Lòng quê qua đó mặt sầu chẳng khuây

+Nàng như đã nhìn thấy kết cục bi thảm của chồng mình ở chốn đạn lạc, tên rơi:

Chinh phu tử sĩ mấy người
Nào ai mạc mặt, nào ai gọi hồn?

hoặc

Phận trai già ruổi chiến trường
Chàng Siêu mái tóc điểm sương mới về

+Những trang thơ này của tác phẩm đã đưa đến cho người đọc một nhận thức: Chiến tranh phong kiến không có chỗ nào dung hợp với con người, chiến tranh phong kiến là đối lập với cuộc sống con người. Trong quan niệm của nhà thơ những con người tham gia vào cuộc chiến tranh là những con người đi vào cõi chết. Quan niệm này thực chất là một cách phản đối chiến tranh.

-Sau khi trải qua những giây phút lo âu cho cuộc sống và vận mệnh của chồng nơi chiến địa chinh phụ trở lại với thực tại của mình. Giờ đây cuộc sống đơn chiếc, lẻ loi gợi lên trong tâm trí nàng bao nhiêu câu hỏi về nguyên nhân của sự xa cách:

Trong cửa này đã đành phận thiếp
Ngoài mây kia há kiếp chàng vay,
Những mong cá nước sum vầy.
Bao ngờ đôi ngả nước mây cách vời
Thiếp chẳng tưởng ra người chinh phụ,
Chàng há từng học lũ vương tôn
Cớ sao cách trở nước non
Khiến người thôi sớm thôi hôm những sầu
Khách phong lưu đương chừng niên thiếu
Sánh cùng nhau dan díu chữ duyên
Nỡ nào đôi lứa thiếu niên
Quan sơn để cách, hàn huyên bao đành

Ở đây cái nhận thức đầu tiên rõ rệt nhất của chinh phụ là cuộc sống hạnh phúc của vợ chồng nàng bị phá vỡ, hai người phải chia lìa đôi ngả là hết sức vô lí, là không thể chấp nhận được.

4.1.3.Tiếp theo, người chinh phụ sống trong hoàn cảnh vắng biệt tin chồng.

-Chinh phụ nhiều lần nhớ lại những lời hẹn của chồng nhưng Người sao mười hẹn chín thường đơn sai, rồi tiếp theo có lúc nàng được tin chồng, dần dần rồi vắng biệt. Vì vậy nàng đã phải sống trong một tâm trạng chờ đợi, hi vọng rồi thất vọng đến chua xót. Ðau khổ vì biệt li, vì chờ đợi, vì thất vọng đã làm cho nàng như khô héo thêm. Chiến tranh đã laòm tàn phai nhan sắc, làm héo hon tấm lòng người vợ trẻ trông chồng.Sự đối lập giữa con người và chiến tranh càng trở nên mạnh mẽ.

Trâm cài, xiêm giắt thẹn thùng
Lệch vòng tóc rối, lỏng vòng lưng eo.

Nỗi sầu muộn như ngày càng chồng chất thêm trong lòng chinh phụ, nó như một sức mạnh vật chất đè nặng lên cuộc sống của nàng:

Sầu ôm nặng hãy chồng làm gối
Muộn chứa đầy hãy thổi làm cơm

Chinh phụ đã tìm mọi cách để giải sầu như xem hoa, đánh đàn thậm chí dùng cả biện pháp mạnh nhất là uống rượu, nhưng Sầu làm rượu nhạt, muộn làm hoa ôi.Nỗi sầu muộn vẫn lấn át tất cả, nỗi sầu muộn đã làm cho nàng mất hết mọi cảm giác trước cuộc sống.

-Mặt khác sự xa cách như một luồng gió mạnh thổi cháy bùng thêm khát vọng hạnh phúc ở chinh phụ. Vì thế nàng đã nghĩ đến việc được gần chồng và cuối cùng nàng đã tìm đến giấc mộng, trong mộng nàng đã được gặp lại người chồng thân yêu:

Duy còn hồn mộng được gần
Ðêm đêm thường đếïn Giang Tân tìm người
Tìm chàng thưở Dương đài lối cũ
Gặp chàng nơi Tương Phố bến xưa.

Nhưng mộng quá ngắn ngủi, vả lại mộng vẫn là mộng, thực vẫn là thực không sao thay thế cho nhau được. Trái lại cái đẹp đẽ của hồn mộng càng làm cho cuộc sống của nàng thêm chua xót hơn mà thôi:

Sum vầy mấy lúc tình cờ
Chẳng qua trên gối một giờ mộng xuân
Giận thiếp thân lại không bằng mộng
Ðược gần chàng bến Lũng thành quan
Khi mơ những tiếc khi tàn
Tình trong giấc mộng muôn vàn cũng không

Người chinh phụ nhận ra rằng cái hạnh phúc đáng quí nhất đối với nàng vẫn là hạnh phúc trần tục.

-Rồi chinh phụ lại tìm cách lên cao để ngóng trông chồng, nhưng lên cao nhìn khắp bốn bề Ðông, Tây, Nam, Bắc phía nào nàng cũng bắt gặp những cảnh buồn hiu hắt, tiêu điều. Chưa hết người chinh phụ lại ao ước có được phép tiên để đi gặp chồng nhưng rồi nàng phải thú nhận với lòng mình là điều đó không bao giờ có được. Người chinh phụ đã khai thác hết mọi khả năng, mong làm cho mình bớt sầu, bớt khổ, mong được gặp lại chồng nhưng đằng nào cũng thấy dựng lên những bức tường cao ngất.
Bế tắc đến tuyệt vọng, chinh phụ đã phải thốt lên thật cay đắng:

Lòng này hóa đá cũng nên
E không lệ ngọc mà lên trông lầu

Chinh phụ tưởng chừng như không còn đủ sức chịu nổi nỗi đau đớn phải lên lầu một lần nữa. Cơn khủng hoảng tinh thần đã lên tới đỉnh điểm, con người thật trong chinh phụ đã bắt đầu cất tiếng nói, nàng hối hận vì giấc mộng công hầu mà để chồng ra đi chinh chiến để rồi hạnh phúc tuổi xuân bị dang dở:

Lúc ngoảnh lại ngắm màu dương liễu,
Thà khuyên chàng đừng chịu sắc phong

Trong con người chinh phụ giờ đây niềm tây đã chiến thắng phép công. Nàng đã dám phủ nhận lí tưởng công danh, nàng đã hiểu hạnh phúc lứa đôi có ý nghĩa hơn chiếc ấn phong hầu. Ðây cũng là một nét tâm lí phổ biến của con người thời đại lúc bấy giờ, chàng trai trong Chinh phu ngâm khúc cũng đã thú nhận:

Lòng ta không muốn mặc áo giáp
Bụng nàng há muốn giữ chinh y

-Ý nghĩ Thà khuyên chàng đừng chịu tước phong đặt vào hoàn cảnh lúc bấy giờ nó có ý nghĩa lúc bấy giờ vì nó coi trọng hạnh phúc, coi trọng sinh mệnh của con người. Nó có ý nghĩa phản chiến vì nó đối lập với âm mưu của giai cấp thống trị muốn dùng cái bả công danh để thúc đẩy binh sĩ, tướng tá ra trận để bảo vệ ngai vàng cho chúng, làm bia đỡ đạn cho chúng. Nhưng do điểm xuất phát của chinh phụ chỉ là hạnh phúc cá nhân, cho nên phản ứng của nàng chỉ có thể dừng lại ở mức độ đó.

4.1.4.Người chinh phụ tìm cách giải quyết mối mâu thuẫn giữa niềm tây và phép công bằng sự cầu nguyện.

-Nàng cầu mong cho ông trời phù hộ cho chồng mình trăm trận nên công và trở về trong ánh hào quang của chiến thắng với mọi vinh dự mà chế độ phong kiến có thể đưa lại cho những kẻ đã tận tâm phục vụ nó.

2.Giá trị phản chiến và giá trị nhân đạo của tác phẩm

4.2.1.Giá trị phản chiến.


-Theo dõi quá trình diễn biến tâm trạng của chinh phụ ta thấy có quá trình vận động, phát triển tuy rất chậm chạp khó thấy. Ðôi với cuộc chiến tranh mà chồng nàng tham gia, chinh phụ có một thái độ mâu thuẫn- vừa tán thành, vừa oán trách. Nhưng xét trong toàn bộ khúc ngâm, chúng ta thấy phần chủ yếu của tác phẩm không dành cho việc miêu tả thái độ tán thành mà chủ yếu tập trung vào miêu tả thái độ chán ghét chiến tranh.

-Về chất lượng, phần tả cảnh tươi sáng của cuộc chiến không phải không thành công nhưng phần có sức rung cảm người đọc mạnh mẽ nhất vần là phần miêu tả nỗi sầu muộn của người chinh phụ. Phần tả cảnh chiến trường đen tối đã thật sự gây một ấn tượng bi thảm rất nặng nề trong lòng người đọc. Vì thế, mặc dù khúc ngâm kết thúc trong cảnh tưng bừng của chiến thắng thì âm hưởng của toàn bộ khúc ngâm vẫn là âm hưởng bi ai, sầu oán. Khuynh hướng chính toát ra từ hình tượng của tác phẩm vẫn là khuynh hướng oán ghét chiến tranh phi nghĩa phong kiến.

-Tuy nhiên tiếng nói phản chiến ở đây sẽ có những hạn chế nhất định..

-Tuy tiếng nói phản chiến trong chinh phụ ngâm còn có những hạn chế, nhưng tác phẩm đã thể hiện được tấm lòng, tư tưởng, tình cảm của nhân dân ta trong một thời đại. Vì vậy về cơ bản tác phẩm vẫn chứa đựng một giá trị tiến bộ.

4.2.2.Giá trị nhân đạo.

Theo dõi quá trình diễn biến tâm trạng của chinh phụ chúng ta thấy sự thắng thế của niềm tây đối với phép công là tất yếu vì nó có quá trình chuẩn bị và những diễn biến phù hợp với tâm lí nhân vật. Vậy những nhân tố nào đã thúc đẩy sự thắng thế đó?

-Trước hết đó là lòng yêu thương chồng của chinh phụ, một tình yêu chân thành, đằm thắm có tính chất vị tha tuy có mang màu sắc quí tộc nhưng nó cũng nằm trong truyền thống tốt đẹp yêu chồng, thương con của người phụ nữ Việt Nam. Ðây chính là cơ sở để nỗi lòng cuả nhân dân lao động đồng cảm với nỗi lòng của chinh phụ. Trong tác phẩm ta thấy người chinh phụ muốn bù đắp cho những khổ sở của chồng nơi chiến trường và có khi nàng trách chồng bằng những lời đầy yêu thương.

-Tình yêu của nàng có tính chất vị tha nhưng không khắc kỷ, yêu thương chồng tha thiết nhưng đồng thời nàng cũng có ý thức khá sâu sắc về quyền sống, quyền hưởng hạnh phúc của mình. Ðây chính là nhân tố quan trọng nhất thúc đẩy niềm tây chiến thắng phép công.

Nói tóm lại chinh phụ vì yêu thương chồng mà oán ghét chiến tranh, thái độ oán ghét đó được tăng lên bởi lòng khao khát hạnh phúc, bởi ý thức về quyền sống cá nhân. Ghi nhận được điều này là một đóng góp độc đáo của Ðặng Trần Côn vào kho tàng văn học cổ Việt Nam trong quá khứ khi viết về đề tài chinh phu, chinh phụ. Ðây cũng chính là giá trị nhân đạo sâu sắc của tác phẩm.

V.MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ NGHỆ THUẬT

1.Tập cổ và sáng tạo.


- Hoàng Xuân Hãn cho rằng: Cả khúc ngâm này gần như một bài tập cổ.

-Tóm lại từ những tài liệu vay mượn, tác giả đã tạo ra một tác phẩm có quy mô lớn hơn bất cứ tác phẩm nào mà ông đã vay mượn.

2.Bút pháp tượng trưng và khả năng phản ánh chân thực cuộc sống.

-Trong Chinh phụ ngâm nghệ thuật ước lệ được sử dụng một cách phổ biến. Ở đây tất cả các chi tiết không nên hiểu theo ý nghĩa xác thực của nó mà phải hiểu trong tính chất ước lệ, tượng trưng.

- Sáng tác với bút pháp tượng trưng, ước lệ nhưng Chinh phụ ngâm vẫn phản ánh chân thực cuộc sống bởi vì tác phẩm đã nói được vấn đề cơ bản của thời đại, tâm lí của con người thời đại.

3.Nghệ thuật biểu hiện tâm trạng.

-Tác giả đã xây dựng được một kết cấu chặt chẽ, miêu tả được sự diễn biến phong phú, tinh vi trong tâm tình chinh phụ theo một trình tự lôgic tâm lí chặt chẽ bảo đảm sự thống nhất. Tác giả đã gắn tâm lí với hoàn cảnh, tôn trọng quy luật tâm lí. Ðau khổ tăng dần, nhận thức về chiến tranh cũng diễn biến. Ðây là kết quả của một quá trình suy ngẫm và thể hiện.

-Tác giả đã chú ý tả cảnh để tả tình, tình cảnh có khi thống nhất hoặc mâu thuẫn.

-Tác giả đã sử dụng thủ pháp trùng điệp (láy lại), liên hoàn (nối tiếp), chiếu ứng (so sánh) để tạo ra những đợt sóng cảm xúc.

-Tác giả đã chú ý khai thác nhiều yếu tố tâm lí như liên tưởng, hồi tưởng, tưởng tượng.

-Ngôn ngữ điêu luyện: Chinh phụ ngâm có cả một kho từ vựng diễn tả tình cảm u sầu với những sắc thái khác nhau.

*Tóm lại tác giả đã miêu tả tâm trạng của chinh phụ khá sâu sắc và tâm trạng ấy phản ánh con người Việt Nam- con người thiết tha với hạnh phúc. Vì thế tác phẩm giúp chúng ta hiểu con người Việt Nam trong hiện tại.

4.Thành công của bản dịch.

Bản dịch được coi như là một sáng tác phẩm có giá trị độc lập tương đối với nguyên văn.

VI. KẾT LUẬN

-Tuy có những hạn chế nhất định, nhưng Chinh phụ ngâm là tiếng nói khao khát hạnh phúc, khao khát hòa bình của dân tộc ta trong một thời đại nhất định. Tiếng nói ấy càng có ý nghĩa hơn bao giờ hết vì nó là tiếng nói của một người phụ nữ- nạn nhân đau khổ nhất của chế độ cũ. Ðương thời tác phẩm đã góp phần vào cuộc đấu tranh cho quyền sống, quyền hưởng hạnh phúc của con người, đấu tranh chống áp bức của giai cấp thống trị.

-Ngày nay, tiếng nói thiết tha với hạnh phúc tình yêu của tác phẩm còn rất có ích trong việc xây dựng tâm hồn cho thế hệ trẻ, đó cũng là lí do khiến cho tác phẩm được đưa vào chương trình của phổ thông trung học.

( Sưu tầm)​
 

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top