Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
DU LỊCH
Địa lí Việt Nam
Địa lí KT-XH Việt Nam
Địa lý thủ đô Hà Nội
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="vàng" data-source="post: 70334" data-attributes="member: 30905"><p><span style="font-size: 15px"><strong><span style="font-family: 'Arial'">Lịch sử địa danh thăng long - Hà Nội </span></strong></span></p><p></p><p> C<span style="font-family: 'Arial'">ó người nói văn minh loài người là văn minh của những dòng sông. Nằm trên lưu vực sông Hồng, con sông xuất phát từ Vân Nam, Trung Quốc và đổ ra cửa Ba Lạt (giữa Nam Định - Thái Bình), Hà Nội là tâm điểm của văn minh sông Hồng, văn minh Đại Việt.</span></p><p> </p><p> <span style="font-family: 'Arial'">Mười thế kỷ trước, trong Chiếu dời đô, Lý Công Uẩn đã nhận thấy, ngoài thế hổ phục, rồng chầu, Hà Nội là vùng đất cao thoáng bằng phẳng, dân cư đông đúc muôn vật giàu thịnh, là nơi đô hội của bốn phương, đáng làm kinh sư cho muôn đời.</span></p><p> <span style="font-family: 'Arial'">Ca dao nói về kinh đô Hà Nội có câu:</span><span style="font-family: 'Arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"></span></p><p> <span style="font-family: 'Arial'">"Nghìn năm văn vật" của Thủ đô Hà Nội còn ghi dấu nền văn hóa Phùng Nguyên (4000 năm trước) ở Văn Điển, văn hóa Đồng Đậu (3500 năm trước) ở Đông Anh, văn hóa Đông Sơn (hơn 2000 năm trước) ở Cổ Loa, Ngọc Hà... "Cố đô rồi lại tân đô", bây giờ người ta gọi cố đô Hoa Lư, cố đô Huế, nhưng thủ đô xưa nhất vẫn thuộc về Hà Nội.</span><span style="font-family: 'Arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"></span></p><p> <span style="font-family: 'Arial'">Các sách sử cũ đều ghi lược sử Hà Nội như sau : Đất Hà Nội có tên là hương Long Đỗ (Rốn Rồng) với Thành hoàng là Tô Lịch, một nhân vật lịch sử có thật mang nhiều màu sắc huyền thoại.</span></p><p></p><p> <span style="font-family: 'Arial'">Năm 545, Lý Bí đánh thắng nhà Lương, lập nên nước Vạn Xuân độc lập, tự xưng Lý Nam Đế, định đô ở cửa sông Tô Lịch, xây điện Vạn Thọ, chùa Khai Quốc, tức chùa Trấn Quốc ngày nay ở Hồ Tây. Đây chính là thủ đô đầu tiên của đất nước độc lập, sau đời các vua Hùng ở Phú Thọ, An Dương Vương ở Cổ Loa.</span><span style="font-family: 'Arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"></span></p><p> <span style="font-family: 'Arial'">Trong thời nước ta bị nhà Tùy (581 - 618), nhà Đường (618 - 907) đô hộ, lỵ sở, thành quách ở Hà Nội, có tên là Tống Bình. Thời vãn Đường, đổi tên là La Thành, hay Đại La. Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục chép: "Thành này do Trương Bá Nghi đắp từ năm Đại Lịch thứ hai (767) đời Đường; năm Trinh Nguyên thứ 7 (791), Triệu Xương đắp thêm. Năm Nguyên Hòa thứ 3 (808), Trương Chu lại sửa đắp lại. Năm Trường Khánh thứ 4 (824), Lý Nguyên Gia dời phủ trị tới bên sông Tô Lịch, đắp một cái thành nhỏ gọi là La Thành. Năm Hoàn Thông thứ 7 (866), Cao Biền đắp ngoại thành bao quanh kinh thành, cũng gọi tên là La Thành".</span></p><p></p><p> <span style="font-family: 'Arial'">Thăng Long, một tên gọi đẹp, mang hình tượng của sự linh thiêng và phát triển, mang hồn cốt của dân tộc, là thủ đô của kỷ nguyên độc lập, là cái mốc nghìn tuổi chúng ta tính đến ngày nay. Về sự kiện này, hầu như mọi người đều nhớ từ bài Chiếu dời đô, từ ghi chép của Đại Việt sử ký toàn thư: " Mùa thu, tháng 7 năm Canh Tuất (1010), vua từ thành Hoa Lư dời đô ra kinh phủ thành Đại La, tạm đỗ thuyền dưới thành, có rồng vàng hiện lên ở thuyền ngự, nhân đó đổi tên thành gọi là thành Thăng Long". Chữ Thăng Long khi ấy có nghĩa là Rồng bay. Năm 1802, nhà Nguyễn đóng đô ở Huế, với quan niệm "vua " là "rồng", "rồng" không ở Hà Nội, nên đổi chữ "Long" là "Thịnh vượng".</span></p><p></p><p> <span style="font-family: 'Arial'">Năm 1397, Thăng Long đổi thành Đông Đô. "Mùa hạ, tháng 4 năm Đinh Sửu (1397) lấy phó tướng Lê Hán Thương (Hồ Hán Thương) coi phủ đô hộ là Đông Đô (Đại Việt sử ký toàn thư). "Đông Đô tức Thăng Long, lúc ấy gọi Thanh Hóa là Tây Đô, Thăng Long là Đông Đô (Khâm định Việt sử thông giám cương mục). Năm 1408 quân Minh xâm lược nước ta, đổi tên Đông Đô là Đông Quan với ý là cửa quan phía đông của nhà Minh. Sau 10 năm khởi nghĩa, năm 1428, Lê Lợi giải phóng đất nước đổi tên Đông Quan thành Đông Kinh, người châu Âu phiên là Tonkin. Đại Việt sử ký toàn thư chép: "Mùa hạ, tháng 4 năm Đinh Mùi, Vua (Lê Lợi) từ điện tranh ở Bồ Đề, vào đóng ở thành Đông Kinh, đại xá, đổi niên hiệu là Thuận Thiên, dựng quốc hiệu là Đại Việt, đóng đô ở Đông Kinh, tức là thành Thăng Long. Vì Thanh Hóa có Tây Đô, cho nên gọi thành Thăng Long là Đông Kinh".</span><span style="font-family: 'Arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"></span></p><p> <span style="font-family: 'Arial'">Năm 1831, vua Minh Mạng lập tỉnh Hà Nội. Nghĩa của từ Hà Nội là nằm giữa hai con sông, sông Hồng và sông Đáy.</span></p><p> <span style="font-family: 'Arial'">Từ năm 1887 - 1945, Hà Nội là thủ phủ của Đông Dương thuộc Pháp.</span></p><p> <span style="font-family: 'Arial'">Năm 1945, Hà Nội là nơi làm việc của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa.</span></p><p> <span style="font-family: 'Arial'">Ngày 2-7-1976, Hà Nội là Thủ đô của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.</span></p><p> <span style="font-family: 'Arial'">Hà Nội trong lịch sử còn có các tên là Phụng Thành (thế kỷ 16, Hà Nội có tên phủ Phụng Thiên); Bắc Thành (thời Tây Sơn), Long Thành, Hà Thành, Thành Hoàng Diệu (tên gọi thời kháng chiến chống thực dân Pháp để nêu cao khí tiết yêu nước)...</span></p><p> <span style="font-family: 'Arial'">Với văn hiến nổi bật, với những đóng góp lớn lao cho nhân loại, Hà Nội được ngợi ca là thủ đô của phẩm giá con người, là thành phố vì hòa bình.</span></p><p></p><p><span style="font-family: 'Arial'"><em><strong>ST</strong></em></span></p></blockquote><p></p>
[QUOTE="vàng, post: 70334, member: 30905"] [SIZE=4][B][FONT=Arial]Lịch sử địa danh thăng long - Hà Nội [/FONT][/B][/SIZE] C[FONT=Arial]ó người nói văn minh loài người là văn minh của những dòng sông. Nằm trên lưu vực sông Hồng, con sông xuất phát từ Vân Nam, Trung Quốc và đổ ra cửa Ba Lạt (giữa Nam Định - Thái Bình), Hà Nội là tâm điểm của văn minh sông Hồng, văn minh Đại Việt.[/FONT] [FONT=Arial]Mười thế kỷ trước, trong Chiếu dời đô, Lý Công Uẩn đã nhận thấy, ngoài thế hổ phục, rồng chầu, Hà Nội là vùng đất cao thoáng bằng phẳng, dân cư đông đúc muôn vật giàu thịnh, là nơi đô hội của bốn phương, đáng làm kinh sư cho muôn đời.[/FONT] [FONT=Arial]Ca dao nói về kinh đô Hà Nội có câu:[/FONT][FONT=Arial] [/FONT] [FONT=Arial]"Nghìn năm văn vật" của Thủ đô Hà Nội còn ghi dấu nền văn hóa Phùng Nguyên (4000 năm trước) ở Văn Điển, văn hóa Đồng Đậu (3500 năm trước) ở Đông Anh, văn hóa Đông Sơn (hơn 2000 năm trước) ở Cổ Loa, Ngọc Hà... "Cố đô rồi lại tân đô", bây giờ người ta gọi cố đô Hoa Lư, cố đô Huế, nhưng thủ đô xưa nhất vẫn thuộc về Hà Nội.[/FONT][FONT=Arial] [/FONT] [FONT=Arial]Các sách sử cũ đều ghi lược sử Hà Nội như sau : Đất Hà Nội có tên là hương Long Đỗ (Rốn Rồng) với Thành hoàng là Tô Lịch, một nhân vật lịch sử có thật mang nhiều màu sắc huyền thoại.[/FONT] [FONT=Arial]Năm 545, Lý Bí đánh thắng nhà Lương, lập nên nước Vạn Xuân độc lập, tự xưng Lý Nam Đế, định đô ở cửa sông Tô Lịch, xây điện Vạn Thọ, chùa Khai Quốc, tức chùa Trấn Quốc ngày nay ở Hồ Tây. Đây chính là thủ đô đầu tiên của đất nước độc lập, sau đời các vua Hùng ở Phú Thọ, An Dương Vương ở Cổ Loa.[/FONT][FONT=Arial] [/FONT] [FONT=Arial]Trong thời nước ta bị nhà Tùy (581 - 618), nhà Đường (618 - 907) đô hộ, lỵ sở, thành quách ở Hà Nội, có tên là Tống Bình. Thời vãn Đường, đổi tên là La Thành, hay Đại La. Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục chép: "Thành này do Trương Bá Nghi đắp từ năm Đại Lịch thứ hai (767) đời Đường; năm Trinh Nguyên thứ 7 (791), Triệu Xương đắp thêm. Năm Nguyên Hòa thứ 3 (808), Trương Chu lại sửa đắp lại. Năm Trường Khánh thứ 4 (824), Lý Nguyên Gia dời phủ trị tới bên sông Tô Lịch, đắp một cái thành nhỏ gọi là La Thành. Năm Hoàn Thông thứ 7 (866), Cao Biền đắp ngoại thành bao quanh kinh thành, cũng gọi tên là La Thành".[/FONT] [FONT=Arial]Thăng Long, một tên gọi đẹp, mang hình tượng của sự linh thiêng và phát triển, mang hồn cốt của dân tộc, là thủ đô của kỷ nguyên độc lập, là cái mốc nghìn tuổi chúng ta tính đến ngày nay. Về sự kiện này, hầu như mọi người đều nhớ từ bài Chiếu dời đô, từ ghi chép của Đại Việt sử ký toàn thư: " Mùa thu, tháng 7 năm Canh Tuất (1010), vua từ thành Hoa Lư dời đô ra kinh phủ thành Đại La, tạm đỗ thuyền dưới thành, có rồng vàng hiện lên ở thuyền ngự, nhân đó đổi tên thành gọi là thành Thăng Long". Chữ Thăng Long khi ấy có nghĩa là Rồng bay. Năm 1802, nhà Nguyễn đóng đô ở Huế, với quan niệm "vua " là "rồng", "rồng" không ở Hà Nội, nên đổi chữ "Long" là "Thịnh vượng".[/FONT] [FONT=Arial]Năm 1397, Thăng Long đổi thành Đông Đô. "Mùa hạ, tháng 4 năm Đinh Sửu (1397) lấy phó tướng Lê Hán Thương (Hồ Hán Thương) coi phủ đô hộ là Đông Đô (Đại Việt sử ký toàn thư). "Đông Đô tức Thăng Long, lúc ấy gọi Thanh Hóa là Tây Đô, Thăng Long là Đông Đô (Khâm định Việt sử thông giám cương mục). Năm 1408 quân Minh xâm lược nước ta, đổi tên Đông Đô là Đông Quan với ý là cửa quan phía đông của nhà Minh. Sau 10 năm khởi nghĩa, năm 1428, Lê Lợi giải phóng đất nước đổi tên Đông Quan thành Đông Kinh, người châu Âu phiên là Tonkin. Đại Việt sử ký toàn thư chép: "Mùa hạ, tháng 4 năm Đinh Mùi, Vua (Lê Lợi) từ điện tranh ở Bồ Đề, vào đóng ở thành Đông Kinh, đại xá, đổi niên hiệu là Thuận Thiên, dựng quốc hiệu là Đại Việt, đóng đô ở Đông Kinh, tức là thành Thăng Long. Vì Thanh Hóa có Tây Đô, cho nên gọi thành Thăng Long là Đông Kinh".[/FONT][FONT=Arial] [/FONT] [FONT=Arial]Năm 1831, vua Minh Mạng lập tỉnh Hà Nội. Nghĩa của từ Hà Nội là nằm giữa hai con sông, sông Hồng và sông Đáy.[/FONT] [FONT=Arial]Từ năm 1887 - 1945, Hà Nội là thủ phủ của Đông Dương thuộc Pháp.[/FONT] [FONT=Arial]Năm 1945, Hà Nội là nơi làm việc của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa.[/FONT] [FONT=Arial]Ngày 2-7-1976, Hà Nội là Thủ đô của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.[/FONT] [FONT=Arial]Hà Nội trong lịch sử còn có các tên là Phụng Thành (thế kỷ 16, Hà Nội có tên phủ Phụng Thiên); Bắc Thành (thời Tây Sơn), Long Thành, Hà Thành, Thành Hoàng Diệu (tên gọi thời kháng chiến chống thực dân Pháp để nêu cao khí tiết yêu nước)...[/FONT] [FONT=Arial]Với văn hiến nổi bật, với những đóng góp lớn lao cho nhân loại, Hà Nội được ngợi ca là thủ đô của phẩm giá con người, là thành phố vì hòa bình.[/FONT] [FONT=Arial][I][B]ST[/B][/I][/FONT] [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
DU LỊCH
Địa lí Việt Nam
Địa lí KT-XH Việt Nam
Địa lý thủ đô Hà Nội
Top