Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
DU LỊCH
Việt Nam Travel
Địa Lý Du Lịch -Tài liệu môn học
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="Hide Nguyễn" data-source="post: 14720" data-attributes="member: 6"><p><span style="font-size: 15px"> <span style="font-size: 15px"><strong><span style="font-size: 15px">2.1.2-VÙNG DU LỊCH DUYÊN HẢI ĐÔNG BẮC:</span></strong></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px"></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px">Chùa thuộc huyện Hồ Nam, quận Lê Chân, cách trung tâm Hải Phòng 2 km về phía Tây Nam .Chùa được xây dựng vào đời Tiền Lê (980-1009). Vua Trần Nhân Tông (1258-1308) vị vua mộ đạo phật đã từng đến giảng đạo tại Phúc Lâm Tự . Chùa được trùng tu nhiều lần.Ngày nay,chùa Dư Hàng được xếp hạng là một di tích lịch sử .Chùa còn lưu giữ nhiều hiện vật quý:tượng phật,đỉng đồng,chuông,khánh,đặc biệt là bộ sách Kinh Tràng A Hàm là tài liệu cổ về giáo lí đạo Phật.</span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px"></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px"><strong>Đình Hàng Kênh:</strong></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px"></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px">Đình được dựng vào thế kỷ thứ 17-18 ,đến năm 1905 được mở rộng như ngày nay.Đình còn có tên là đình Nhân Thọ.</span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px"> </span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px">Đình Hàng Kênh là một công trình có giá trị lớn về điêu khắc gỗ.Trong đình có 156 mảng chạm khắc ,con rồng là đề tài chính .Toàn bộ công trình chạm khắc tới 308 hình rồng to,nhỏ khác nhau .Trong đình có tượng vua Ngô Quyền và kiệu bát cống là hiện vật có giá trị mỹ thuật cao.</span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px"></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px">Hàng năm từ ngày 16 đến 18/2 âm lịch ,đình mở hội có tế lễ,diễn chèo,tuồng,ca trù,chầu văn và các trò chơi cờ tướng,đấu vật,chọi gà… thu hút đông đảo nhân dân tham gia.</span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px"></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px"><strong>Khu di tích Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm:</strong></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px"></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px">Khu di tích thuộc thôn Trung Am ,xã Lý Học ,Vĩnh Bảo,Hải Phòng ,gồm 89 hạng mục:tháp bút Kinh Thiên;đền thờ dựng khi cụ mất (1585) với ba gian tiền đường ,hai gian hậu cung ,phía trước có hai hồ nước tượng trưng cho trời và đất ,bức hoành phi trong đền ghi 4 chữ “An Nam Lý Học”;nhà trưng bày thân thế và sự nghiệp của Nguyễn Bỉnh Khiêm,phần mộ cụ thân sinh ở phía sau đền ;tượng Nguyễn Bỉnh Khiêm bằng đá cao 5,7 m ,nặng 8.5 tấn;hồ bán nguyệt rộng khoảng 1000 m2;chùa Song Mai;Nhà Tổ có tượng thờ bà Minh Nguyệt ,vợ của Nguyễn Bỉnh Khiêm và Quán Trung Tân,nơi lưu giữ quan niệm mới về chữ “trung” hướng lòng theo “chí trung chí thiện”.</span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px"></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px">Ngày nay khu di tích đã dược xây dựng khang trang,trở thành điểm du lịch văn hoá lớn của khu vực ,là nơi tổ chức các lễ hội lớn kỉ niệm danh nhân văn hoá Nguyễn Bỉnh Khiêm .</span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px"></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px"><strong>Đền Nghè :</strong></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px"></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px">Đền nằm ở trung tâm thành phố ,cách Nhà hát thành phố chừng 600 m về phía Tây- Nam.</span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px"></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px">Đền thờ bà Lê Chân,một nữ tướng của cuôc khởi nghĩa Hai Bà Trưng thế kỉ thứ I(40-43),người lập ra làng An Biên ,tiền thân của thành phố Hải Phòng sau này .</span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px"></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px">Lúc đầu,đền là một miếu nhỏ .Năm 1919,toà hậu cung của đền được xây dựng,năm 1926 toà tiền bái được xây dựng.Đây là một tổng thể di tích văn hoá-kiến trúc gồm voi đá,ngựa đá,sập đá,bia đá….</span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px"></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px"><strong>Đình Nhân Mục:</strong></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px"></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px">Đình ở làng Nhân Mục ,xã Nhân Hoà ,huyện Vĩnh Bảo,được xây dựng vào thế kỉ 17.Đình đã được trùng tu nhiều lần.Lần trùng tu cuối cùng vào năm 1941.</span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px"></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px">Đình gồm 5 gian tiền đường,dài 15 m,rộng 5m.Hậu cung dài 9m,rộng 1m.Đình lợp ngói mũi hài .Ngôi đình nay còn giữ được nét kiến trúc tiêu biểu của thế kỉ 17 .Đao đình là sự tiếp nối của bờ xối kết hợp với mái tàu .Đặc biệt đình có bộ khung sườn bằng gỗ tứ thiết được liên kết bằng vì kèo xà với kỹ thuật sâm mộng.</span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px"></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px">Đình Nhân Mục có nhiều cổ vật quý được gìn giữ như kiệu bát cống thế kỉ 17,bia đá cao 1,8m,dài 0,26m là tác phẩm chạm khắc tuyệt vời vào năm 1694,bình pha trà gốm men ngoc thế kỉ 14.Đình Nhân Mục còn là nơi bảo lưu các sinh hoạt văn hoá cổ truyền của dân tộc.Hàng năm tại đây trong ngày hội có nghệ thuật múa rối nước rất độc đáo của vùng.</span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px"></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px"><strong>Chùa Phổ Chiếu:</strong></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px"></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px">Chùa được xây dựng năm 1953 do sư Ngô Chân Tử kiến lập và trụ trì,ở phường Dư Hàng Kênh,Quận Lê Chân.</span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px"></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px">Lúc đầu,chùa thờ Tam Giáo đồng nguyên.Đến năm 1954,một hoàthượng thuộc phái Lâm Tế về trụ trì,trùng tu và mở rộng ngôi chùa ,thờ Phật,đổi tên chùa là Phổ Chiếu.</span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px"></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px">Chùa hiện còn giữ một số di vật bằng đất nung và đá cổ ,các mảng trang trí ở tháp cổ Tường Long,những tháp đất nung cổ,4 tầng ,có 4 cạnh ,cao 0,35m.</span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px"></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px"><strong>Cụm di tích lịch sử văn hóa Yên Tử</strong></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px"></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px">Vị Trí: Tại khu vực x Thượng Yên Công, thị x Uơng Bí, tỉnh Quảng Ninh (cch trung tm thị x Uơng Bí 20km về phía Bắc).</span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px"></span></span></p><p> <span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px">Đây là một hệ thống di tích lịch sử,văn hoá gồm 11 ngôi chùa, nhiều am tháp và bia tượng; được xây dựng từ thời nhà Trần cách đây 7 thế kỷ. Cha Yn Tử nằm trn dy ni cng tn, được xếp vào hàng danh sơn của đất nước có đỉnh cao nhất là 1068m. Đây là nơi phát tích của thiền phái Trúc Lâm Tam Tổ, một thiền phái Phật giáo mang đậm màu sắc dn tộc Việt Nam do vua Trần Nhn Tơng sng lập từ thế kỷ 13. Du khách đến thăm Yên Tử, ngoài việc đi bộ leo núi trên con đường hành hương truyền thống cịn cĩ thể được thưởng ngoạn phong cảnh núi rừng Yên Tử bằng hệ thống cáp treo hiện đại từ chân núi đến cha Hoa Yn. Lễ hội Yên Tử bắt đầu từ ngày mùng 10 tháng giêng âm lịch, kéo dài trong suốt cả mùa xuân.</span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px"></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px"> <strong>Cụm di tích núi Bài Thơ</strong></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px"></span></span></p><p> <span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px">Vị trí: Phường Bạch Đằng - trung tâm thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh; là một quần thể di tích lịch sử ,văn hoá bao gồm: núi Bài Thơ, chùa Long Tiên và đền thờ Trần Quốc Nghiễn. </span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px"></span></span></p><p> <span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px">Núi Bài Thơ: Cao khoảng 200m, tựa như một ngọn tháp khổng lồ bên bờ vịnh Hạ Long. Trước đây núi có tên gọi là Truyền Đăng. Năm 1468 vua Lê Thánh Tông trong một lần tuần du ở vùng biển An Bang (Vịnh Hạ Long ngày nay) đ ứng tc một Bi Thơ và cho khắc vào vách núi phía Nam. Từ đó núi mang tên là núi Đề Thơ, sau gọi là Bài Thơ. Ngoài Bài Thơ của vua Lê Thánh Tông, hiện nay trên vách núi phía Đông Nam cịn cĩ Bi Thơ họa của chúa Trịnh Cương (năm 1729) và chùm Bài Thơ của một số danh nhân thời Nguyễn .</span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px"></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px">Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, núi Bài Thơ cịn gắn liền với những sự kiện lịch sử đấu tranh cách mạng của quân và dân vùng mỏ. Ngày 1.5.1930 lần đầu tiên lá cờ đỏ búa liềm tung bay trên đỉnh núi, mở đầu giai đoạn mới trong phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân vùng mỏ dưới sự lnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, núi Bài Thơ là trạm gác phịng khơng, hang tr ẩn cứu thương, phục vụ chiến đấu và là nơi đặt trung tâm điện chính của Bưu Điện tỉnh Quảng Ninh.</span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px"></span></span></p><p> <span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px">Đền thờ Trần Quốc Nghiễn: Nằm ở phía Tây chân núi Bài Thơ. Đền thờ Hưng Vũ Vương Trần Quốc Nghiễn, con trai cả của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn - vị tướng nhà Trần có công đánh giặc bảo vệ vùng Đông Bắc Tổ quốc.</span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px"></span></span></p><p> <span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px">Cha Long Tin: Nằm ở phía Bắc chân núi Bài Thơ. Chùa được xây dựng năm 1941 để thờ Phật là chính, ngoài ra cịn thờ đức thánh Trần và thánh Mẫu. Đây là trung tâm Phật giáo lớn của thành phố Hạ Long. Lễ hội nơi đây diễn ra vào ngày 24.3 âm lịch hàng năm</span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px"></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px"><strong>Đình Quan Lạn:</strong></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px"></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px">Nằm trong cụm di tích Đình,Chùa ,Miếu,Nghè thuộc xã đảo Quan Lạn,huyện Vân Đồn,đã được Bộ Văn Hoá Thông Tin cấp bằng công nhận là cụm di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật số 575 QĐ ngày 14/7/1990 .</span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px"></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px">Đình được xây dựng từ thời Hậu Lê(khoảng thế kỷ 17) và được sửa chữa nhiều lần vào thời Nguyễn để thờ Thành Hoàng làng là các vị tiên công đã có công tạo ra xã Quan Lạn và thờ Trần Khánh Dư ,người có công lớn trong trận đánh thuyền lương của Trương Văn Hổ ở Vân Đồn-Cửa Lục góp phần quan trọng vào đại thắng Bạch Đằng năm 1288.</span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px"></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px">Đình Quan Lạn xây theo kiểu chữ công gồm 5 gian ,2 chái tiền đường ,3 gian ống muống và 1 gian 2 chái hậu cung .Đề tài trang trí ở đây chủ yếu là hình tượng rồng ,phượng và hoa lá ,được thể hiện với các sắc thái khác nhau trên mỗi bức cốn ,đầu bẩy , đầu dư ,câu đầu,cửa võng …Hiện vật có giá trị nhất còn lưu giữ lại ở đình là pho tượng Trần Khánh Dư và 18 sắc phong của các vua triều Nguyễn phong cho thành hoàng làng Trần Khánh Dư.</span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px"></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px">Đến thăm đình Quan Lạn ,ngoài việc thưởng thức các giá trị văn hoá ,du khách còn được thoả sức đùa giỡn cùng sóng biển với 2 bãi cát dài phẳng mịn (bãi trước,bãi sau).</span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px"></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px">Lễ hội ở đây diễn ra vào ngày 18/6 âm lịch nhưng không khí của lễ hội thì kéo dài trong suốt tháng 6.</span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px"></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px"><strong>Bãi cọc Bạch Đằng</strong></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px"></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px">Nằm trong khu đầm nước của xã Yên Giang giáp đê sông Chanh thuộc xã Yên Giang,huyện Yên Hưng,đã được Bộ Văn Hoá Thông Tin cấp bằng công hận là di tích lịch sử (số 191 VH/QĐ ngày 22/3/1988) nhân kỷ niệm 700 năm chiến thắng Bạch Đằng.Bãi cọc Bạch Đằng tồn tại cung thời gian là chứng tích trong lịch sử chống giặc ngoại xâmcủa dân tộc ta.Nơi ghi dấu thiên tài quân sự của anh hùng dân tổcTrần Quốc Tuấn ở thế kỷ 13.</span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px"></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px">Vào thế kỷ 13 ,sau 2 lần tiến quân xâm lược Việt Nambị thất bại thảm hại(1258,1285) năm 1288 quân Nguyên-Mông quyết tâm xâm lược nước ta lần nữa với 30 vạn quân do Thoát Hoan chỉ huy và 70 vạn hộc lương do Trương Văn Hổ chỉ huy tiến vào Thăng Long bằng đường bộ và dường thuỷ .Trước sức mạnh đó vua quan nhà Trần đã thực hiện kế hoạch rút lui chiến lược,xây dựng chiến tranh du kích để tiêu hao sinh lực địch.Sau một thời gian bị tiêu hao sinh lực ,mệt mỏi vì khí hậu,hơn nữa đoàn thuyên lương của Trương Văn Hổ đã bị quân của Trần Khánh Dư đánh chìm nagy khi vào đến Vân Đồn Cửa Lục,buộc quân địch phải rút lui .Biết trước được âm mưu đó,Trần Quốc Tuấn đã dựa vào chiến thuật cắm cọc gỗ xuống lòng sông Bạch Đằng của Ngô Quyền năm 938 và kết hợp với 2 dải đá ngầm ở ghềnh Cốc và ghềnh sông Chanh tạo thành phòng tuyến chặn đường rút lui của quân giặc.</span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px"></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px">Ngày 9/4/1288 khi đạo binh của Ô Mã Nhi vào đến cửa sông Bạch Đằng,Trần Quốc Tuấn đã cho thuyền nhỏ ra khiêu chiến ,khi nước triều rút,các cánh quân mai phục từ các nhánh sông mới lao ra quyết chiến làm cho quân địch không trở tay kịp,kết hợp với chiến lược hoả công chỉ trong vòng 1 ngày hơn 3 vạn quân của Ô Mã Nhi và gần 400 chiến thuyền đã bị quân dân nhà Trần tiêu diệt và bắt sống.</span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px"></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px">Chiến thắng Bạch Đằng 1288 là một chiến công chói lọi đã ghi vào trang sử hào hùng chống giặc ngoại xâm mà bãi cọc hiện còn ở đầm Yên Giang là chứng tích hùng hồn của chiến công đó.</span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px">Chùa Quỳnh Lâm:</span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px"></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px">Nằm trên đồi trong dãy núi vòng cung Đông Triều ,đã được Bộ Văn Hoá Thông Tin công nhận là di tích lịch sử và nghệ thuật (số 2009 QĐ/VH ngày 15/11/1991).Phía trước là hồ nước lớn ,3 phía còn lại đồi núi bao bọc.Với thế đất này được gọi là thế ngai vàng,hay thế “rồng chầu hổ phục”.</span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px"></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px">Chùa được hình thành từ đời Tiền Lý (khoảng cuối thế kỷ 5,đầu thế kỷ 6) và được tu sửa qua các triều đại Đinh,Tiền Lê,Lý,Trần,Lê.Đặc biệt chùa được tôn tạo và hoàn chỉnh vào thời Lý,Trần.Trong các thế kỷ 11-14,thời kỳ cuối Lê và thế kỷ 17-18 Quỳnh lâm đều trở thànhtrung tâm Phật giáo lớn nhất của Việt Nam.</span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px"> </span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px">Vào thời Lý,nhà sư Không Lộ đã cho đúc một pho tượng Di Lặc bằng đồng cao 6 trượng ,được coi là một trong những “An Nam tứ đại khí”(bốn báu vật cua Việt Nam) và tạc một tấm bia đá lớn cao 2,5 m ,rộng 1,5m với hình rồng uốn lượn mềm mại.Nhưng chùa Quỳnh Lâm thực sự trở thành một trung tâm Phật giáo quan trọng trong thế kỷ 14 với hoạt động của Pháp Loa Đồng Kiên Cương,vị tổ thứ 2 của phái Thiền trúc Lâm.</span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px"> </span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px">Trên cơ sở chùa Quỳnh Lâm cũ ,năm 1316 Pháp Loa cho xây dựng và thành lập viện Quỳnh Lâm với một kiến trúc đồ sộ và hoàn chỉnh vào năm 1329,Quỳnh Lâm trở thành “Đệ nhất danh lam cổ tích của An Nam”.Đây là nơi trung tâm truyền kinh giảng đạo và đào tạo hàng ngũ sư sãi cho đạo phật, nhiều hội lớn có tiếng trong sử sách được tổ chức tại đây như hội”Thiên phật bảy ngày ,bảy đêm”(1352)…</span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px"></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px">Trải qua thăng trầm của lịch sử ,các công trình kiến trúc cổ của chùa Quỳnh Lâm đã bị huỷ hoại ,nhưng nhiều hiện vật như tấm bia đá lớn thời Lý,khánh đá và vườn tháp…vẫn còn.</span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px"></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px">Lễ hội chùa Quỳnh Lâm diễn ra từ ngày mùng 1 đến ngày mùng 4 tháng 2 âm lịch,nhưng không khí lễ hội diễn ra trong suốt 3 tháng mùa xuân với lòng thành kính của tất cả các tín đồ Phật tử gần xa tín tâm về dâng hương lễ phật.</span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px"></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px"><strong>Đền Cửa Ông (Đông Hải Linh từ):</strong></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px"></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px">Toạ lạc nằm trên ngọn núi trông ra vịnh Bái Tử Long thuộc phường Cửa Ông,thị xã Cẩm Phả,đã dược Bộ Văn Hoá Thông Tin cấp bằng công nhận là di tích thắng cảnh.</span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px"></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px">Đền được xây dựng từ đầu thế kỷ 19 gồm 3 khu vực chính:đền Hạ,đền Trung và Thượng ,được phân bố ở 3 vị trí khác nhau theo chiều lên cao dần.Đền Hạ thờ Mẫu ,khu đền Thượng gồm đền chính thờ Trần Quốc Tảng ,lăng Trần Quốc Tảng,đền Quan Châu,đền Quan Chánh và chùa .Đền chính lúc đầu thờ Hoàng Cầu,người anh hùng của địa phương,sau thờ Trần Quốc Tảng,con trai thứ 3 của Trần Quốc Tuấn,người có công trấn ải vùng cửa Suốt.</span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px"></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px">Kiến trúc đền chính theo kiểu chữ công(I) gồm 3 gian tiền đường,2 gian ống muống và 3 gian hậu cung.Đây là đền duy nhất thờ đầy đủ gia thất Trần Quốc Tuấn và các cận thần của ông còn lại đến ngày nay.Với 43 pho tượng lớn nhỏ đã được các nghệ nhân chạm trổ công phu tỉ mỉ,sắc nét với tư thế ngồi trong ngai,khám,long đình rất cân đối mang giá trị nghệ thuật cao.Đó là tượng Trần Quốc Tuấn ,tượng Thánh Mẫu(vợ ông) ,2 công chúa(con ông),Trần Quốc Tảng,Trần Anh Tông, Trần Khánh Dư,Yết Kiêu,Dã Tượng,Phạm Ngũ Lão,Lê Phụ Trần,Đỗ Khắc Chung…..và nhiều câu đối,đồ thờ tự khác.</span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px"></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px">Từ lâu,đền Cửa Ông đã nổi tiếng linh thiêng không chỉ đối với nhân dân tỉnh Quẩng Ninh,mà nhân dân các tỉnh trong nước cũng lần lượt tìm đến để dâng hương,trẩy hội.Lễ hội đền Cửa Ông diễn ra từ ngày 2 tháng giêng âm lịch và kéo dài suốt 3 tháng xuân.</span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px"></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px"><strong>Làng nghề gốm sứ Hương Canh</strong></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px"></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px">“Ai về mua vại Hương Canh”</span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px"></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px">Câu ca dao còn lưu truyền đến ngày nay đã chứng minh được sức sống của làng nghề gốm sứ vốn đã nổi tiếng từ lâu đời của tỉnh Vĩnh Phúc,Hương Canh cách Hà Nội 52km.</span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px"></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px">Làng nghề gốm sứ Hương Canh ngày xưa chuyên sản xuất các loại sành sứ bình dân phục vụ cho sinh hoạt hàng ngày của tầng lớp nhân dân như vại,chum đựng nước,ấm đun nước,săc thuốc…Các mặt hàng của Hương Canh đều có mặt ở hầu hết các nơi trên đất nước bởi trình độ nung tốt cũng như kỹ thuật nào nặn và khuôn mẫu đạt đến độ tinh xảo.Khác với gốm sứ Bát Tràng là loại gốm sứ tráng men,còn gốm sứ Hương Canh chuyên về mộc nhưng vẫn đứng vững trên thị trường.</span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px"></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px">Ngày nay,sản phẩm của Hương Canh ngày càng đa dạng hoá,ngoài các mặt hàng sản phẩm truyền thống họ còn sản xuất thêm mặt hàng ngói lợp nhà và các loại bình,đồ giả cổ với chất lượng và mẫu mã đẹp.</span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px"></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px">Làng nghề gốm sứ Hương Canh đang ngày một phát triển giúp cho đời sống của người dân ở đây có công ăn việc làm và thu nhập khá.Làng nghề sôi động hẳn lên nhờ lượng khách đến tham quan và mua hàng.</span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px"></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px"><strong>Đình Trung Bản</strong></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px"></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px">Nằm trên gò đất thuộc Xóm Thượng, thôn Trung Ban, xã Liên Hoà, huyện Yên Hưng. Được Bộ Văn Hoá Thông Tin công nhận là di tích lịch sử số1548 QĐ ngày 30/8/1991 bổ sung cho di tích cọc Bạch Đằng.</span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px"></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px">Đình được xây dựng từ thế kỷ 15 và trải qua nhiều lần trùng tu,đến triếu vua Khải Định xây dựng nư ngày nay.Đình thờ Thành hoàng làng là vị anh hùng dân tổ Trần Hưng Đạo.</span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px"></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px">Đình Trung Bản kết cấu theo kiểu chữ đinh(J)gồm 5 gian tiền đường ,3 gian bái đường và 2 gian hậu cung.Hiện nay đình còn lưu giữ được một số hiện vật quý từ thời Hậu Lê,thời Nguyễn là những tác phẩm khéo léo của nghệ nhân thể hiện mang đậm phong cách cổ truyền Việt Nam như hai tấm bia đá(1460-1497),kiệu bát cống,sập chân quỳ,quán tẩy,hoành phi,câu đối và 6 đạo sắc của các vua triều Nguyễn phong cho Thành hoàng làng là Trần Hưng Đạo.Đặc biệt là tượng Trần Hưng Đạo ngồi long ngai với mái tóc để xoã sau lưng,áo ,mu,cân đai được chạm trổ công phu ,tỉ mỉ,sơn son thiếp vàng .Bức tượng được các nhà điêu khắc ,mỹ thuật Việt Nam đánh giá cao và coi như một trong nhữngtượng mẫu chuẩn về Trần Hưng Đạo.</span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px"></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px">Hội đình Trung Bản diễn ra vào ngày 8/3 âm lịch cùng với hội đình Yên Giang,đền Trần Hưng Đạo –miếu vua Bà ,đền Trung Cốc,bãi cọc Bach Đằng ,đó cũng là ngày kỷ niệm chiến thắng Bạch Đằng năm 1288.</span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px"></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px"><strong>Di tích An Sinh</strong></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px"></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px">Thuộc xã An Sinh ,huyện Đông Triều gồm co đền thờ và lăng mộ của các vua Trần(1225-1400).</span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px"></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px">Mộ và đền thờ Trần Nhân tông(1279-1293):được dựng ở núi Ngọc Vân ,khoảng thời hậu Lê,gồm có 3 cấp.Trên cùng là am Ngọc Vân,giữa là tam quan Ngoạ Tự Vân,bên trái có miếu Thiên Sơn trong có bia đá dựng năm Vĩnh Thịnh thứ 3(1707).Dưới cùng có 2 tháp Phật,lăng thờ vua Trần Nhân Tông và tháp Đoàn Nghiêm.</span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px"></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px">Mộ Trần Anh Tông(1293-1313): còn gọi là lăng Đồng Tâm ở đồi Tán Quỷ,xây dựng từ đời Trần .Hiện nay phần mộ này chỉ còn vết tích nền lăng ở đỉnh đồi với các bậc thềm đá và hai bên thềm là rồng đá mang phong cách nghệ thuật đời Trần.Tấm bia dựng năm 1840 xác định đây là lăng vua Trần Anh Tông.</span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px"></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px">Lăng Trần Minh Tông(lăng Đồng Mục) (1314-1329):nằm ở chân núi trước lăng Trần Anh Tông.Lăng được xây dựng từ thời Trần.Tấm bia dựng năm 1840 xác định lăng Trần Minh Tông.</span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px"></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px">Lăng Trần Hiển Tông (1329-1341):Gọi là Nghệ Sơn ,xây từ thời Trần.Vết tích còn lại là một số tượng chó đá,trâu đá,tượng quan hầu bằng đá chắp tay trước bụng .Có bia đá dựng năm 1840 xác định lăng Trần Hiển Tông.</span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px"></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px"><strong>Lăng Trần Nghệ Tông(1370-1372):</strong></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px"></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px">Ơ xóm Bãi Đá,còn gọi là khu Khe Nghệ xây dựng từ thời Trần.Tấm bia đá còn lại xác định là lăng Trần Nghệ Tông.</span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px"></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px"><strong>Đình Trà Cổ:</strong></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px"></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px">Được xây dựng vào năm 1511,thờ 6 vị Thành Hoàng có công dựng ấp, lập làng ở giữa nơi biển bao la .</span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px"> </span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px">Được dựng theo kiểu chữ công trển diện tích 400 m2.Toà bái đường 7 gian,bên trong gác dầm lát vát 48 cột gỗ lim,cột cái cao trên 4,5m,chu vi 1,5m.Bộ khung mái làm bằng gỗ quý chạm khắc công phu,tinh tế.Bốn đầu đao uốn cong gắn hình rồng ,những đầu bẩy lực lưỡng chạm rồng đỡ mái hiên làm cho ngôi đình trông bề thế,đồ sộ.Trong đìmh bên cạnh những bức hoành phi câu đối sơn son thiếp vàng rực rỡ là bức cửa võng lớn chạm tiên cưỡi rồng vượt biển,lưỡng long chầu nguyệt.Nhiều nhà thờ bằng đồng có kích thước lớn ,đặc biệt có đôi hạc gỗ cao trên 1,5m hình hài rất sinh động.</span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px"></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px">Du khách tới trà cổ ,ngoài thú vui tắm biển còn có dịp viếng thăm đình Trà Cổ,một công trình kiến trúc lịch sử được xây dựng cách đây hàng trăm năm.</span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px"></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px"><strong>Chùa Vạn Linh Khánh (chùa Trà Cổ):</strong></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px"></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px">Chùa còn có tên khác là chùa Nam Thọ.Đây là ngôi chùa cổ ,được xây dựng khoảng 400 năm trước.Chùa toạ lạc trên khuôn viên có diện tích trên 5.0002.Trong chùa vẫn còn những cây chay cổ thụ,dấu tích của một rừng cgay mấy trăm năm trước.Trong chùa có trên 50 pho tượng đẹp.</span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px"></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px">Đây là ngôi chùa khá nổi tiếng của vùng biên giới Đông Bắc.Vào những ngày đầu tháng và rằm ,chùa đón tiếp rất đông người đến lễ bái và vãn cảnh chùa.</span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px"></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px"><strong>Đền Thiên Hậu Thánh Mẫu (đền Trà Cổ):</strong></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px"></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px">Đây là ngôi đền cổ, xuất hiện với đình Trà Cổ.Đền thờ tượng Bà Thiên Hậu Thấnh Mẫu, tương truyền là một pho tượng trôi từ biển vào.Lúc đầu đền chỉ là một lán nhỏ trong rừng chay,dần dần đền đã được tu bổ trở nên khang trang và toạ lạc trên một khu đất rộng.Trong đền có một cây chay cổ thụ có tuổi khoảng 700 năm.</span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px"></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px">Đền có tiếng là linh thiêng,bởi vậy lễ hội đền hàng năm rất đông người từ nhiều vùng đến tham dự (lễ hội ngày 23/3 âm lịch kéo dài 3 ngày).</span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px"></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px"><strong>Nhà thờ Trà Cổ</strong></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px"></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-size: 15px">Mảnh đất Trà Cổ nhỏ bé ,dân cư thưa thớt nhưng lại có một ngôi nhà thờ khá lớn ,kiến trúc đẹp ,được xây dựng từ những năm 1880.Trong nhà thờ có một chuông cổ có từ 80 năm trước,sau một thời gian hư hỏng ,đến năm 1995 nhà thờ được sữa chữa lớn.Hàng trăm bức phù điêu được khôi phục,trả lại cho nhà thờ dáng vẻ cổ kính khi xưa.</span></span></p></blockquote><p></p>
[QUOTE="Hide Nguyễn, post: 14720, member: 6"] [SIZE=4] [SIZE=4][B][SIZE=4]2.1.2-VÙNG DU LỊCH DUYÊN HẢI ĐÔNG BẮC:[/SIZE][/B] Chùa thuộc huyện Hồ Nam, quận Lê Chân, cách trung tâm Hải Phòng 2 km về phía Tây Nam .Chùa được xây dựng vào đời Tiền Lê (980-1009). Vua Trần Nhân Tông (1258-1308) vị vua mộ đạo phật đã từng đến giảng đạo tại Phúc Lâm Tự . Chùa được trùng tu nhiều lần.Ngày nay,chùa Dư Hàng được xếp hạng là một di tích lịch sử .Chùa còn lưu giữ nhiều hiện vật quý:tượng phật,đỉng đồng,chuông,khánh,đặc biệt là bộ sách Kinh Tràng A Hàm là tài liệu cổ về giáo lí đạo Phật. [B]Đình Hàng Kênh:[/B] Đình được dựng vào thế kỷ thứ 17-18 ,đến năm 1905 được mở rộng như ngày nay.Đình còn có tên là đình Nhân Thọ. Đình Hàng Kênh là một công trình có giá trị lớn về điêu khắc gỗ.Trong đình có 156 mảng chạm khắc ,con rồng là đề tài chính .Toàn bộ công trình chạm khắc tới 308 hình rồng to,nhỏ khác nhau .Trong đình có tượng vua Ngô Quyền và kiệu bát cống là hiện vật có giá trị mỹ thuật cao. Hàng năm từ ngày 16 đến 18/2 âm lịch ,đình mở hội có tế lễ,diễn chèo,tuồng,ca trù,chầu văn và các trò chơi cờ tướng,đấu vật,chọi gà… thu hút đông đảo nhân dân tham gia. [B]Khu di tích Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm:[/B] Khu di tích thuộc thôn Trung Am ,xã Lý Học ,Vĩnh Bảo,Hải Phòng ,gồm 89 hạng mục:tháp bút Kinh Thiên;đền thờ dựng khi cụ mất (1585) với ba gian tiền đường ,hai gian hậu cung ,phía trước có hai hồ nước tượng trưng cho trời và đất ,bức hoành phi trong đền ghi 4 chữ “An Nam Lý Học”;nhà trưng bày thân thế và sự nghiệp của Nguyễn Bỉnh Khiêm,phần mộ cụ thân sinh ở phía sau đền ;tượng Nguyễn Bỉnh Khiêm bằng đá cao 5,7 m ,nặng 8.5 tấn;hồ bán nguyệt rộng khoảng 1000 m2;chùa Song Mai;Nhà Tổ có tượng thờ bà Minh Nguyệt ,vợ của Nguyễn Bỉnh Khiêm và Quán Trung Tân,nơi lưu giữ quan niệm mới về chữ “trung” hướng lòng theo “chí trung chí thiện”. Ngày nay khu di tích đã dược xây dựng khang trang,trở thành điểm du lịch văn hoá lớn của khu vực ,là nơi tổ chức các lễ hội lớn kỉ niệm danh nhân văn hoá Nguyễn Bỉnh Khiêm . [B]Đền Nghè :[/B] Đền nằm ở trung tâm thành phố ,cách Nhà hát thành phố chừng 600 m về phía Tây- Nam. Đền thờ bà Lê Chân,một nữ tướng của cuôc khởi nghĩa Hai Bà Trưng thế kỉ thứ I(40-43),người lập ra làng An Biên ,tiền thân của thành phố Hải Phòng sau này . Lúc đầu,đền là một miếu nhỏ .Năm 1919,toà hậu cung của đền được xây dựng,năm 1926 toà tiền bái được xây dựng.Đây là một tổng thể di tích văn hoá-kiến trúc gồm voi đá,ngựa đá,sập đá,bia đá…. [B]Đình Nhân Mục:[/B] Đình ở làng Nhân Mục ,xã Nhân Hoà ,huyện Vĩnh Bảo,được xây dựng vào thế kỉ 17.Đình đã được trùng tu nhiều lần.Lần trùng tu cuối cùng vào năm 1941. Đình gồm 5 gian tiền đường,dài 15 m,rộng 5m.Hậu cung dài 9m,rộng 1m.Đình lợp ngói mũi hài .Ngôi đình nay còn giữ được nét kiến trúc tiêu biểu của thế kỉ 17 .Đao đình là sự tiếp nối của bờ xối kết hợp với mái tàu .Đặc biệt đình có bộ khung sườn bằng gỗ tứ thiết được liên kết bằng vì kèo xà với kỹ thuật sâm mộng. Đình Nhân Mục có nhiều cổ vật quý được gìn giữ như kiệu bát cống thế kỉ 17,bia đá cao 1,8m,dài 0,26m là tác phẩm chạm khắc tuyệt vời vào năm 1694,bình pha trà gốm men ngoc thế kỉ 14.Đình Nhân Mục còn là nơi bảo lưu các sinh hoạt văn hoá cổ truyền của dân tộc.Hàng năm tại đây trong ngày hội có nghệ thuật múa rối nước rất độc đáo của vùng. [B]Chùa Phổ Chiếu:[/B] Chùa được xây dựng năm 1953 do sư Ngô Chân Tử kiến lập và trụ trì,ở phường Dư Hàng Kênh,Quận Lê Chân. Lúc đầu,chùa thờ Tam Giáo đồng nguyên.Đến năm 1954,một hoàthượng thuộc phái Lâm Tế về trụ trì,trùng tu và mở rộng ngôi chùa ,thờ Phật,đổi tên chùa là Phổ Chiếu. Chùa hiện còn giữ một số di vật bằng đất nung và đá cổ ,các mảng trang trí ở tháp cổ Tường Long,những tháp đất nung cổ,4 tầng ,có 4 cạnh ,cao 0,35m. [B]Cụm di tích lịch sử văn hóa Yên Tử[/B] Vị Trí: Tại khu vực x Thượng Yên Công, thị x Uơng Bí, tỉnh Quảng Ninh (cch trung tm thị x Uơng Bí 20km về phía Bắc). Đây là một hệ thống di tích lịch sử,văn hoá gồm 11 ngôi chùa, nhiều am tháp và bia tượng; được xây dựng từ thời nhà Trần cách đây 7 thế kỷ. Cha Yn Tử nằm trn dy ni cng tn, được xếp vào hàng danh sơn của đất nước có đỉnh cao nhất là 1068m. Đây là nơi phát tích của thiền phái Trúc Lâm Tam Tổ, một thiền phái Phật giáo mang đậm màu sắc dn tộc Việt Nam do vua Trần Nhn Tơng sng lập từ thế kỷ 13. Du khách đến thăm Yên Tử, ngoài việc đi bộ leo núi trên con đường hành hương truyền thống cịn cĩ thể được thưởng ngoạn phong cảnh núi rừng Yên Tử bằng hệ thống cáp treo hiện đại từ chân núi đến cha Hoa Yn. Lễ hội Yên Tử bắt đầu từ ngày mùng 10 tháng giêng âm lịch, kéo dài trong suốt cả mùa xuân. [B]Cụm di tích núi Bài Thơ[/B] Vị trí: Phường Bạch Đằng - trung tâm thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh; là một quần thể di tích lịch sử ,văn hoá bao gồm: núi Bài Thơ, chùa Long Tiên và đền thờ Trần Quốc Nghiễn. Núi Bài Thơ: Cao khoảng 200m, tựa như một ngọn tháp khổng lồ bên bờ vịnh Hạ Long. Trước đây núi có tên gọi là Truyền Đăng. Năm 1468 vua Lê Thánh Tông trong một lần tuần du ở vùng biển An Bang (Vịnh Hạ Long ngày nay) đ ứng tc một Bi Thơ và cho khắc vào vách núi phía Nam. Từ đó núi mang tên là núi Đề Thơ, sau gọi là Bài Thơ. Ngoài Bài Thơ của vua Lê Thánh Tông, hiện nay trên vách núi phía Đông Nam cịn cĩ Bi Thơ họa của chúa Trịnh Cương (năm 1729) và chùm Bài Thơ của một số danh nhân thời Nguyễn . Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, núi Bài Thơ cịn gắn liền với những sự kiện lịch sử đấu tranh cách mạng của quân và dân vùng mỏ. Ngày 1.5.1930 lần đầu tiên lá cờ đỏ búa liềm tung bay trên đỉnh núi, mở đầu giai đoạn mới trong phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân vùng mỏ dưới sự lnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, núi Bài Thơ là trạm gác phịng khơng, hang tr ẩn cứu thương, phục vụ chiến đấu và là nơi đặt trung tâm điện chính của Bưu Điện tỉnh Quảng Ninh. Đền thờ Trần Quốc Nghiễn: Nằm ở phía Tây chân núi Bài Thơ. Đền thờ Hưng Vũ Vương Trần Quốc Nghiễn, con trai cả của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn - vị tướng nhà Trần có công đánh giặc bảo vệ vùng Đông Bắc Tổ quốc. Cha Long Tin: Nằm ở phía Bắc chân núi Bài Thơ. Chùa được xây dựng năm 1941 để thờ Phật là chính, ngoài ra cịn thờ đức thánh Trần và thánh Mẫu. Đây là trung tâm Phật giáo lớn của thành phố Hạ Long. Lễ hội nơi đây diễn ra vào ngày 24.3 âm lịch hàng năm [B]Đình Quan Lạn:[/B] Nằm trong cụm di tích Đình,Chùa ,Miếu,Nghè thuộc xã đảo Quan Lạn,huyện Vân Đồn,đã được Bộ Văn Hoá Thông Tin cấp bằng công nhận là cụm di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật số 575 QĐ ngày 14/7/1990 . Đình được xây dựng từ thời Hậu Lê(khoảng thế kỷ 17) và được sửa chữa nhiều lần vào thời Nguyễn để thờ Thành Hoàng làng là các vị tiên công đã có công tạo ra xã Quan Lạn và thờ Trần Khánh Dư ,người có công lớn trong trận đánh thuyền lương của Trương Văn Hổ ở Vân Đồn-Cửa Lục góp phần quan trọng vào đại thắng Bạch Đằng năm 1288. Đình Quan Lạn xây theo kiểu chữ công gồm 5 gian ,2 chái tiền đường ,3 gian ống muống và 1 gian 2 chái hậu cung .Đề tài trang trí ở đây chủ yếu là hình tượng rồng ,phượng và hoa lá ,được thể hiện với các sắc thái khác nhau trên mỗi bức cốn ,đầu bẩy , đầu dư ,câu đầu,cửa võng …Hiện vật có giá trị nhất còn lưu giữ lại ở đình là pho tượng Trần Khánh Dư và 18 sắc phong của các vua triều Nguyễn phong cho thành hoàng làng Trần Khánh Dư. Đến thăm đình Quan Lạn ,ngoài việc thưởng thức các giá trị văn hoá ,du khách còn được thoả sức đùa giỡn cùng sóng biển với 2 bãi cát dài phẳng mịn (bãi trước,bãi sau). Lễ hội ở đây diễn ra vào ngày 18/6 âm lịch nhưng không khí của lễ hội thì kéo dài trong suốt tháng 6. [B]Bãi cọc Bạch Đằng[/B] Nằm trong khu đầm nước của xã Yên Giang giáp đê sông Chanh thuộc xã Yên Giang,huyện Yên Hưng,đã được Bộ Văn Hoá Thông Tin cấp bằng công hận là di tích lịch sử (số 191 VH/QĐ ngày 22/3/1988) nhân kỷ niệm 700 năm chiến thắng Bạch Đằng.Bãi cọc Bạch Đằng tồn tại cung thời gian là chứng tích trong lịch sử chống giặc ngoại xâmcủa dân tộc ta.Nơi ghi dấu thiên tài quân sự của anh hùng dân tổcTrần Quốc Tuấn ở thế kỷ 13. Vào thế kỷ 13 ,sau 2 lần tiến quân xâm lược Việt Nambị thất bại thảm hại(1258,1285) năm 1288 quân Nguyên-Mông quyết tâm xâm lược nước ta lần nữa với 30 vạn quân do Thoát Hoan chỉ huy và 70 vạn hộc lương do Trương Văn Hổ chỉ huy tiến vào Thăng Long bằng đường bộ và dường thuỷ .Trước sức mạnh đó vua quan nhà Trần đã thực hiện kế hoạch rút lui chiến lược,xây dựng chiến tranh du kích để tiêu hao sinh lực địch.Sau một thời gian bị tiêu hao sinh lực ,mệt mỏi vì khí hậu,hơn nữa đoàn thuyên lương của Trương Văn Hổ đã bị quân của Trần Khánh Dư đánh chìm nagy khi vào đến Vân Đồn Cửa Lục,buộc quân địch phải rút lui .Biết trước được âm mưu đó,Trần Quốc Tuấn đã dựa vào chiến thuật cắm cọc gỗ xuống lòng sông Bạch Đằng của Ngô Quyền năm 938 và kết hợp với 2 dải đá ngầm ở ghềnh Cốc và ghềnh sông Chanh tạo thành phòng tuyến chặn đường rút lui của quân giặc. Ngày 9/4/1288 khi đạo binh của Ô Mã Nhi vào đến cửa sông Bạch Đằng,Trần Quốc Tuấn đã cho thuyền nhỏ ra khiêu chiến ,khi nước triều rút,các cánh quân mai phục từ các nhánh sông mới lao ra quyết chiến làm cho quân địch không trở tay kịp,kết hợp với chiến lược hoả công chỉ trong vòng 1 ngày hơn 3 vạn quân của Ô Mã Nhi và gần 400 chiến thuyền đã bị quân dân nhà Trần tiêu diệt và bắt sống. Chiến thắng Bạch Đằng 1288 là một chiến công chói lọi đã ghi vào trang sử hào hùng chống giặc ngoại xâm mà bãi cọc hiện còn ở đầm Yên Giang là chứng tích hùng hồn của chiến công đó. Chùa Quỳnh Lâm: Nằm trên đồi trong dãy núi vòng cung Đông Triều ,đã được Bộ Văn Hoá Thông Tin công nhận là di tích lịch sử và nghệ thuật (số 2009 QĐ/VH ngày 15/11/1991).Phía trước là hồ nước lớn ,3 phía còn lại đồi núi bao bọc.Với thế đất này được gọi là thế ngai vàng,hay thế “rồng chầu hổ phục”. Chùa được hình thành từ đời Tiền Lý (khoảng cuối thế kỷ 5,đầu thế kỷ 6) và được tu sửa qua các triều đại Đinh,Tiền Lê,Lý,Trần,Lê.Đặc biệt chùa được tôn tạo và hoàn chỉnh vào thời Lý,Trần.Trong các thế kỷ 11-14,thời kỳ cuối Lê và thế kỷ 17-18 Quỳnh lâm đều trở thànhtrung tâm Phật giáo lớn nhất của Việt Nam. Vào thời Lý,nhà sư Không Lộ đã cho đúc một pho tượng Di Lặc bằng đồng cao 6 trượng ,được coi là một trong những “An Nam tứ đại khí”(bốn báu vật cua Việt Nam) và tạc một tấm bia đá lớn cao 2,5 m ,rộng 1,5m với hình rồng uốn lượn mềm mại.Nhưng chùa Quỳnh Lâm thực sự trở thành một trung tâm Phật giáo quan trọng trong thế kỷ 14 với hoạt động của Pháp Loa Đồng Kiên Cương,vị tổ thứ 2 của phái Thiền trúc Lâm. Trên cơ sở chùa Quỳnh Lâm cũ ,năm 1316 Pháp Loa cho xây dựng và thành lập viện Quỳnh Lâm với một kiến trúc đồ sộ và hoàn chỉnh vào năm 1329,Quỳnh Lâm trở thành “Đệ nhất danh lam cổ tích của An Nam”.Đây là nơi trung tâm truyền kinh giảng đạo và đào tạo hàng ngũ sư sãi cho đạo phật, nhiều hội lớn có tiếng trong sử sách được tổ chức tại đây như hội”Thiên phật bảy ngày ,bảy đêm”(1352)… Trải qua thăng trầm của lịch sử ,các công trình kiến trúc cổ của chùa Quỳnh Lâm đã bị huỷ hoại ,nhưng nhiều hiện vật như tấm bia đá lớn thời Lý,khánh đá và vườn tháp…vẫn còn. Lễ hội chùa Quỳnh Lâm diễn ra từ ngày mùng 1 đến ngày mùng 4 tháng 2 âm lịch,nhưng không khí lễ hội diễn ra trong suốt 3 tháng mùa xuân với lòng thành kính của tất cả các tín đồ Phật tử gần xa tín tâm về dâng hương lễ phật. [B]Đền Cửa Ông (Đông Hải Linh từ):[/B] Toạ lạc nằm trên ngọn núi trông ra vịnh Bái Tử Long thuộc phường Cửa Ông,thị xã Cẩm Phả,đã dược Bộ Văn Hoá Thông Tin cấp bằng công nhận là di tích thắng cảnh. Đền được xây dựng từ đầu thế kỷ 19 gồm 3 khu vực chính:đền Hạ,đền Trung và Thượng ,được phân bố ở 3 vị trí khác nhau theo chiều lên cao dần.Đền Hạ thờ Mẫu ,khu đền Thượng gồm đền chính thờ Trần Quốc Tảng ,lăng Trần Quốc Tảng,đền Quan Châu,đền Quan Chánh và chùa .Đền chính lúc đầu thờ Hoàng Cầu,người anh hùng của địa phương,sau thờ Trần Quốc Tảng,con trai thứ 3 của Trần Quốc Tuấn,người có công trấn ải vùng cửa Suốt. Kiến trúc đền chính theo kiểu chữ công(I) gồm 3 gian tiền đường,2 gian ống muống và 3 gian hậu cung.Đây là đền duy nhất thờ đầy đủ gia thất Trần Quốc Tuấn và các cận thần của ông còn lại đến ngày nay.Với 43 pho tượng lớn nhỏ đã được các nghệ nhân chạm trổ công phu tỉ mỉ,sắc nét với tư thế ngồi trong ngai,khám,long đình rất cân đối mang giá trị nghệ thuật cao.Đó là tượng Trần Quốc Tuấn ,tượng Thánh Mẫu(vợ ông) ,2 công chúa(con ông),Trần Quốc Tảng,Trần Anh Tông, Trần Khánh Dư,Yết Kiêu,Dã Tượng,Phạm Ngũ Lão,Lê Phụ Trần,Đỗ Khắc Chung…..và nhiều câu đối,đồ thờ tự khác. Từ lâu,đền Cửa Ông đã nổi tiếng linh thiêng không chỉ đối với nhân dân tỉnh Quẩng Ninh,mà nhân dân các tỉnh trong nước cũng lần lượt tìm đến để dâng hương,trẩy hội.Lễ hội đền Cửa Ông diễn ra từ ngày 2 tháng giêng âm lịch và kéo dài suốt 3 tháng xuân. [B]Làng nghề gốm sứ Hương Canh[/B] “Ai về mua vại Hương Canh” Câu ca dao còn lưu truyền đến ngày nay đã chứng minh được sức sống của làng nghề gốm sứ vốn đã nổi tiếng từ lâu đời của tỉnh Vĩnh Phúc,Hương Canh cách Hà Nội 52km. Làng nghề gốm sứ Hương Canh ngày xưa chuyên sản xuất các loại sành sứ bình dân phục vụ cho sinh hoạt hàng ngày của tầng lớp nhân dân như vại,chum đựng nước,ấm đun nước,săc thuốc…Các mặt hàng của Hương Canh đều có mặt ở hầu hết các nơi trên đất nước bởi trình độ nung tốt cũng như kỹ thuật nào nặn và khuôn mẫu đạt đến độ tinh xảo.Khác với gốm sứ Bát Tràng là loại gốm sứ tráng men,còn gốm sứ Hương Canh chuyên về mộc nhưng vẫn đứng vững trên thị trường. Ngày nay,sản phẩm của Hương Canh ngày càng đa dạng hoá,ngoài các mặt hàng sản phẩm truyền thống họ còn sản xuất thêm mặt hàng ngói lợp nhà và các loại bình,đồ giả cổ với chất lượng và mẫu mã đẹp. Làng nghề gốm sứ Hương Canh đang ngày một phát triển giúp cho đời sống của người dân ở đây có công ăn việc làm và thu nhập khá.Làng nghề sôi động hẳn lên nhờ lượng khách đến tham quan và mua hàng. [B]Đình Trung Bản[/B] Nằm trên gò đất thuộc Xóm Thượng, thôn Trung Ban, xã Liên Hoà, huyện Yên Hưng. Được Bộ Văn Hoá Thông Tin công nhận là di tích lịch sử số1548 QĐ ngày 30/8/1991 bổ sung cho di tích cọc Bạch Đằng. Đình được xây dựng từ thế kỷ 15 và trải qua nhiều lần trùng tu,đến triếu vua Khải Định xây dựng nư ngày nay.Đình thờ Thành hoàng làng là vị anh hùng dân tổ Trần Hưng Đạo. Đình Trung Bản kết cấu theo kiểu chữ đinh(J)gồm 5 gian tiền đường ,3 gian bái đường và 2 gian hậu cung.Hiện nay đình còn lưu giữ được một số hiện vật quý từ thời Hậu Lê,thời Nguyễn là những tác phẩm khéo léo của nghệ nhân thể hiện mang đậm phong cách cổ truyền Việt Nam như hai tấm bia đá(1460-1497),kiệu bát cống,sập chân quỳ,quán tẩy,hoành phi,câu đối và 6 đạo sắc của các vua triều Nguyễn phong cho Thành hoàng làng là Trần Hưng Đạo.Đặc biệt là tượng Trần Hưng Đạo ngồi long ngai với mái tóc để xoã sau lưng,áo ,mu,cân đai được chạm trổ công phu ,tỉ mỉ,sơn son thiếp vàng .Bức tượng được các nhà điêu khắc ,mỹ thuật Việt Nam đánh giá cao và coi như một trong nhữngtượng mẫu chuẩn về Trần Hưng Đạo. Hội đình Trung Bản diễn ra vào ngày 8/3 âm lịch cùng với hội đình Yên Giang,đền Trần Hưng Đạo –miếu vua Bà ,đền Trung Cốc,bãi cọc Bach Đằng ,đó cũng là ngày kỷ niệm chiến thắng Bạch Đằng năm 1288. [B]Di tích An Sinh[/B] Thuộc xã An Sinh ,huyện Đông Triều gồm co đền thờ và lăng mộ của các vua Trần(1225-1400). Mộ và đền thờ Trần Nhân tông(1279-1293):được dựng ở núi Ngọc Vân ,khoảng thời hậu Lê,gồm có 3 cấp.Trên cùng là am Ngọc Vân,giữa là tam quan Ngoạ Tự Vân,bên trái có miếu Thiên Sơn trong có bia đá dựng năm Vĩnh Thịnh thứ 3(1707).Dưới cùng có 2 tháp Phật,lăng thờ vua Trần Nhân Tông và tháp Đoàn Nghiêm. Mộ Trần Anh Tông(1293-1313): còn gọi là lăng Đồng Tâm ở đồi Tán Quỷ,xây dựng từ đời Trần .Hiện nay phần mộ này chỉ còn vết tích nền lăng ở đỉnh đồi với các bậc thềm đá và hai bên thềm là rồng đá mang phong cách nghệ thuật đời Trần.Tấm bia dựng năm 1840 xác định đây là lăng vua Trần Anh Tông. Lăng Trần Minh Tông(lăng Đồng Mục) (1314-1329):nằm ở chân núi trước lăng Trần Anh Tông.Lăng được xây dựng từ thời Trần.Tấm bia dựng năm 1840 xác định lăng Trần Minh Tông. Lăng Trần Hiển Tông (1329-1341):Gọi là Nghệ Sơn ,xây từ thời Trần.Vết tích còn lại là một số tượng chó đá,trâu đá,tượng quan hầu bằng đá chắp tay trước bụng .Có bia đá dựng năm 1840 xác định lăng Trần Hiển Tông. [B]Lăng Trần Nghệ Tông(1370-1372):[/B] Ơ xóm Bãi Đá,còn gọi là khu Khe Nghệ xây dựng từ thời Trần.Tấm bia đá còn lại xác định là lăng Trần Nghệ Tông. [B]Đình Trà Cổ:[/B] Được xây dựng vào năm 1511,thờ 6 vị Thành Hoàng có công dựng ấp, lập làng ở giữa nơi biển bao la . Được dựng theo kiểu chữ công trển diện tích 400 m2.Toà bái đường 7 gian,bên trong gác dầm lát vát 48 cột gỗ lim,cột cái cao trên 4,5m,chu vi 1,5m.Bộ khung mái làm bằng gỗ quý chạm khắc công phu,tinh tế.Bốn đầu đao uốn cong gắn hình rồng ,những đầu bẩy lực lưỡng chạm rồng đỡ mái hiên làm cho ngôi đình trông bề thế,đồ sộ.Trong đìmh bên cạnh những bức hoành phi câu đối sơn son thiếp vàng rực rỡ là bức cửa võng lớn chạm tiên cưỡi rồng vượt biển,lưỡng long chầu nguyệt.Nhiều nhà thờ bằng đồng có kích thước lớn ,đặc biệt có đôi hạc gỗ cao trên 1,5m hình hài rất sinh động. Du khách tới trà cổ ,ngoài thú vui tắm biển còn có dịp viếng thăm đình Trà Cổ,một công trình kiến trúc lịch sử được xây dựng cách đây hàng trăm năm. [B]Chùa Vạn Linh Khánh (chùa Trà Cổ):[/B] Chùa còn có tên khác là chùa Nam Thọ.Đây là ngôi chùa cổ ,được xây dựng khoảng 400 năm trước.Chùa toạ lạc trên khuôn viên có diện tích trên 5.0002.Trong chùa vẫn còn những cây chay cổ thụ,dấu tích của một rừng cgay mấy trăm năm trước.Trong chùa có trên 50 pho tượng đẹp. Đây là ngôi chùa khá nổi tiếng của vùng biên giới Đông Bắc.Vào những ngày đầu tháng và rằm ,chùa đón tiếp rất đông người đến lễ bái và vãn cảnh chùa. [B]Đền Thiên Hậu Thánh Mẫu (đền Trà Cổ):[/B] Đây là ngôi đền cổ, xuất hiện với đình Trà Cổ.Đền thờ tượng Bà Thiên Hậu Thấnh Mẫu, tương truyền là một pho tượng trôi từ biển vào.Lúc đầu đền chỉ là một lán nhỏ trong rừng chay,dần dần đền đã được tu bổ trở nên khang trang và toạ lạc trên một khu đất rộng.Trong đền có một cây chay cổ thụ có tuổi khoảng 700 năm. Đền có tiếng là linh thiêng,bởi vậy lễ hội đền hàng năm rất đông người từ nhiều vùng đến tham dự (lễ hội ngày 23/3 âm lịch kéo dài 3 ngày). [B]Nhà thờ Trà Cổ[/B] Mảnh đất Trà Cổ nhỏ bé ,dân cư thưa thớt nhưng lại có một ngôi nhà thờ khá lớn ,kiến trúc đẹp ,được xây dựng từ những năm 1880.Trong nhà thờ có một chuông cổ có từ 80 năm trước,sau một thời gian hư hỏng ,đến năm 1995 nhà thờ được sữa chữa lớn.Hàng trăm bức phù điêu được khôi phục,trả lại cho nhà thờ dáng vẻ cổ kính khi xưa.[/SIZE][/SIZE] [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
DU LỊCH
Việt Nam Travel
Địa Lý Du Lịch -Tài liệu môn học
Top