4.2.Địa lí cây công nghiệp
4.2.1.Vai trò và đặc điểm
- Cây công nghiệp cho sản phẩm dùng để làm nguyên liệu cho công nghiệp chế biến, đặc biệt là công nghiệp nhẹ và công nghiệp thực phẩm. Phát triển cây công nghiệp còn khắc phục được tính mùa vụ, tận dụng tài nguyên đất, phá thế độc canh và góp phần bảo vệ môi trường. Giá trị sản phẩm của cây công nghiệp sẽ tăng lên nhiều lần sau khi được chế biến. Vì thế, trong vùng trồng cây công nghiệp thường xuất hiện xí nghiệp chế biến. ở nhiều nước đang phát triển thuộc vùng nhiệt đới và cận nhiệt, sản phẩm cây công nghiệp trở thành mặt hàng xuất khẩu quan trọng, mang lại nguồn thu lớn về ngoại tệ.
- Đa phần cây công nghiệp là cây ưa nhiệt, ưa ẩm, đòi hỏi đất thích hợp, với biên độ sinh thái hẹp. So với cây lương thực, các loại cây này cần lao động có kỹ thuật, kinh nghiệm sản xuất và sử dụng nhiều lao động (số ngày công lao động trên một đơn vị diện tích trồng cây công nghiệp thường gấp 2 đến 3 lần). Cây công nghiệp lâu năm đòi hỏi đầu tư lớn, lâu thu hồi vốn. Chẳng hạn như trồng cây cao su phải mất 7 năm mới được thu hoạch. Do vậy, cây công nghiệp thường được trồng ở những nơi có điều kiện thuận lợi nhất và từ đó tạo nên các vùng chuyên canh quy mô lớn.
Có nhiều loại cây công nghiệp và có thể được sắp xếp theo các nhóm như:
+ Các cây lấy đường: mía, củ cải đường, thốt nốt...
+ Các cây lấy sợi: bông, đay, gai, lanh, dứa sợi ...
+ Các cây lấy dầu: dừa, lạc, đậu tương, cọ dầu, hướng dương, ô liu...
+ Cây lấy nhựa: cao su, thông, sơn ...
+ Cây cho chất kích thích: chè, cà phê, ca cao...
4.2.2.Cây lấy đường
- Đường được sản xuất từ 2 nguồn nguyên liệu chính:
+ Mía là cây trồng ở vùng nhiệt đới chiếm trên 60% sản lượng đường của thế giới;
+ Củ cải đường là cây cận nhiệt và ôn đới chiếm phần còn lại.
Ngoài hai nguồn nguyên liệu này, có thể sản xuất đường từ loại cây trồng khác (như thốt nốt...), song sản lượng hầu như không đáng kể.
- Tình hình sản xuất đường
Đường được sản xuất nhiều nhất ở châu Mỹ (33% sản lượng thế giới), châu á (29%) và châu Âu (25%). Châu Phi và châu Đại dương có sản lượng đường không đáng kể.
Đường là sản phẩm rất cần thiết cho nhu cầu của con người, nguyên liệu cho các ngành công nghiệp thực phẩm, dược phẩm... Các nước xuất khẩu chủ yếu là Braxin, Cu Ba, Ôxtrâylia, Thái Lan, Nam Phi... Những nước nhập khẩu đường là Nga, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Hoa Kỳ, Malaixia...
- Cây mía
+ Trong số các loại cây trồng để lấy đường của vùng nhiệt đới, mía là cây quan trọng và phổ biến nhất. Cây mía thuộc họ Lúa và là cây thân thảo lớn, sống nhiều năm. Trong thân cây mía có chứa 80- 90% nước dịch, với hàm lượng đường là 16- 18%. Khi mía già, người ta chặt rồi ép lấy nước, chế lọc và cô đặc thành đường. Mía được chế biến bằng phương pháp công nghiệp trong nhà máy và tạo thành đường kết tinh. Ngoài ra, mía còn được chế biến bằng phương pháp thủ công, cho các sản phẩm là mật, đường phên (đường đen), đường hoa mai. Nước mía ép dùng để chế biến rượu, cồn. Mía cây để ăn tươi và uống giải khát; lá mía để lợp nhà; bã mía để sản xuất giấy, mũ, đun bếp...
+ Cây mía có nguồn gốc ở vùng nhiệt đới, với hai trung tâm phát sinh là đảo Tân Ghinê (phía Đông quần đảo Inđônêxia) và ấn Độ, sau đó lan rộng ra toàn bộ khu vực Đông Nam á và châu Đại Dương. Sau thế kỷ XVI, nhờ sự phát triển giao thông vận tải đường biển, mía được người Âu đưa sang trồng ở châu Mỹ và châu Phi. Ngày nay, mía được trồng trên toàn bộ vành đai nhiệt đới của Trái đất trong phạm vi vĩ tuyến từ 330B đến 300N.
Nói chung, cây mía đòi hỏi điều kiện nhiệt và ẩm rất cao. Mía phát triển thuận lợi ở nhiệt độ từ 30 - 350C. Nếu nhiệt độ dưới 100C và kéo dài thì mía sẽ ngừng phát triển và chết. Lượng mưa trung bình năm từ 1.000- 2.000 mm, với mùa khô 4- 5 tháng. Trong thời gian sinh trưởng nếu không đủ độ ẩm, cây sẽ chậm phát triển, giảm chiều dài các gióng và tỷ lệ đường thấp. Nếu điều kiện khí hậu khô nhưng đất được tưới đủ ẩm thì vẫn trồng được tốt (Pêru, Ai Cập). Đến thời kỳ mía chín, nếu thời tiết hanh khô thì sự tích luỹ đường của mía sẽ cao (hanh heo mật trèo lên ngọn). Vì thế ở những vùng mưa nhiều và phân bố đều quanh năm, việc trồng mía không đem lại hiệu quả kinh tế do tỷ lệ đường thấp. Cây mía thích hợp với đất phù sa mới, chịu được loại đất cát pha, đất thịt nặng.
Mía được trồng bằng ngọn và gọi là hom mía. Từ hom mía, các mầm non mọc lên và phát triển thành cây. Vì là cây sống nhiều năm nên lần trồng đầu tiên phải sau 15- 24 tháng mới cho thu hoạch. Sau khi chặt hết mía cây, người ta lại bón phân để mía mọc mầm và phát triển thành vụ thứ hai, nhưng các vụ sau năng suất giảm. Do đó, sau 4- 5 năm người ta phải trồng lại.
Năng suất mía dao động trong khoảng 30- 50 tấn cây/ha tương đương với 3- 5 tấn đường thô.
+ ở nước ta, do điều kiện sinh thái khá rộng mà cây mía có thể phát triển được cả ở vùng núi, trung du lẫn ở đồng bằng từ Bắc vào Nam. Các vùng trồng mía lớn nhất là đồng bằng sông Cửu Long, Duyên hải miền Trung và Đông Nam Bộ. Diện tích và sản lượng mía có tăng, nhưng không ổn định. Năm 2003, diện tích trồng mía của nước ta đạt 320 nghìn ha, với sản lượng 16,5 triệu tấn mía cây, gần 1,4 triệu tấn đường, đứng thứ 15 trên tổng số 103 nước có trồng mía.
- Củ cải đường
+ Củ cải đường là tên gọi chung cho một số cây củ cải làm ra đường mà có gốc là loài củ cải biển. Đây là cây mọc hoang dại, cây 1 năm, sau đó được thuần hoá thành cây 2 năm, cho năng suất rất cao.
+ Củ cải đường nói chung bé hơn so với củ cải làm rau ăn và nuôi gia súc. Về thành phần, ngoài 80% nước còn chứa từ 15- 19% đường (tương đương với mía). Ngoài ra, trong củ cải đường còn có chứa đạm, sắt, canxi, vitamin B¬1, B2.
+ So với mía, củ cải đường được biết đến muộn hơn, mới chỉ cách đây hơn 200 năm. Năm 1747, một người Đức tên là Macgơrap phát hiện củ cải biển có chứa saccarô. Do trong nước ép có chứa nhiều chất đạm và các chất khác cản trở sự kết tinh của đường nên phải mất gần nửa thế kỷ, người ta mới biết kỹ thuật lấy đường từ củ cải. Công nghệ làm đường từ loại củ cải này chỉ bắt đầu vào đầu thế kỷ XIX, khi nước Pháp của Napôlêông bị các nước khác, phong toả, không nhập được đường từ thuộc địa. Hơn nữa, do giá thành quá đắt khiến người ta chỉ bắt đầu chế biến đường từ củ cải vào năm 1811.
+ Củ cải đường là cây lấy đường của các nước ôn đới và được trồng từ vĩ tuyến 470B đến 540B. Đất trồng phải giầu dinh dưỡng, thích hợp nhất là đất đen, đất phù sa, cày bừa kỹ và bón phân đầy đủ. Cây củ cải đường thường được trồng luân canh với lúa mì, tập trung ở các nước Tây Âu (Pháp, Đức) và Đông Âu (Ucraina, LB Nga, Ba Lan), Hoa Kỳ, Thổ Nhĩ Kỳ...
4.2.3.Cây cho chất kích thích
- Cây cà phê
+ Cà phê là một trong ba cây trồng (cà phê, chè, ca cao) làm thức uống phổ biến rộng rãi nhất trên thế giới. Cà phê được nhiều người ưa chuộng, là đồ uống chủ yếu của các dân tộc châu Âu, Bắc Mỹ bởi vì ngoài hương thơm rất hấp dẫn, trong cà phê còn chứa cafein có tác dụng kích thích thần kinh, trước hết là vỏ não, làm tăng quá trình hô hấp, tuần hoàn máu, kích thích tiêu hoá và hoạt động của các mô. Uống cà phê làm cho cơ thể sảng khoái và dễ chịu. Trong y học, người ta dùng cà phê để chữa bệnh huyết áp cao và suy nhược thần kinh.
+ Cây cà phê có nguồn gốc ở vùng nhiệt đới ẩm châu Phi. Tên gọi cà phê có thể là tên gọi của địa phương nơi phát hiện ra nó- làng Caffa- nằm ở tây nam cao nguyên Êtiôpia. Cà phê có thể xuất hiện cách đây 500 năm, nhưng đến thế kỷ XVII, sản phẩm của cà phê mới được đưa vào châu Âu và sau đó trở thành nhu cầu phổ biến của khu vực này. Đến cuối thế kỷ XVII, cà phê được đưa sang trồng ở Xri Lanca, rồi khu vực Đông Nam á và các nước châu Mỹ.
+ Cà phê là cây rất ưa nhiệt (nhiệt độ >150C) và ưa ẩm (lượng mưa trên 1.250 mm/năm). Cây này phát triển thuận lợi nhất ở những vùng có lượng mưa từ 1.900 -3.000 mm và phân bố đều trong năm. Cà phê ưa đất tơi xốp, giàu chất dinh dưỡng, nhất là vùng đất đỏ đá vôi và đất đỏ bazan. Nó chỉ phát triển được trong các vùng nằm giữa hai chí tuyến Bắc và Nam, không vượt quá giới hạn 35° và độ cao 1300m. Cà phê hiện nay được trồng tập trung ở Trung Mỹ, quần đảo Ăngti, Đông Nam Braxin, Tây và Trung Phi, Tây Nam ấn Độ và Đông Nam á, trong đó có Việt Nam.
+ Hiện nay trên thế giới có 3 loại cây cà phê được trồng phổ biến với giá trị kinh tế cao.
• Cà phê chè (hay cà phê Arabica) có nguồn gốc ở cao nguyên Êtiôpia. Cà phê chè có hương thơm, vị đậm nên được thị trường thế giới ưa chuộng và là loại có giá trị trao đổi cao nhất, chiếm 90% sản lượng cà phê của thế giới. Tuy nhiên cà phê chè khó trồng vì thường bị sâu bệnh phá hoại. Khu vực trồng nhiều loại cà phê này tập trung ở Trung và Nam Mỹ.
• Cà phê vối (hay cà phê Robusta) có nguồn gốc ở lưu vực sông Cônggô, thuộc vùng khí hậu xích đạo. Cà phê vối dễ trồng, năng suất cao, nhưng kém chịu rét và chất lượng không thơm ngon bằng cà phê chè. Cà phê vối được trồng nhiều ở Inđônêxia.
• Cà phê mít (hay cà phê Sary) có nguồn gốc ở Libêria thuộc Tây Bắc Châu Phi nhiệt đới. Cà phê mít dễ trồng, có khả năng chịu được hạn và sương muối nhưng năng suất thấp, có vị chua, ít thơm, phẩm chất kém hơn cà phê chè và cà phê vối nên nhu cầu tiêu thụ thấp, giá rẻ.
Cây cà phê có thể trồng bằng hạt hay giâm cành. Sau 2- 3 năm bắt đầu cho thu hoạch. Chu kì kinh tế không quá 25 năm.
+ Tình hình sản xuất và phân bố
Sản lượng cà phê của thế giới không ngừng tăng lên do thói quen uống cà phê hàng ngày đã phổ biến trong 1/3 dân số thế giới, song không ổn định.
Những quốc gia đứng đầu về sản lượng cà phê năm 2003 là Braxin (1,99 triệu tấn chiếm 27,6% sản lượng thế giới), Việt Nam (0,77 triệu tấn và 10,7%), Côlômbia (0,7 triệu tấn và 9,7%), Inđônêxia (0,62 triệu tấn và 8,6%), ấn Độ (0,32 triệu tấn và 4,4%) và Mêhicô (0,31 triệu tấn và 4,3%)...
Trong thời gian gần đây, hàng năm thế giới tiêu thụ trên dưới 6 triệu tấn cà phê, trong đó các nước EU tiêu thụ tới 40% sản lượng cà phê của thế giới, Hoa Kỳ 30%. Nhu cầu uống cà phê của các dân tộc ở châu Âu và Bắc Mỹ rất lớn, nhưng đa phần các nước này lại không trồng được cà phê. Vì thế cà phê là mặt hàng xuất khẩu quan trọng hàng đầu của nền nông nghiệp nhiệt đới.
Những nước nhập khẩu cà phê chủ yếu là Hoa Kỳ, CHLB Đức, Anh, Pháp, Italia, Nhật Bản...
Hiện nay Việt Nam đứng thứ hai về sản xuất và xuất khẩu cà phê sau Braxin. Các vùng trồng cà phê lớn nhất cả nước là Tây Nguyên và Đông Nam Bộ.
- Cây chè
+ Chè là đồ uống chủ yếu của các dân tộc ở châu á, Nga, Ănglô Xắcxông với hơn 1/2 nhân loại.
Chè có khả năng kích thích hệ thần kinh và làm giảm mệt nhọc cho cơ thể. Hỗn hợp tananh trong chè có tác dụng giải khát, giúp cho tiêu hóa, chữa được bệnh đường ruột. Ngoài ra, chè còn chứa các chất dinh dưỡng prôtêin, aminôaxit, các vitamin C, B1, B2, PP.
Chè được loài người sử dụng sớm hơn cà phê rất nhiều, cách đây hàng ngàn năm. Mỗi dân tộc lại có một cách uống trà khác nhau. Người Trung Quốc uống trà nóng đựng trong chén sứ có hoa văn đẹp với nắp đậy. Người Việt Nam ở miền Bắc thì uống trà đặc nóng trong chén nhỏ, pha rất cầu kỳ, trong khi người Nam Bộ lại uống trà với đá đựng trong cốc thuỷ tinh to. Người châu Âu và Bắc Mỹ uống trà đen nóng với đường và chanh bằng cốc lớn. Người Nhật có nghệ thuật trà đạo, xát trà thành bột đặc quánh, nhấp trà với lễ nghi cầu kỳ. Người Nga uống trà nóng pha trong bình lớn đặc biệt với tên gọi Samôva.
+ Chè là cây bụi thường xanh của miền nhiệt đới và cận nhiệt đới gió mùa. Quê hương của cây chè là Mianma, Việt Nam và Đông Nam Trung Quốc. Có lẽ chè xuất hiện cách đây 5000 năm và từ đây lan sang các nơi khác. Vào đầu thế kỷ XIX, người Âu đem chè về trồng ở các thuộc địa ấn Độ, Pakixtan, Xri Lanca, Inđônêxia.
Cây chè thích hợp với nhiệt độ ôn hòa (15 - 250C) với yêu cầu tổng nhiệt độ hàng năm 8.0000C, lượng mưa lớn 1.500 - 2.000 mm rải đều quanh năm, độ ẩm không khí và đất 70 - 80% kéo dài nhiều tháng, độ cao thích hợp 500- 1000m, và giới hạn đến 2000m. Chè có khả năng chịu được sương muối; thích hợp với đất chua (pH từ 4 đến 6).
Hiện nay, chè được trồng ở vành đai nhiệt đới và lên tới vĩ tuyến 37°B, tập trung ở Đông Nam Trung Quốc, Đông Nam á, ấn Độ, Xri Lanca, Trung á, Nga, Đông Phi.
Trên thế giới đang phổ biến 4 loại chè chính: chè ấn Độ (hay còn gọi chè Atxam) với đặc điểm chịu lạnh, lá lớn và mềm, dễ vò, tỷ lệ búp cao, dễ chăm sóc và thu hái; chè Trung Quốc lá nhỏ, dày; chè Vân Nam lá lớn và chè San lá lớn, mềm.
+ Sản lượng chè tăng đều qua các năm và tương đối ổn định.
Những nước trồng nhiều chè (năm 2003) là ấn Độ (885 nghìn tấn), Trung Quốc (735 nghìn tấn), Xri Lanca (310 nghìn tấn), Kênia (290 nghìn tấn), Inđônêxia (160 nghìn tấn), Thổ Nhĩ Kỳ (150 nghìn tấn), Việt Nam (95 nghìn tấn), Nhật (84 nghìn tấn), Achentina (63 nghìn tấn) và Bănglađet (60 nghìn tấn). Mười nước này chiếm tới 88% sản lượng chè của toàn thế giới.
+ Chè được tiêu thụ dưới hai dạng khác nhau: chè đen và chè xanh. Trên thế giới, thị trường chè đen có sức mua lớn hơn thị trường chè xanh.
Lượng chè xuất khẩu hàng năm trên thế giới là trên 1 triệu tấn. Các nước xuất khẩu nhiều chè nhất thế giới là Trung Quốc, Kênia, ấn Độ, Xri Lanca, Inđônêxia. Thị trường nhập khẩu là Anh, Pakixtan, Hoa Kỳ, LB Nga, Ai Cập.
+ Việt Nam có những vùng chè nổi tiếng thơm ngon như chè xanh Tân Cương (Thái Nguyên), chè Suối Giàng (Yên Bái), chè San (Hà Giang). Đó là những loại chè có vị đượm, ngon nước, mầu nước trong xanh và pha đến ba bốn lần vẫn đượm mùi thơm. Ngoài ra còn có vùng chè Bảo Lộc (Lâm Đồng), chè Mộc Châu (Sơn La).
Hàng năm, nước ta trồng khoảng 100 nghìn ha chè với sản lượng trung bình 90 nghìn ha và xuất khẩu trên dưới 60 nghìn tấn. Việt Nam đứng thứ 7 trong tổng số 45 nước trồng chè và đứng thứ 8 về xuất khẩu chè. Các vùng chè nổi tiếng là Đông Bắc và Tây Nguyên.
- Ngoài cây cà phê và chè được con người sử dụng làm đồ uống hàng ngày, người ta còn biết đến cây ca cao, loài cây có nguồn gốc từ vùng rừng xích đạo của châu Phi và Nam Mỹ. Hạt cây ca cao đem rang có mùi thơm, sau đó ép lấy bớt dầu rồi xay thành bột, pha nước uống và làm sôcôla. Hạt ca cao có chứa 50% chất béo, gần 15% chất đạm, 1- 2% chất kích thích có tác dụng chống mệt mỏi, tăng cường hoạt động của tim...
Cây ca cao
Ca cao được trồng ở 50 nước trên thế giới với sản lượng hàng năm khoảng 3 triệu tấn, trong đó 70% tập trung ở 3 nước Côtđivoa, Gana và Inđônêxia. Các nước có nhu cầu nhập khẩu nhiều ca cao là Hoa Kỳ và EU (Bỉ, Hà Lan, Anh, Pháp, Đức...).
4.2.4.Cây lấy sợi
- Cây bông
+ Trong nhóm các cây lấy sợi thì bông là cây trồng quan trọng nhất, cung cấp hơn 1/2 nguồn nguyên liệu cho công nghiệp dệt. Xơ bông là nguyên liệu cho công nghiệp kéo sợi, dệt vải, dùng trong y tế, làm giấy và các sản phẩm khác. Hạt bông chứa từ 18- 26% dầu được dùng trong bữa ăn và sử dụng trong công nghiệp. Là loại cây có sợi đến với con người sau cùng nhưng do giá trị quan trọng của nó mà ngày nay, bông trở nên thông dụng nhất. Ngày nay tuy sợi tổng hợp đã phát triển mạnh nhưng bông tự nhiên vẫn có những đặc tính quý mà sợi tổng hợp không thể có được. Sợi bông được nhiều người ưa chuộng và là sản phẩm buôn bán quan trọng trên thị trường thế giới.
+ Bông là cây nhiệt đới ưa nóng và ánh sáng có thể phát triển được ở nhiệt độ 17 - 200C, nhưng thích hợp nhất là 25 - 300C. Nếu nhiệt độ xuống dưới 50C cây sẽ chết. Cây bông không cần ẩm (độ ẩm của đất thích hợp nhất trong thời gian sinh trưởng từ 60 - 70%, lúc quả chín từ 40 - 45%). Lượng mưa cần thiết 800 - 1.000mm. Bông cần khí hậu tuyệt đối ổn định, đất tốt, nhiều phân bón nên đòi hỏi nhiều vốn và lao động.
Bông cần điều kiện địa lý đặc biệt: nhiệt độ phải đều đặn từ khi nảy mầm đến khi chín, mùa bông ra quả phải có mưa nhiều, nhưng lúc quả chín lại cần thời tiết tuyệt đối hanh khô, nếu không quả bông nở chín, sợi sẽ bị hao hụt nhiều. Vì thế, trồng bông tốt nhất là ở các vùng có khí hậu nhiệt đới và gió mùa. Các vùng khô hanh muốn trồng phải có công trình thuỷ lợi. Trồng bông đòi hỏi nhiều nhân công để tỉa ngọn, làm cỏ, xới và tưới, đặc biệt là hái bông phải kịp thời.
Về phân bố, cây bông chủ yếu tập trung ở vùng nhiệt đới. Giới hạn rộng nhất của nó là từ vĩ tuyến 420Bắc đến 320Nam. Cây bông phân bố chủ yếu ở vùng trung tâm và phía Nam Hoa Kỳ, Trung Mỹ, Pêru, Đông Nam Braxin, Bắc Achentina, Ai Cập, các nước Tây và Trung Phi, cao nguyên Đêcan của ấn Độ, Trung á, Pakixtan và phía đông Trung Quốc.
+ Trên thế giới có nhiều loài bông được trồng, nhưng phổ biến hơn cả là hai loài. Bông Mêhicô (còn gọi là bông luồi) chiếm 2/3 sản lượng bông thế giới với ưu điểm là sợi trắng và dài 25- 30 mm, năng suất cao, chất lượng xơ khá tốt, lại chịu được hạn. Bông Pêru (còn gọi là bông hải đảo) với thế mạnh sợi mịn, dài từ 36- 38 mm đến 70 mm, chất lượng xơ tốt, song khó trồng, dễ bị sâu bệnh, chiếm 6- 7% sản lượng bông thế giới. Đây là hai loài quan trọng nhất được trồng ở khắp các châu lục. Ngoài ra còn có bông cỏ châu á, bông cỏ á Phi và bông Ai Cập.
+ Trong thập niên 90 của thế kỉ XX và những năm đầu của thế kỉ XXI, sản lượng bông của thế giới dao động ở mức 20 triệu tấn/năm.
Các nước có sản lượng bông sợi lớn nhất (năm 2003) là Trung Quốc (trên 25% sản lượng thế giới), Hoa Kỳ (trên 20%), ấn Độ (9%), Pakixtan (9%), Udơbêkixtan (6%) và các nước khác như Thổ Nhĩ Kỳ, Braxin, Ai Cập, Hi Lạp...
Các nước có nhu cầu tiêu thụ nhiều bông là Trung Quốc, ấn Độ, Pakixtan, Hoa Kỳ, các nước EU (Anh, Pháp, Đức, Italia...) và các nước Đông Nam á.
Ngành công nghiệp dệt vải bông của thế giới phụ thuộc nhiều vào việc sản xuất sợi bông. Có hai xu hướng sản xuất vải bông. Đó là những nước phát triển trông chờ vào nguồn nguyên liệu nhập (như Anh, Pháp, Đức) và những nước dựa trên nguồn sợi bông của chính mình như (Hoa Kỳ, Trung Quốc, ấn Độ, Ai Cập).
+ ở Việt Nam, nghề trồng bông đã có từ thế kỷ XIII, nhưng đến thế kỷ XIX mới phát triển mạnh. Diện tích và sản lượng bông không ổn định do tính chất thất thường của khí hậu và cả nhu cầu của thị trường. Từ năm 1998 trở lại đây, diện tích trồng bông đạt mức hơn 20 nghìn ha, năm cao nhất trên 34 nghìn ha (năm 2002). Sản lượng bông dao động từ 22 nghìn tấn (1998- 1999) đến 40 nghìn tấn (2002).
Hai vùng trọng điểm trồng bông của nước ta là Đồng Nam Bộ và Tây Nguyên. Các tỉnh trồng nhiều bông là Đắc Lắc, Đồng Nai. Ngoài ra, nó còn phân bố ở cả duyên hải Nam Trung Bộ (Bình Thuận, Ninh Thuận).
Sản lượng bông của nước ta chỉ đáp ứng được trên 10% nhu cầu trong nước. Hàng năm, Việt Nam phải nhập trên 80 nghìn tấn bông của Trung Quốc, ấn Độ.
- Cây đay
+ Đay là cây công nghiệp quan trọng và có giá trị kinh tế cao. Sợi đay qua chế biến được dùng để dệt vải bạt, vải buồm, vải lót lốp ô tô. Còn bẹ đay dùng để dệt bao tải, đan võng, bện thừng. Ngoài ra người ta còn dùng thân đay để chế bột giấy, làm củi đun. Lá non của một vài giống đay có thể dùng làm thức ăn cho người và gia súc.
+ Là cây nhiệt đới có nguồn gốc ở ấn Độ và Bănglađét, cây đay ưa khí hậu nóng và ẩm, phát triển thuận lợi ở nhiệt độ 25- 260C. Nếu nhiệt độ thấp hơn 180C cây phát triển khó khăn, khi gặp hạn hán đay ngừng phát triển. Lượng mưa trung bình năm cần 1.500mm và độ ẩm không khí 70- 80%. Đay có thể chịu ngập nước từ 7- 8 ngày. Cây đay thuộc loại phát triển nhanh, thời gian sinh trưởng ngắn nên đòi hỏi đất phải có nhiều màu. Đất thích hợp cho đay phát triển là đất phù sa ven sông, cát pha, thịt nhẹ và trung bình.
Ngày nay, đay được trồng ở nhiều nước trên thế giới, nhưng tập trung nhất là vùng Đông Bắc ấn Độ và Bănglađet- nơi phát sinh cây đay và trồng đay lâu đời nhất, đồng thời cũng là nơi có điều kiện khí hậu nóng ẩm, đất phù sa màu mỡ, thích hợp cho sự phát triển của cây. Ngoài ra, đay còn được trồng ở Pakixtan, Trung Quốc, Mianma, Việt Nam...
+ Sản lượng đay của thế giới đạt xấp xỉ 3 triệu tấn (năm 2003), đứng đầu là ấn Độ (gần 1,8 triệu tấn, 64% sản lượng thế giới), tiếp theo là Bănglađet (0,8 triệu; 28,5%), Mianma (0,04 triệu tấn; trên 14%), Trung Quốc (0,09 triệu tấn; 3,2%).
+ ở nước ta, cây đay được trồng tại các tỉnh Hưng Yên, Hà Nam, Thái Bình, Long An, Thanh Hoá với diện tích khoảng 7,5 nghìn ha và sản lượng đạt 20 nghìn tấn.
Trong số các cây trồng lấy sợi, ngoài bông, đay còn có gai, dứa sợi và lanh.
4.2.5.Cây lấy dầu
Dầu thực vật được lấy từ các cây công nghiệp hàng năm (lạc, đậu tương, hướng dương, vừng...) và cây công nghiệp lâu năm (ôliu, dừa, cọ dầu...). Xu hướng phổ biến hiện naydùng dầu thực vật thay cho mỡ động vật trong bữa ăn hàng ngày vì chứa ít cholesteron, không gây béo phì, ảnh hưởng tới tim mạch càng làm tăng vai trò của các cây lấy dầu.
- Cây lạc
+ Lạc là cây lấy dầu và thực phẩm quan trọng được trồng ở nhiều nước trên thế giới. Dầu lạc dùng làm dầu ăn, dầu tinh chế, bơ thực vật. Ngoài ra, ở nhiều nơi lạc còn là thức ăn trong bữa ăn hàng ngày của con người. Khô lạc dùng để chế biến thức ăn cho gia súc rất tốt. Vỏ, quả, thân, lá dùng làm thức ăn cho lợn và trâu bò.
+ Lạc có nguồn gốc từ vùng Nam Mỹ nhiệt đới (Braxin, Bôlivia...), rồi sau đó lan sang các nước khác ở Nam Mỹ. Đến thế kỷ XVI, cây lạc được đưa sang trồng ở châu Phi, Đông Nam á, Trung Quốc và nhanh chóng trở thành cây trồng phổ biến của các vùng này. Từ vùng nhiệt đới, lạc dần dần lan sang các vùng cận nhiệt và ôn đới. ở Hoa Kỳ, mãi đến cuối thế kỷ XIX, cây lạc mới được trồng ở các bang phía Đông Nam. Trong thời gian sinh trưởng, lạc cần khí hậu nóng và đủ ẩm, nhiệt độ thấp nhất trên 14°C, trung bình 220C. Lượng mưa trung bình 400- 800mm. Lạc ưa đất nhẹ, tơi xốp và dễ thoát nước. Hiện nay, lạc được trồng rộng rãi trên thế giới. ở Bắc bán cầu nó lên tới vĩ tuyến 350 Bắc ở Bắc Mỹ và 480 Bắc ở lục địa á - Âu. ở Nam bán cầu, lạc được trồng tới vĩ tuyến 350 Nam (Achentina).
Người ta thường trồng hai loại lạc chính: lạc dài ngày (6 tháng) cho củ to, năng suất cao nhưng khó trồng và lạc ngắn ngày (3 tháng), dễ trồng, dễ tăng vụ.
+ Sản lượng lạc của thế giới trong những năm gần đây dao động ở mức 30 triệu tấn lạc nhân và khoảng trên dưới 5 triệu tấn dầu lạc/năm.
Những nước đứng đầu thế giới về sản lượng lạc nhân năm 2003 là Trung Quốc (15,3 triệu tấn chiếm 41,4% sản lượng của thế giới), ấn Độ (7,5 triệu tấn; 20,3%), Nigiêria (2,7 triệu tấn; 7,3%), Hoa Kỳ (1,9 triệu tấn; 5,1%), Xu Đăng (1,2 triệu tấn; 3,2%). Ngoài ra còn có một số nước khác như Xênêgan, Inđônêxia, Gana, Sát, Minama. Với sản lượng 400 ngàn tấn năm 2003, Việt Nam đứng thứ 11 trên tổng số 112 nước có trồng lạc. Cây lạc ở nước ta được trồng nhiều ở hai vùng Bắc Trung Bộ và Đông Nam Bộ.
- Cây đậu tương
+ Cây đậu tương có hạt làm thực phẩm (đậu phụ, xì dầu, tương, sữa đậu nành, sữa bột, tào phớ, phù chúc, bơ thực vật) hoặc ép để lấy dầu. Khô dầu dùng cho chăn nuôi. Hạt đậu tương có tỷ lệ chất đạm và chất béo cao nhất trong các loại đậu.
+ Đậu tương được mệnh danh là “con bò sữa” của người Trung Quốc và có nguồn gốc từ nước này. Nó ưa ẩm và không đòi hỏi nhiệt với nhiệt độ trung bình khoảng 22 - 250C. Tuy nhiên, nếu nhiệt độ xuống dưới 4°C thì cây không phát triển. ở nửa đầu thời kỳ sinh trưởng và vào thời kỳ quả chín, cây cần thời tiết khô hơn. Đậu tương thích hợp với nhiều loại đất, tơi xốp, thoát nước.
Từ lâu, đậu tương được trồng nhiều ở các nước nhiệt đới, cận nhiệt thuộc vùng Đông á, Đông Nam á. Ngày nay nó được trồng ở cả các nước ôn đới. Về phân bố, giới hạn phía Bắc của cây đậu tương lên đến vĩ tuyến 500 Bắc ở lục địa á - Âu và 470 Bắc ở Bắc Mỹ.
Sản lượng đậu tương và dầu đậu tương của thế giới tăng nhanh và ổn định từ năm 1990 đến nay.
Những nước có sản lượng đậu tương đứng đầu thế giới (năm 2003) là Hoa Kỳ (65,8 triệu tấn chiếm 34,7% sản lượng của thế giới), Braxin (51,5 triệu tấn; 27,2%), Achentina (34,8 triệu tấn; 18,4%), Trung Quốc (16,9 triệu tấn; 8,9%), ấn Độ (6,8 triệu tấn; 3,6%), Paragoay (4,4 triệu tấn; 2,3%), Canađa (2,3 triệu tấn; 1,2%) và Bôlivia (1,65 triệu tấn; 0,9%).
Như vậy, các nước trồng nhiều đậu tương đều thuộc châu Mỹ và châu á. Riêng ba nước châu Mỹ là Hoa Kỳ, Braxin, Achentina đã chiếm trên 80% sản lượng, đồng thời cũng là những nước xuất khẩu đậu tương hàng đầu thế giới.
+ ở nước ta, cây đậu tương được trồng nhiều tại các vùng trung du miền núi phía Bắc và Tây Nguyên. Diện tích và sản lượng tăng nhanh, từ 110 nghìn ha và 86,6 nghìn tấn năm 1990 lên 158,6 nghìn ha và 205,6 nghìn tấn năm 2002. Năm 2003, sản lượng đậu tương đạt 225,3 nghìn tấn.
Ngoài lạc và đậu tương, trong nhóm cây lấy dầu còn có dừa, cọ dầu, quỳ...
4.2.6.Cây lấy nhựa
- Trong số các cây lấy nhựa tiêu biểu nhất là cây cao su. Cao su được sử dụng rộng rãi trong các ngành công nghiệp và trong đời sống. Đối với công nghiệp sản xuất ô tô, máy bay và phương tiện đi lại khác, cao su được sử dụng làm vỏ ruột xe hơi, máy bay, xe gắn máy, xe đạp, làm đệm xe... Đối với công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, cao su được sử dụng làm giầy dép, đệm giường, đồ giả da, bọc cáp điện, các chất chống thấm...Hiện nay tuy đã có cao su nhân tạo và giá thành hạ, nhưng nhờ có ưu thế riêng nên nhu cầu về cao su thiên nhiên vẫn rất lớn.
- Quê hương của cây cao su là vùng rừng nhiệt đới Amazôn ở Nam Mỹ. Tại đây, cao su mọc khắp trong các cánh rừng từ phía Bắc của Nam Mỹ (Guyan) đến Bắc sơn nguyên Braxin và vùng ven biển phía Đông, tới tận Riôđơ Gianerô.
Từ thời cổ xưa, người dân xứ nhiệt đới nàyđã biết đến cao su thiên nhiên, nhưng lúc đó chưa được phổ biến rộng rãi. Vào thế kỷ XIX, việc phát triển công nghiệp ô tô, máy bay đòi hỏi nhu cầu về săm lốp và vì thế, từ chỗ chỉ khai thác cao su tự nhiên mọc hoang trong rừng Amazôn, người ta bắt đầu trồng cao su. Năm 1876, Henri Vicghem mang hạt cao su Hêvêa về trồng thử ở Côlômbô và đã thành công. Từ đó cây cao su phát triển nhanh chóng sang các nước Đông Nam á và châu Phi. Ngày nay, cao su được trồng ở 27 nước thuộc châu Mỹ, châu Phi và châu á (Đông Nam á và Nam á).
Là loại thân gỗ lớn, có thể mọc cao 10- 40m, cây cao su là cây ưa nhiệt, phát triển thuận lợi trong điều kiện nhiệt độ từ 22 - 270C. Cao su cũng là cây ưa ẩm, đòi hỏi lượng mưa từ 1500- 2500mm, nhưng không chịu được gió bão (miền Trung và miền Bắc của Việt Nam không trồng được cây cao su). Cây này phát triển tốt nhất trên đất đỏ bazan núi lửa.
- Từ đầu thập niên 90 của thế kỉ XX cho đến nay, sản lượng cao su thiên nhiên của thế giới tăng liên tục.
Các quốc gia dẫn đầu về sản lượng cao su (năm 2003) là Thái Lan (2,9 triệu tấn chiếm 38,7% sản lượng của thế giới), Inđônêxia (1,6 triệu tấn; 21,3%), ấn Độ (0,65 triệu tấn; 8,7%), Malaixia (0,6 triệu tấn; 8%), Trung Quốc (0,55 triệu tấn; 7,3%), Việt Nam (0,39 triệu tấn; 5,2%). Các nước khác như Côtđivoa, Nigiêria, Braxin, Xri Lanca, Libêria... cũng có sản lượng cao su đáng kể.
- Cao su được đưa vào trồng ở Việt Nam từ năm 1897. Đến đầu thế kỷ XX người Pháp bắt đầu thành lập các đồn điền cao su ở vùng đất đỏ bazan Đông Nam Bộ, Tây Nguyên. Về sau này, cây cao su còn được trồng cả ở vùng Bắc Trung Bộ.
Ngành trồng cây cao su ở nước ta phát triển rất mạnh mẽ. Năm 1991, cả nước có 220 nghìn ha và đạt sản lượng 64,6 nghìn tấn, trong đó xuất khẩu gần 63 nghìn tấn. Đến hết năm 2003 các số liệu này đã tăng lên tương ứng là gần 430 nghìn ha, 314 nghìn tấn và 438 nghìn tấn (xuất khẩu cả số tồn kho của các năm trước). Cây cao su được trồng nhiều ở các tỉnh Bình Dương, Bình Phước, Đồng Nai, Tây Ninh (Đông Nam Bộ); Đăk Lăk, Gia Lai, Kon Tum (Tây Nguyên).
Nguồn: ĐHSP ĐT