Bài viết này, nhân nhận thức sâu sắc thêm mô hình mục tiêu về CNXH ở nước ta từ trong Di chúc Hồ Chí Minh, suy nghĩ về mô hình CNXH hiện nay ở nước ta, mà theo tác giả là loại mô hình CNXH thứ 3, khi tham khảo về mô hình Thụy Điển qua “Báo cáo khảo sát” của chuyên gia Trung Quốc, đã dịch đăng/ trích đăng trên tạp chí nước ta gần đây.
Vấn đề cần lưu ý là phương pháp tiếp cận, xem xét tình huống các loại mô hình phát triển như thế nào cho đúng, trúng với thực tế. Cần đổi mới tư duy, nhận thức lại về các mô hình XNCN hiện nay trên thế giới, chứ không chỉ là đối với mô hình XHCN tập trung và bao cấp, như mô hình Xô Viết.
I- Về mô hình định tính – Mục tiêu về CNXH trong di chúc (Mong muốn cuối cùng của Chủ tịch Hồ Chí Minh)
Trong Di chúc của mình Hồ Chí Minh, viết: “Mong muốn cuối cùng của tôi là Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu xây dựng một nước Việt Nam Hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”
Theo chúng tôi, xét về định tính thì có thể coi công thức “xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh…” (tất nhiên còn là vấn đề tự do và hạnh phúc nữa) là “mô hình” mục tiêu- động lực và bản chất của CNXH.
Tất nhiên xét về phương thức, thì mô hình CNXH lúc đó còn là mô hình CNXH thời chiến, tập trung bao cấp. Và Hồ Chí Minh cũng không bàn tới mô hình CNXH về mặt này.
Sang thời kỳ đổi mới, Đảng và nhân dân ta đã phủ định mô hình cũ, khi nó khủng hoảng, hết sức sóng, tận cùng của nó và sáng tạo nên mô hình mới về CNXH và phát triển theo CNXH. Nhưng vẫn kế thừa và làm sáng tỏ thêm mô hình định tính, về bản chất và mục tiêu của CNXH của Hồ Ch1i Minh: Xây dựng đất nước theo mô hình mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, vững bước tiến lên CNXH. Đó cũng là nội dung cơ bản định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tất nhiên, trong các mục tiêu đó, tuy Đảng ta nhiều lần và nhất là ở HCM có đề cập đến dân chủ, nhưng mãi đến Đại hội IX của Đảng mới bổ dung khái niệm dân chủ vào công thức mô hình định tính nói trên. Và trật tự dân chủ ở đâu là đúng trong công thức ấy cần phải nhận thức lại và sắp xếp lại cho hợp lý.
Điều đó chứng tỏ trong Đảng ta trước đó đã hiểu vấn đề dân chủ còn rất khác nhau, chưa thất chính xác, thậm chí có lúc có mặt còn ấu trĩ, định kiến, không đúng.
Chúng ta biết rằng Hồ Chí Minh là người theo chủ nghĩa Mác Lênin sáng tạo, và không tách rời sự nghiệp, tư tưởng của Ăngghen khỏi các vị kinh điển này. Với hoàn cảnh lịch sử tưởng tự, Hồ Chí Minh và Đảng ta cũng đi theo con đường cách mạng Tháng Mười Nga.
Nhưng với mô hình chủ nghĩa xã hội nhà nước, tập trung và bao cấp đã không phát huy được tác dụng, cuối cùng đi vào khủng hoảng. Từ trong cuốc sống dần dần đã xuất hiện mô hình mới. Mô hình cũ là mô hình phi thị trường, thành phần kinh tế sỡ hữu đơn nhất, kinh tế xã hội và chính trị nặng vè tập trung, kế hoạch trực tiếp, bao cấp, dân chủ tối thiểu, tập trung tối đa…
Chúng ta cũng đã có thời phê phán và loại trừ mô hình “chủ nghĩa xã hội dân chủ”, kể cả mô hình Thũy Điển. Mặc dù mô hình CNXHDC là khá phức tạp và có nhiều biến thể, nhưng rõ ràng nó vẫn có sức sống của nó (Chúng tôi chỉ muốn nói khái quát về phong trào xã hội dân chủ ở Tây Âu, và chỉ nói rất vắn tắt (vấn đề đó cần nói chi tiết ở một bài viết khác).
Sau Đại chiến I, năm 1919, thành lập "Quốc tế III" (tức Quốc tế Cộng sản); năm 1923, "Quốc tế II" khôi phục hoạt động, và đổi tên là "Quốc tế đảng Xã hội" 5. Từ đó trở đi, trong phong trào công nhân Tây Âu hình thành sự đối lập giữa hai thế lực nói trên (tức giữa một bên là các đảng Cộng sản với một bên là các đảng XHDC và các đảng Xã hội), nhưng ưu thế và ảnh hưởng chủ yếu là ở phía các đảng XHDC và đảng Xã hội, vì các đảng này không những chỉ lôi kéo được tuyệt đại đa số công nhân, mà lý luận và hoạt động của họ tương đối hợp với tâm lý của quảng đại các tầng lớp trung gian và trí thức ở các nước tư bản; giai cấp tư sản cũng tương đối có thể tiếp thu.
Ở đây, ta chưa nói về tình hình phức tạp vừa đấu tranh vừa hợp tác giữa hai thế lực nói trên (trong thời gian chiến tranh chống phát xít, hợp tác là chủ yếu), mà chính bản thân các đảng tham gia phong trào xã hội dân chủ trong phạm vi của Quốc tế Xã hội (các đảng XHDC và các đảng Xã hội) cũng rất phức tạp. Chủ trương của các đảng này không hoàn toàn nhất trí với nhau, ngoại trừ việc tất cả đều phủ định cách mạng bạo lực và nói chung đều tiếp thu CNXH dân chủ. Lúc đầu, nhìn chung còn tuân theo cương lĩnh của đảng XHDC Đức được soạn thảo dưới sự chỉ đạo của Ang-ghen năm 1889, khi thành lập Quốc tế II.
Về sau thì mỗi đảng đi một đường: có đảng tương đối cấp tiến; có đảng tương đối ôn hoà; có đảng tiếp tục giương ngọn cờ chủ nghĩa Mác; có đảng lại vứt bỏ ngọn cờ này mà chủ trương đa nguyên hoá tư tưởng chỉ đạo (trong đó có cả chủ nghĩa Mác), và chủ trương tư tưởng XHCN bắt nguồn từ nhiều con đường; có đảng vẫn coi mình là chính đảng của giai cấp công nhân, có đảng lại nói mình là đảng của nhân dân hoặc đảng của dân tộc; có đảng chủ trương hợp tác với đảng cộng sản trong nước mình; có đảng lại phản đối sự hợp tác đó, v.v... Một số đảng đã không dưới một lần cải tổ hoặc xây dựng lại, về khuynh hướng, cũng trước sau khác nhau. Nhưng nói tổng quát, bản tuyên ngôn công bố năm 1951, khi Quốc tế Xã hội tổ chức lại, về đại thể có thể coi là một khuynh hướng có tính tiêu biểu. Tuyên ngôn này viết: "Dù là người của đảng Xã hội xây dựng niềm tin của mình theo phương pháp phân tích xã hội của chủ nghĩa Mác, hoặc theo các phương pháp khác, dù là họ tiếp nhận sự gợi ý của nguyên tắc tôn giáo hoặc của nguyên tắc nhân đạo, tất cả họ đều phấn đấu vì mục tiêu chung. Mục tiêu đó là một chế độ phân phối xã hội công bằng, đời sống tốt đẹp, tự do và thế giới hoà bình."
Ở đây chưa viết rõ mục tiêu phấn đấu là chủ nghĩa xã hội, thế nhưng "Tuyên ngôn thành lập Quốc tế xã hội" hồi thập kỷ 20 thế kỷ XX từng khẳng định mục tiêu này, và nói rõ: "Mục đích của chủ nghĩa xã hội là giải phóng mọi người ra khỏi sự lệ thuộc vào một thiểu số người chiếm hữu hoặc kiểm soát tư liệu sản xuất. Mục đích của nó là giao quyền kinh tế cho toàn thể nhân dân, tiến tới xây dựng một xã hội khiến cho mọi con người tự do đều có thể, với địa vị bình đẳng, cùng làm việc với nhau trong xã hội." Cho nên, nhìn chung, phải chăng có thể nói là: phong trào CNXH dân chủ Tây Âu (hoặc gọi là "phong trào xã hội dân chủ", đều như nhau) hiện đang tìm kiếm một con đường khác để tiến lên CNXH (khác với con đường của Cách mạng Tháng Mười) ? Hoặc nói là, phong trào này từng bước ươm trồng các nhân tố XHCN trong cái bào thai tư bản chủ nghĩa, để bằng cách tiệm tiến (từ tích luỹ lượng biến dẫn đến chất biến từng phần, rồi đến chất biến cuối cùng) sáng tạo nên một hình thái mới của xã hội XHCN? Theo tôi, có thể nói như vậy được. Dĩ nhiên, sự sáng tạo này thường có tính thử nghiệm, không thể bước đều nhau hoặc có xu thế tiến lên theo đường thẳng, mà tuỳ theo sự thay đổi tình hình hoặc biến đổi so sánh lực lượng có thể có lặp đi lặp lại, có lúc tiến lên, có lúc lại tụt lùi. Nhưng có một đặc điểm: khi đã tiến lên rồi thì dù cho lại tụt lùi, nhưng trận địa đã chiếm được thì thường là không bị mất toàn bộ (thí dụ: về thực hiện chính sách phúc lợi và chế độ bảo đảm đời sống).
Ở đây, xin nêu hai thí dụ có thể giúp nói rõ vấn đề: một là cuộc cải cách do Công đảng Anh tiến hành năm 1945, và hai là mô hình Thụy-điển)
Khi thực hiện mô hình chủ nghĩa xã hội đổi mới ở VN hay Trung Quốc (chưa kể gần đây ở một số nước ở châu Mỹ- Latinh), thì mô hình mới vẫn có giữ lại một số yếu tố của mô hình cũ (chính trị nhất nguyên, vai trò chủ dịao của kinh tế nhà nước) nhưng “tiếp thu” (hay tự nó xuất hiện một cách tất yếu) nhiều yếu tố, nghĩa là không phải tất cả từ/của mô hình CNXHDC, như kinh tế thị trường, kinh tế hỗn hợp nhà nước pháp quyền, về dân chủ xã hội, xã hội phúc lợi hay an sinh xã hội và cả xã hội dân sự, dù chưa nêu ra khái niệm này. Đồng thời, cũng tiếp thu văn minh nhân loại về hướng kinh tế tri thức, hội nhập, toàn cầu, bảo vệ môi trường sống, đề cao vai trò văn hóa trong phát triển…
Như vậy là trong hoàn cảnh phát triển kinh tế bình thường, thời bình và là một nước còn chưa phát triển, tiến lên chủ nghĩa xã hội, thì phải “quá độ”, và mô hình XHDC rõ ràng có nhiều điểm cần tham khảo vận dụng, như chính cuộc sống đã vạch ra. Cần chú ý là “mô hình CNXH đổi mới” thì thực hiện kinh tế thị trường (CNXH thị trường) dân chủ xã hội hay dân chủ pháp quyền càng ngày nhiều hơn, nổi bật hơn trong các mặt đời sống xã hội (CNXH dân chủ). Dân chủ và thị trường- hai thành quả lớn lao của văn minh nhân loại và có lẽ đó là hai yếu tử cốt tử của CNXH chân chính, như một giai đoạn quá độ của sự phát triển lịch sử. Có thể CNXH trong đổi mới ở VN và Trung Quốc là loại mô hình thứ ba chăng. Do vậy, phải có cái nhìn không định kiến.
Về mặt nhận thức luận, theo Ngô Giang (Trung Quốc) “dưới ảnh hưởng tuyên truyền của Liên Xô, lâu nay chúng ta có thành kiến rất sâu sắc về phong trào chủ nghĩa xã hội dân chủ Tây Âu. Thực ra, cho tới ngày Liên xô biến mất, người Liên Xô chưa bao giờ giới thiệu cho chúng ta biết một cách khách quan, trung thực về tình hình thực sự của phong trào xã hội dân chủ Tây Âu (kể cả mối quan hệ giữa các đảng cộng sản với các đảng xã hội dân chủ), không phải là “phủ định nhiều, khẳng định ít”, mà là phủ định toàn bộ. Trước hết, tôi muốn nói một điều: thật ra phong trào xã hội dân chủ Tây Âu đã phức tạp lại đa dạng, tình hình các nước không hoàn toàn giống nhau. Thụy Điển không ở vào vùng đất "trái tim" của thế giới tư bản, mà chỉ là "tứ chi" thôi ("trái tim" và "tứ chi" là cách nói của Mác), cách khá xa vùng trung tâm giành giật của các thế lực tư bản cường quyền, do đó cuộc cải cách xã hội của Thụy Điển có thể tiến hành tương đối tự chủ mà không, hoặc ít chịu sự can thiệp và ảnh hưởng của các thế lực ngoại quốc”. (Ngô Giang Trung Quốc- Giáo sư, nguyên Viện trưởng Học viện Chủ nghĩa xã hội Trung ương, thuộc Trung ương Đảng Cộng sản Trung quốc, Báo cáo khảo sát mô hình Thụy Điển.
Tác giả tóm tắt nội dung chính của bài “Một số điểm chính trong bản Báo cáo khảo sát đến muộn” (sau đây viết tắt là Báo cáo Khảo sát). Tác giả báo cáo này là đồng chí Dương Khải Tiên, năm 1985 và 1988 từng hai lần đến Thụy Điển tiến hành khảo sát).
Theo Lời giới thiệu của người dịch bài viết về Báo cáo khảo sát mô hình Thụy Điển (Nguyễn Hải Hoành): Trên thế giới, nhất là tại Trung Quốc, đang diễn ra cuộc tranh luận về tính ưu việt của chế độ xã hội tại Thụy Điển nói riêng và Bắc Âu nói chung. Thập niên 80 Đảng Cộng sản Trung Quốc mạnh dạn cử người sang Thụy Điển khảo sát nghiên cứu; song do sự ràng buộc bởi quan điểm bảo thủ, các tài liệu khảo sát đó mãi đến năm 2003 mới được công bố. Tháng 6-2007, trước ngày khai mạc Đại hội Đảng CSTQ lần XVII, Chủ tịch Hồ Cẩm Đào bất ngờ thăm Thụy Điển, làm cho cuộc tranh luận nói trên ở Trung Quốc càng trở nên sôi nổi.
Thiết nghĩ đây là một vấn đề rất thiết thực và khá lý thú. Vì vậy, chúng tôi mạnh dạn giới thiệu với bạn đọc bài viết dưới đây.
II- Dân chủ và CNXH (Qua so sánh khi nghiên cứu khảo sát mô hình Thụy Điển)
Theo tinh thần thâu hóa biện chứng tinh hoa kinh nghiệm của thế giới một cách Sáng tạo của Hồ Chí Minh, thì chúng ta cần lắng nghe kinh nghiệm từ CNXHDC mô hình Thụy Điển: (giới nghiên cứu Trung Quốc đã khảo sát và đang tải công khai)
Tóm tắt mấy ý chính:
- Thu hoạch tổng quát của tác giả là: “Đối với chủ nghĩa xã hội (CNXH) kiểu Thụy-điển, nhiều năm qua, chúng ta chẳng những luôn luôn cho là đối lập với quan điểm chính thống, giữ thái độ phê phán nghiêm khắc, mà thậm chí cho tới ngày nay, trong suy nghĩ của mọi người nói chung vẫn khẳng định thì ít mà phủ định thì nhiều. Thực ra, như vậy là không công bằng. Nếu phân tích một cách thực sự cầu thị, ta sẽ không khó phát hiện thấy : ngoài những vấn đề chính trị còn tranh cãi, tạm thời chưa thể đưa ra một kết luận đa số chúng ta có thể tiếp thu ra, thì thành tích của Thụy Điển về kinh tế là rất lớn, xét về những gì mà CNXH của Mác yêu cầu phải có, dù là về mặt thúc đẩy sản xuất phát triển, nâng cao đời sống của nhân dân, hoặc là về mặt thực hiện công bằng xã hội, phân phối công bằng, bảo đảm quyền lợi nên có của giai cấp công nhân và nhân dân lao động."
- Báo cáo khảo sát viết: "Lâu nay, chúng ta luôn cho rằng đảng Xã hội dân chủ Thụy Điển là một đảng xét lại, xã hội Thụy Điển là một xã hội tư bản như các nước xã hội phương Tây khác. Do đó, trong quá trình khảo sát, chúng tôi đã cực kỳ thẳng thắn hỏi các bạn Thụy Điển : rốt cuộc đảng và xã hội của họ có tính chất như thế nào ? Họ trả lời rõ ràng: cho tới nay, họ vẫn tự cho rằng đảng XHDC Thụy Điển là một chính đảng xã hội chủ nghĩa, xã hội Thụy Điển là một xã hội xã hội chủ nghĩa. Lý do chủ yếu là: xét về lịch sử đảng XHDC Thụy-điển, năm 1889, khi thành lập đảng, họ không có cương lĩnh và điều lệ đảng của riêng mình, mà sử dụng nguyên xi cương lĩnh và điều lệ của đảng XHDC Đức hồi đó, do Ang-ghen sáng lập. Khi chúng tôi đến thăm Thụy-điển, tuy họ đang chuẩn bị sửa đổi lần thứ 7 cương lĩnh của đảng, nhưng các tài liệu tuyên truyền phát đi vẫn ghi rõ: cơ sở lý luận của đảng XHDC Thụy Điển là đa nguyên, song chủ yếu là chủ nghĩa Mác Ang-ghen; cơ sở giai cấp rộng rãi, nhưng chủ yếu là giai cấp công nhân. Chỉ có điều là ghi rõ: giai cấp công nhân không những chỉ bao gồm công nhân cổ xanh mà còn gồm cả công nhân cổ trắng.
- Khi trao đổi ý kiến với một số nhà nghiên cứu lý luận của đảng XHDC Thụy-điển, họ đặc biệt nhấn mạnh: chủ nghĩa xã hội mà họ nói là có điều kiện, tức là trước đó phải thêm từ "dân chủ", nói hoàn chỉnh phải là xã hội "chủ nghĩa xã hội dân chủ". Nếu không thêm từ "dân chủ", thì họ thà để người ta nói xã hội của họ là xã hội tư bản, còn hơn là để nói là xã hội XHCN. Bởi lẽ, loại xã hội XHCN ấy đại biểu cho xã hội XHCN kiểu Liên Xô, không có sức thu hút quần chúng, nghĩa là không nhận được phiếu bầu của quần chúng, cũng tức là không thể nắm chính quyền và thực thi các chính sách XHCN.
- "Theo cách nói của các bạn Thụy-điển, tính chất của kinh tế Thụy Điển vừa không hoàn toàn là kinh tế tư bản, vừa cũng không phải hoàn toàn là kinh tế XHCN, mà là một loại kinh tế hỗn hợp. Kinh tế hỗn hợp nghĩa là:
- về chế độ sở hữu thì thực hành pha trộn chế độ sở hữu công cộng và chế độ tư hữu;
- về chế độ phân phối thì thực hành phân phối theo lao động kết hợp với phân phối theo vốn (tư bản);
- về phương thức vận hành kinh tế thì thực hành nhà nước điều hành vĩ mô kết hợp với kinh tế thị trường. Trong đó, cốt lõi nhất là sự hỗn hợp về chế độ sở hữu, vì chỉ có làm được như thế thì mới có thể thực hiện được sự hỗn hợp về chế độ phân phối và về phương thức vận hành kinh tế.
Tại sao chủ nghĩa xã hội phải thực hành kinh tế hỗn hợp? Về vấn đề này, các bạn Thụy Điển đã dùng kinh nghiệm tự thân của đảng mình để giới thiệu cho chúng tôi biết một bài học lịch sử rất sâu sắc của họ.
- "Theo giới thiệu, khi đảng XHDC Thuỵ-Điển thành lập năm 1889, lúc đó Thuỵ Điển hãy còn là một trong những nước lạc hậu nhất châu Âu, thậm chí dân chúng còn chưa có quyền tối thiểu là quyền bầu cử phổ thông (Vương quốc Thuỵ-điển thuộc Bắc Âu. Vào năm 1889, khi thành lập Đảng Xã hội Dân chủ Thuỵ-điển (Đúng ra phải gọi là đảng Dân chủ xã hội (tiếng Anh: Social Democratic Party), nhưng VN ta quen gọi là Xã hội dân chủ.), vương quốc này còn là một trong những nước lạc hậu nhất châu Âu, người ta gọi là nước của cướp biển, phần lớn dân vốn là cướp biển và tội phạm bị các nước Tây Âu đày đến đây cùng các hậu duệ của họ. Kinh tế Thụy Điển ngày ấy còn lạc hậu rất nhiều so với nước Nga hồi Cách mạng Tháng Mười năm 1917. Từ năm 1920, khi Đảng Xã hội Dân chủ (XHDC) Thuỵ-điển bắt đầu nắm chính quyền cho tới nay, tuy có một số thời kỳ gián đoạn, nhưng Đảng này vẫn nắm quyền lãnh đạo đất nước lâu hơn cả). Vì sức sản xuất còn kém và trình độ của đảng còn thấp, nên khi đảng thành lập, họ không đưa ra được cương lĩnh của đảng, đành phải sử dụng nguyên xi cương lĩnh của đảng XHDC Đức hồi đó, do Ang-ghen lãnh đạo soạn thảo. Cương lĩnh này quy định rõ ràng: về chính trị, phải thông qua bầu cử dân chủ để quá độ hoà bình giành lấy chính quyền; về kinh tế, phải thực hiện chế độ sở hữu công cộng, phân phối theo lao động và quản lý có kế hoạch.
Sau hơn 30 năm phấn đấu, về cách đề xuất phương thức mục tiêu đấu tranh chính trị tuy có mấy lần thay đổi, như ban đầu đề khẩu hiệu phấn đấu là "đấu tranh giành quyền bầu cử"; sau khi đã có quyền bầu cử thì sửa là "đấu tranh vì tham gia nghị viện"; sau khi đảng đã có chân trong Quốc hội rồi, lại đề xuất "đấu tranh giành đa số trong Quốc hội". Thế nhưng, các mục tiêu kinh tế nói trên trong cương lĩnh lại không hề thay đổi.
Trong thời gian đó (từ thập kỷ 20 đến thập kỷ 80, là thời gian được tác giả khảo sát), Đảng XHDC đã xây dựng Thuỵ-điển từ một nước lạc hậu trở thành một nước kinh tế phát triển, đứng thứ hai trên thế giới về GDP đầu người (thứ nhất là Thuỵ-sĩ); và thứ nhất thế giới về phúc lợi xã hội, chứng tỏ sự xã hội hoá phân phối đã đạt trình độ rất cao.
- "Trong tình hình đó, đảng XHDC Thụy Điển mới bình tĩnh tổng kết bài học kinh nghiệm; qua thảo luận trong toàn đảng, họ rút ra được một kết luận rất quan trọng. Đó là: đảng XHDC Thụy Điển là một chính đảng XHCN, do đó phải kiên trì thực hiện CNXH; nhưng trong việc thực hiện CNXH thì xã hội hoá quyền sở hữu không phải là một vấn đề căn bản; xã hội hoá phân phối mới là vấn đề căn bản, tức thực thi phân phối công bằng của cải xã hội như thế nào để bảo đảm quyền lợi của giai cấp công nhân và người lao động. Lập thật nhiều doanh nghiệp sở hữu công cộng, nhà nước phải đầu tư rất lớn, tốn nhiều công sức nhưng hiệu suất và lợi ích đều nói chung không cao, không làm ra được nhiều của cải, nếu muốn phân phối một cách công bằng thì cũng chẳng có cơ sở vật chất kinh tế lớn mạnh để làm chỗ dựa mà phân phối. Như vậy thì không có lợi bằng biện pháp: - không lập nhiều doanh nghiệp sở hữu công cộng (trừ các lĩnh vực bắt buộc phải do nhà nước làm), - khuyến khích ủng hộ sự phát triển kinh tế sở hữu phi công cộng, để cho các doanh nghiệp tư nhân làm ra càng nhiều của cải càng tốt, - chính phủ thực hiện phân phối các của cải đó một cách hợp lý nhằm đáp ứng nhu cầu của người lao động.
- Có thể giải quyết những vấn đề và tệ nạn phát sinh trong quá trình phát triển các doanh nghiệp tư nhân trên hai mặt sau: - sử dụng thế lực của công đoàn ở tổ chức cơ sở tiến hành đấu tranh cần thiết; - sử dụng quyền lập pháp của Quốc hội để hạn chế các tệ nạn đó ngay từ trên thượng tầng. Đảng XHDC Thụy Điển đã dựa vào kết luận này để sửa đổi lại cương lĩnh và điều lệ ban đầu của đảng, qua đó giành được sự ủng hộ của quần chúng rộng rãi. Trong cuộc bầu cử năm 1932, đảng lại giành được đa số trong Quốc hội và lại lên nắm chính quyền liên tục 44 năm liền, cho tới năm 1976 mới bị đảng Nhân dân thay thế một thời gian. Trong mấy chục năm đó, đảng XHDC đã xây dựng Thụy Điển từ một nước kinh tế lạc hậu nhất châu Âu trở thành nước kinh tế phát triển, đứng thứ 2 trên thế giới về GDP đầu người (thứ nhất là Thụy sĩ). Mặc dù có vài lần bị đảng Nhân dân thay thế nhưng trong phần lớn thời gian từ 1976 tới nay, đảng XHDC vẫn nắm chính quyền. Đến cuối thập kỷ 80, đầu thập kỷ 90 thế kỷ XX, phần phân phối đã được xã hội hoá trong toàn bộ của cải quốc dân, tính theo tỷ lệ của thu nhập tài chính của nhà nước so với GDP, đã đạt 57-58%. Nhờ đó đã có điều kiện xây dựng Thụy Điển thành nước có phúc lợi xã hội nhiều nhất thế giới, khiến cho lý thuyết xã hội hoá phân phối được vận dụng triệt để vào trong thực tiễn."
-"Theo các bạn Thụy Điển giới thiệu, nguyên tắc phân phối của họ là: phải vừa có lợi cho việc huy động, phát huy đầy đủ tính tích cực về mọi mặt, và nâng cao năng suất lao động, lại vừa không để xuất hiện chênh lệch phân phối quá lớn (ý nghĩa có chút giống như khẩu hiệu "ưu tiên năng suất, chiếu cố công bằng" mà Trung Quốc mấy năm nay luôn nhấn mạnh). Biện pháp chủ yếu là: trong lần phân phối đầu tiên phải kiên trì nguyên tắc ưu tiên hiệu suất, nghĩa là người làm nhiều, cống hiến nhiều thì phải được phân phối nhiều; ngược lại thì chỉ được phân phối ít. Nhưng khi tái phân phối thì phải có sự điều tiết hợp lý, sao cho mức hơn kém trong phân phối cuối cùng không quá lớn. Bởi thế, cho tới nay trong cả nước Thụy-điển, chỉ có một số cực ít các nhà doanh nghiệp xuất sắc, thí dụ những người như Tổng Giám đốc hãng ô tô Volvo, mới được hưởng mức thu nhập trên 1 triệu cuaron mỗi năm; còn nhìn chung chênh lệch về thu nhập thực tế của tuyệt đại đa số là không lớn lắm 9. Thí dụ, lương của người lãnh đạo cao nhất trong chính phủ so với lương của công chức nói chung, trước khi nộp thuế chênh lệch có thể tới gấp 4-5 lần, nhưng sau khi nộp thuế, tỷ lệ chênh lệch chỉ còn bằng 2-3 lần . Điều đặc biệt là, ngoài lương ra, họ không có bất kỳ phụ cấp cấp bậc và phụ cấp chức vụ nào khác; cho nên tỷ lệ chênh lệch nói trên là rất nhỏ. Khi giới thiệu với chúng tôi, các bạn Thụy Điển nói chênh lệch thu nhập ở Thụy Điển có lẽ là nhỏ nhất thế giới. Tại Thụy-điển, cơ bản đã thanh toán xong cái gọi là sự cách biệt giữa thành thị với nông thôn, giữa công nhân với nông dân, giữa lao động trí óc với lao động chân tay. Về vấn đề này, mới đầu chúng tôi còn nửa tin nửa ngờ; nhưng sau khi quan sát thực địa một số gia đình thuộc các diện khác nhau, chúng tôi cảm thấy đúng là về đại thể là như vậy."
- Về chế độ phúc lợi ở Thụy-điển. Báo cáo khảo sát viết: "Mọi người đều biết, phúc lợi xã hội ở Thụy Điển ở mức nhiều nhất thế giới. Ngoài 4 loại bảo hiểm lớn được pháp luật qui định (như các nước Tây Bắc Âu khác): bảo hiểm hưu trí dưỡng lão, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động, còn có nhiều loại hình phúc lợi xã hội khác, nhiều đến mức người ta hình dung Thụy Điển là nước mà người dân "từ khi lọt lòng đến khi chết" đều được hưởng phúc lợi. Căn cứ theo kết quả khảo sát của chúng tôi thì câu nói trên đúng là "danh bất hư truyền".
Thí dụ:
(1) Chế độ dưỡng lão: người lao động về hưu được định kỳ lĩnh lương hưu đủ sống, người già yếu không tự lo liệu cuộc sống được thì có thể vào ở trong viện dưỡng lão của nhà nước, được hưởng sự chăm sóc y tế miễn phí, điều kiện sống tại đây tương đương với khách sạn 3 sao.
(2) Chế độ bảo hiểm thất nghiệp : nếu người lao động thất nghiệp, họ được định kỳ lĩnh tiền cứu tế thất nghiệp, được các trung tâm giới thiệu việc làm của nhà nước miễn phí giới thiệu việc làm trong phạm vi toàn quốc. Nếu nơi làm việc mới cách xa chỗ ở hiện nay, nhà nước có thể giúp một phần kinh phí dọn nhà.
(3) Chế độ giáo dục: không những tất cả mọi người đều được đi học không mất tiền suốt đời mà luật pháp còn qui định, từ nhà trẻ cho đến bậc trung học, nếu trong lớp có một học sinh người nước ngoài, thì nhà trường phải bố trí một giáo viên biết tiếng mẹ đẻ của em đó (dĩ nhiên đều là giáo viên kiêm nhiệm), mỗi tháng phải lên lớp một số giờ nhất định bằng tiếng mẹ đẻ cho em này. Ở bậc đại học, từ lúc vào học cho đến lúc tốt nghiệp, tuy có qui ước số năm học nhất định nhưng pháp luật qui định, nếu học sinh nào tốt nghiệp rồi mà chưa tìm được công việc thích hợp và không muốn rời nhà trường thì có thể tiếp tục học tập miễn phí. Các bạn Thụy Điển cho biết, hiện nay hầu như ở trường nào cũng có những sinh viên lớn tuổi đã học 7-8 năm hoặc hơn trong trường.
(4) Chế độ sinh đẻ: phụ nữ sinh con được nghỉ đẻ 18 tháng có lương (12 tháng đầu hưởng 100% lương, 6 tháng cuối hưởng 90%). Nếu đến tháng thứ 18 lại có thai, sẽ tiếp tục được nghỉ tiếp hưởng 90% lương cho đến khi đứa trẻ ra đời lại được hưởng chế độ nghỉ đẻ 18 tháng. Ngoài ra, nếu người vợ làm công việc tương đối quan trọng không thể hoặc không muốn nghỉ ở nhà quá lâu như vậy, thì hai vợ chồng có thể bàn bạc để chồng có thể nghỉ thay vợ.
(5) Chế độ nhà tù: người bị giam giữ hoặc tội phạm đang lĩnh án được nhà nước nuôi ăn ở không mất tiền, ngoài ra, mỗi tháng còn được lĩnh một khoản tiền mặt trợ cấp tuy không lớn nhưng cũng không phải là nhỏ lắm. Nhờ các khoản phúc lợi xã hội nói trên, đời sống cơ bản của mổi người dân trong bất kỳ tình huống nào đều có sự bảo đảm cần thiết. Vì thế bộ mặt xã hội nói chung là tốt đẹp, cuộc sống yên bình, trật tự nền nếp, thực là có cái cảnh "ra đường không sợ mất cắp, đêm nằm không phải đóng cửa". Các cán bộ sứ quán Trung quốc ở đây cho biết, mấy chục năm qua họ rất ít khi bị mất cắp.
- Về công bằng xã hội ở Thụy-điển. Báo cáo Khảo sát viết: "Qua nhiều thực tế chúng tôi đã tìm hiểu và tiếp xúc trong quá trình khảo sát, có thể nói xã hội Thụy Điển tương đối công bằng. Tuy không thể nói Thụy Điển hoàn toàn không có chế độ đặc quyền đẳng cấp, lối sống không lành mạnh và hiện tượng tham nhũng thường thấy ở nhiều nước khác, nhưng qua tai nghe mắt thấy thì các hiện tượng đó đúng là không nhiều. Tại sao xã hội Thụy Điển có thể thực hiện được tương đối công bằng? Chủ yếu là do:
- Có chế độ pháp luật hoàn thiện, có thể hạn chế một cách hữu hiệu sự nảy sinh các hiện tượng bất công xã hội. Thí dụ, pháp luật quy định rõ: trừ Quốc vương ra, bất cứ ai, kể cả Thủ tướng, khi ra ngoài đều không được mang theo nhân viên bảo vệ. Chính vì thế mà Thủ tướng Thụy Điển kiêm Chủ tịch đảng XHDC nước này là ông Ô-lôp Pan-mơ đã bị ám sát… Sau vụ này, Thụy Điển mới sửa đổi luật, quy định Thủ tướng khi ra ngoài cũng có thể mang theo nhân viên bảo vệ.
- "Luật pháp cũng ghi rõ: trong cả nước, chỉ một số rất ít cấp lãnh đạo như Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao, Bộ trưởng Quốc phòng mới được nhà nước cấp ô tô công vụ, còn tất cả các quan chức khác chỉ được đi lại bằng các phương tiện giao thông công cộng hoặc xe tư của mình. Quy định trên không những giảm rõ rệt biên chế nhân viên cơ quan nhà nước và chi phí, mà còn ngăn chặn được tình trạng lợi dụng xe công làm việc tư, cũng như các tác phong không lành mạnh khác. "Pháp luật còn quy định rõ: trong công việc giao thiệp với khách nước ngoài, người lãnh đạo ở cấp nào thì được nhận quà tặng trị giá bao nhiêu.
- Dư luận giám sát công khai, là biện pháp hạn chế mạnh mẽ sự phát sinh và lan tràn các hiện tượng bất công xã hội. Về mặt này, năm 1988, khi chúng tôi đến Thụy Điển và Áo khảo sát, ở cả hai nước đều gặp những chuyện cụ thể. Chúng tôi tới Thụy Điển đúng vào lúc cô con gái của một vị Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương đảng XHDC Thụy Điển (tương đương Uỷ viên Bộ Chính trị đảng CSTQ) và là Chủ tịch Công đoàn toàn quốc, có chuyện rắc rối: báo chí tố giác cô này chưa đủ tiêu chuẩn được phân phối nhà nhưng vẫn được chia nhà, và phê phán ông Chủ tịch Công đoàn lợi dụng đặc quyền đảng XHDC đang nắm chính quyền để kiếm chác lợi riêng. Vì vấn đề này, đảng XHDC đã tổ chức một cuộc họp báo để công khai giải thích và tỏ thái độ. Trong họp báo, ông Chủ tịch Công đoàn tuyên bố: việc này ông không được biết trước, là do con gái ông tự làm; dĩ nhiên, ông có trách nhiệm là giáo dục con chưa nghiêm, ông nhất định sẽ đôn đốc con gái trả lại nhà nước căn nhà này, và sẵn sàng nhận sự phán xử của luật pháp. Sau đó, vụ tai tiếng này mới chìm xuống."
- Về vấn đề địa vị trong xã hội của chính đảng và của người lãnh đạo. Vấn đề này được Báo cáo Khảo sát dành riêng một đoạn viết về những gì đã tìm hiểu khảo sát được: "Cuộc cạnh tranh gay gắt giữa các chính đảng và nguy cơ sống còn của đảng đã buộc lãnh đạo các cấp và tầng lớp công chức phải đối xử với quần chúng nhân dân bằng một thái độ bình đẳng và giải quyết các công việc xã hội theo nguyên tắc công bằng. Về chính trị, Thụy Điển thực hành cái gọi là chế độ dân chủ kiểu phương Tây, các chính đảng cạnh tranh với nhau rất gay gắt, lá phiếu bầu của quần chúng quyết định đảng nào có được lên vũ đài chính trị nắm chính quyền hay không, sự sống còn của đảng trên một mức độ lớn cũng phụ thuộc vào lá phiếu bầu cử của nhân dân. Nhà nước không cấp kinh phí vô điều kiện cho các chính đảng, nguồn kinh phí hoạt động của các đảng phải trông vào đảng phí của đảng viên nộp và các nguồn tự gây quỹ, phần khá lớn nữa là kinh phí chính phủ cấp dựa vào số lượng nghị sĩ của đảng trong Quốc hội. Đảng nào không nhận được nhiều phiếu bầu của quần chúng thì không vào được Quốc hội, do đó không có khoản kinh phí nói trên, như vậy sẽ rất khó tồn tại lâu dài. Bởi lẽ đó, dù là nguyện vọng chủ quan thế nào đi nữa, trong mọi hoạt động, đảng XHDC Thụy Điển đều bắt buộc phải luôn giữ cho mình một hình ảnh giầu mà không xa sỉ, bình đẳng đối xử với quần chúng, bảo đảm công bằng xã hội. Thí dụ: tuy đảng XHDC Thụy Điển đã nhiều lần nắm chính quyền và một lần nắm chính quyền liền 44 năm, nhưng vào cuối thập kỷ 80 khi chúng tôi đến đây khảo sát, cơ quan trung ương đảng của họ vẫn chỉ có 50-60 nhân viên công tác. Tỉnh uỷ tỉnh Goteborg chỉ có 5~6 người. Khi chúng tôi đến làm việc với họ, chỉ thấy một cán bộ làm tất cả mọi việc, từ giới thiệu tình hình, toạ đàm trao đổi ý kiến, dẫn đi tham quan các nơi, hướng dẫn du lịch, và cả việc lái xe nữa. Họ cho biết, tỉnh uỷ Goteborg có 300-400 chi bộ phân tán trong các cộng đồng phường xã (vì pháp luật quy định không được tổ chức chi bộ đảng trong các doanh nghiệp và cơ quan đơn vị), mỗi tháng ít nhất tỉnh uỷ phải đến mỗi cơ sở 1 lần để tìm hiểu nắm tình hình, chỉ đạo công tác và truyền đạt chỉ thị của cấp trên; do đó công tác của họ rất bận. Năm 1985, khi tôi theo Đoàn Cải cách cơ chế thăm Thụy Điển lần đầu, hôm đến Goteborg đúng vào Chủ nhật, Chủ tịch tỉnh và Chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh cùng tổ chức chiêu đãi chúng tôi trong một pháo đài trên núi gần biên giới với Na-Uy. Phòng tiệc bày biện sang trọng nhưng ăn uống rất đơn giản. Sau bữa ăn, họ mời ra quảng trường ngoài pháo đài nghe một đoàn nhạc giao hưởng vừa từ Moskva trở về biểu diễn. Khách nghe nhạc, từ toàn đoàn chúng tôi cho tới Chủ tịch tỉnh và Chủ tịch HĐND tỉnh, tất cả đều không có chỗ ngồi, mà cùng đứng chung với khách du lịch suốt hơn một giờ. Trên đường về thành phố, khi ô tô chúng tôi sắp lên phà qua sông, bỗng một chiếc xe phía trước không nổ được máy. Lúc đó, Chủ tịch HĐND ngồi bên cửa xe (ông này thọt chân) và Chủ tịch tỉnh lẳng lặng xuống xe trước tiên, cùng mọi người đẩy xe cho tới lúc xe nổ máy được mới thôi. Cảnh này thật làm mọi người cảm động.
-"Nguyên tắc công bằng xã hội nói trên của các bạn Thụy Điển không những chỉ thể hiện trong việc giải quyết các công việc trong nước, mà đối với các bạn nước ngoài cũng vậy. Lần đi Thụy Điển năm 1988, hôm tới Xtốc-khôm đúng vào hai ngày nghỉ cuối tuần, vì không bố trí được phòng trọ cho chúng tôi trong thành phố, họ đưa chúng tôi đến trọ tại nhà nghỉ của một công đoàn trên hòn đảo ngoài biển gần đấy. Xung quanh nhà nghỉ là cánh đồng tuyết, không có tường bao cũng chẳng có người bảo vệ, rất ít nhân viên phục vụ. Mỗi người chúng tôi được bố trí ở trong một căn phòng khoảng chục mét vuông, kể cả trưởng đoàn cũng vậy, tuy có được thêm một phòng khách cũng nhỏ như thế, chỉ vừa đủ chỗ kê mấy chiếc ghế xô pha. Nghe nói đây là căn phòng ông Các-xơn (Carsson), đương kim Chủ tịch đảng XHDC và Thủ tướng chính phủ Thụy-điển, thường đến nghỉ. Hết hai ngày cuối tuần, họ đưa chúng tôi về thành phố, bố trí trọ tại một khách sạn vừa không đồ sộ, thiết bị lại vừa chưa đạt tiêu chuẩn khách sạn ba sao ở Trung quốc. Trưởng đoàn chúng tôi cũng không được đặc cách ở phòng sang hơn, mà cũng chỉ ở một phòng tiêu chuẩn như mọi đoàn viên.
- "Những người lãnh đạo Thụy Điển rất chú ý giữ gìn hình ảnh công bằng xã hội tốt đẹp nói trên, khi họ còn sống cũng như khi giải quyết việc tang lễ cho người lãnh đạo. Như ông Pan-mơ bị ám sát năm 1988, sinh thời ông vừa là Thủ tướng và Chủ tịch đảng XHDC Thụy-điển, mà còn là Chủ tịch Quốc tế của các đảng Xã hội, có ảnh hưởng lớn trên thế giới và ở châu Âu, có uy tín cao trong nước, cống hiến đối với đảng và với nước đều không nhỏ. Nhưng sau khi ông qua đời, người ta không dựng nhà kỷ niệm hoặc bia kỷ niệm ông, cũng không xây cất cho ông một ngôi mộ sang trọng, mà chỉ mai táng tro xương ông trong một nghĩa trang công cộng phía sau nhà thờ gần dãy phố nơi ông bị ám sát. Ngôi mộ ông là một khối hình hộp bằng đá cẩm thạch mầu đen, diện tích khoảng 4 m2, trên dựng một phiến đá cao chừng 1 m có chữ ký của Pan-mơ.
Như vậy, tóm lại, chúng tôi thấy rằng trong mô hình Thụy Điển họ rất chú ý:
1) khái niệm và vấn đề dân chủ,
2) về kinh tế thị trường hỗn hợp, coi trọng vai trò đìều tiết của nhà nước,
3) chú ý phân phối hơn là sở hữu,
4) chú trọng phúc lợi xã hội,
5) công bằng xã hội,
6) thể chế pháp quyền,
7) vai trò giám sát xã hội,
8) giữ gìn hình ảnh của chính đảng sống gương mẫu, giản dị, trong sáng để dân tin tưởng.
9) tuy là theo thể chế đa nguyên chính trị những nhấn mạnh chủ yếu là chủ nghĩa Mác- Ăngghen,
10) cơ sở giai cấp của Đảng là rộng rãi nhưng vẫn chủ yếu là giai cấp công nhân…
Vấn đề cần lưu ý là phương pháp tiếp cận, xem xét tình huống các loại mô hình phát triển như thế nào cho đúng, trúng với thực tế. Cần đổi mới tư duy, nhận thức lại về các mô hình XNCN hiện nay trên thế giới, chứ không chỉ là đối với mô hình XHCN tập trung và bao cấp, như mô hình Xô Viết.
I- Về mô hình định tính – Mục tiêu về CNXH trong di chúc (Mong muốn cuối cùng của Chủ tịch Hồ Chí Minh)
Trong Di chúc của mình Hồ Chí Minh, viết: “Mong muốn cuối cùng của tôi là Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu xây dựng một nước Việt Nam Hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”
Theo chúng tôi, xét về định tính thì có thể coi công thức “xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh…” (tất nhiên còn là vấn đề tự do và hạnh phúc nữa) là “mô hình” mục tiêu- động lực và bản chất của CNXH.
Tất nhiên xét về phương thức, thì mô hình CNXH lúc đó còn là mô hình CNXH thời chiến, tập trung bao cấp. Và Hồ Chí Minh cũng không bàn tới mô hình CNXH về mặt này.
Sang thời kỳ đổi mới, Đảng và nhân dân ta đã phủ định mô hình cũ, khi nó khủng hoảng, hết sức sóng, tận cùng của nó và sáng tạo nên mô hình mới về CNXH và phát triển theo CNXH. Nhưng vẫn kế thừa và làm sáng tỏ thêm mô hình định tính, về bản chất và mục tiêu của CNXH của Hồ Ch1i Minh: Xây dựng đất nước theo mô hình mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, vững bước tiến lên CNXH. Đó cũng là nội dung cơ bản định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tất nhiên, trong các mục tiêu đó, tuy Đảng ta nhiều lần và nhất là ở HCM có đề cập đến dân chủ, nhưng mãi đến Đại hội IX của Đảng mới bổ dung khái niệm dân chủ vào công thức mô hình định tính nói trên. Và trật tự dân chủ ở đâu là đúng trong công thức ấy cần phải nhận thức lại và sắp xếp lại cho hợp lý.
Điều đó chứng tỏ trong Đảng ta trước đó đã hiểu vấn đề dân chủ còn rất khác nhau, chưa thất chính xác, thậm chí có lúc có mặt còn ấu trĩ, định kiến, không đúng.
Chúng ta biết rằng Hồ Chí Minh là người theo chủ nghĩa Mác Lênin sáng tạo, và không tách rời sự nghiệp, tư tưởng của Ăngghen khỏi các vị kinh điển này. Với hoàn cảnh lịch sử tưởng tự, Hồ Chí Minh và Đảng ta cũng đi theo con đường cách mạng Tháng Mười Nga.
Nhưng với mô hình chủ nghĩa xã hội nhà nước, tập trung và bao cấp đã không phát huy được tác dụng, cuối cùng đi vào khủng hoảng. Từ trong cuốc sống dần dần đã xuất hiện mô hình mới. Mô hình cũ là mô hình phi thị trường, thành phần kinh tế sỡ hữu đơn nhất, kinh tế xã hội và chính trị nặng vè tập trung, kế hoạch trực tiếp, bao cấp, dân chủ tối thiểu, tập trung tối đa…
Chúng ta cũng đã có thời phê phán và loại trừ mô hình “chủ nghĩa xã hội dân chủ”, kể cả mô hình Thũy Điển. Mặc dù mô hình CNXHDC là khá phức tạp và có nhiều biến thể, nhưng rõ ràng nó vẫn có sức sống của nó (Chúng tôi chỉ muốn nói khái quát về phong trào xã hội dân chủ ở Tây Âu, và chỉ nói rất vắn tắt (vấn đề đó cần nói chi tiết ở một bài viết khác).
Sau Đại chiến I, năm 1919, thành lập "Quốc tế III" (tức Quốc tế Cộng sản); năm 1923, "Quốc tế II" khôi phục hoạt động, và đổi tên là "Quốc tế đảng Xã hội" 5. Từ đó trở đi, trong phong trào công nhân Tây Âu hình thành sự đối lập giữa hai thế lực nói trên (tức giữa một bên là các đảng Cộng sản với một bên là các đảng XHDC và các đảng Xã hội), nhưng ưu thế và ảnh hưởng chủ yếu là ở phía các đảng XHDC và đảng Xã hội, vì các đảng này không những chỉ lôi kéo được tuyệt đại đa số công nhân, mà lý luận và hoạt động của họ tương đối hợp với tâm lý của quảng đại các tầng lớp trung gian và trí thức ở các nước tư bản; giai cấp tư sản cũng tương đối có thể tiếp thu.
Ở đây, ta chưa nói về tình hình phức tạp vừa đấu tranh vừa hợp tác giữa hai thế lực nói trên (trong thời gian chiến tranh chống phát xít, hợp tác là chủ yếu), mà chính bản thân các đảng tham gia phong trào xã hội dân chủ trong phạm vi của Quốc tế Xã hội (các đảng XHDC và các đảng Xã hội) cũng rất phức tạp. Chủ trương của các đảng này không hoàn toàn nhất trí với nhau, ngoại trừ việc tất cả đều phủ định cách mạng bạo lực và nói chung đều tiếp thu CNXH dân chủ. Lúc đầu, nhìn chung còn tuân theo cương lĩnh của đảng XHDC Đức được soạn thảo dưới sự chỉ đạo của Ang-ghen năm 1889, khi thành lập Quốc tế II.
Về sau thì mỗi đảng đi một đường: có đảng tương đối cấp tiến; có đảng tương đối ôn hoà; có đảng tiếp tục giương ngọn cờ chủ nghĩa Mác; có đảng lại vứt bỏ ngọn cờ này mà chủ trương đa nguyên hoá tư tưởng chỉ đạo (trong đó có cả chủ nghĩa Mác), và chủ trương tư tưởng XHCN bắt nguồn từ nhiều con đường; có đảng vẫn coi mình là chính đảng của giai cấp công nhân, có đảng lại nói mình là đảng của nhân dân hoặc đảng của dân tộc; có đảng chủ trương hợp tác với đảng cộng sản trong nước mình; có đảng lại phản đối sự hợp tác đó, v.v... Một số đảng đã không dưới một lần cải tổ hoặc xây dựng lại, về khuynh hướng, cũng trước sau khác nhau. Nhưng nói tổng quát, bản tuyên ngôn công bố năm 1951, khi Quốc tế Xã hội tổ chức lại, về đại thể có thể coi là một khuynh hướng có tính tiêu biểu. Tuyên ngôn này viết: "Dù là người của đảng Xã hội xây dựng niềm tin của mình theo phương pháp phân tích xã hội của chủ nghĩa Mác, hoặc theo các phương pháp khác, dù là họ tiếp nhận sự gợi ý của nguyên tắc tôn giáo hoặc của nguyên tắc nhân đạo, tất cả họ đều phấn đấu vì mục tiêu chung. Mục tiêu đó là một chế độ phân phối xã hội công bằng, đời sống tốt đẹp, tự do và thế giới hoà bình."
Ở đây chưa viết rõ mục tiêu phấn đấu là chủ nghĩa xã hội, thế nhưng "Tuyên ngôn thành lập Quốc tế xã hội" hồi thập kỷ 20 thế kỷ XX từng khẳng định mục tiêu này, và nói rõ: "Mục đích của chủ nghĩa xã hội là giải phóng mọi người ra khỏi sự lệ thuộc vào một thiểu số người chiếm hữu hoặc kiểm soát tư liệu sản xuất. Mục đích của nó là giao quyền kinh tế cho toàn thể nhân dân, tiến tới xây dựng một xã hội khiến cho mọi con người tự do đều có thể, với địa vị bình đẳng, cùng làm việc với nhau trong xã hội." Cho nên, nhìn chung, phải chăng có thể nói là: phong trào CNXH dân chủ Tây Âu (hoặc gọi là "phong trào xã hội dân chủ", đều như nhau) hiện đang tìm kiếm một con đường khác để tiến lên CNXH (khác với con đường của Cách mạng Tháng Mười) ? Hoặc nói là, phong trào này từng bước ươm trồng các nhân tố XHCN trong cái bào thai tư bản chủ nghĩa, để bằng cách tiệm tiến (từ tích luỹ lượng biến dẫn đến chất biến từng phần, rồi đến chất biến cuối cùng) sáng tạo nên một hình thái mới của xã hội XHCN? Theo tôi, có thể nói như vậy được. Dĩ nhiên, sự sáng tạo này thường có tính thử nghiệm, không thể bước đều nhau hoặc có xu thế tiến lên theo đường thẳng, mà tuỳ theo sự thay đổi tình hình hoặc biến đổi so sánh lực lượng có thể có lặp đi lặp lại, có lúc tiến lên, có lúc lại tụt lùi. Nhưng có một đặc điểm: khi đã tiến lên rồi thì dù cho lại tụt lùi, nhưng trận địa đã chiếm được thì thường là không bị mất toàn bộ (thí dụ: về thực hiện chính sách phúc lợi và chế độ bảo đảm đời sống).
Ở đây, xin nêu hai thí dụ có thể giúp nói rõ vấn đề: một là cuộc cải cách do Công đảng Anh tiến hành năm 1945, và hai là mô hình Thụy-điển)
Khi thực hiện mô hình chủ nghĩa xã hội đổi mới ở VN hay Trung Quốc (chưa kể gần đây ở một số nước ở châu Mỹ- Latinh), thì mô hình mới vẫn có giữ lại một số yếu tố của mô hình cũ (chính trị nhất nguyên, vai trò chủ dịao của kinh tế nhà nước) nhưng “tiếp thu” (hay tự nó xuất hiện một cách tất yếu) nhiều yếu tố, nghĩa là không phải tất cả từ/của mô hình CNXHDC, như kinh tế thị trường, kinh tế hỗn hợp nhà nước pháp quyền, về dân chủ xã hội, xã hội phúc lợi hay an sinh xã hội và cả xã hội dân sự, dù chưa nêu ra khái niệm này. Đồng thời, cũng tiếp thu văn minh nhân loại về hướng kinh tế tri thức, hội nhập, toàn cầu, bảo vệ môi trường sống, đề cao vai trò văn hóa trong phát triển…
Như vậy là trong hoàn cảnh phát triển kinh tế bình thường, thời bình và là một nước còn chưa phát triển, tiến lên chủ nghĩa xã hội, thì phải “quá độ”, và mô hình XHDC rõ ràng có nhiều điểm cần tham khảo vận dụng, như chính cuộc sống đã vạch ra. Cần chú ý là “mô hình CNXH đổi mới” thì thực hiện kinh tế thị trường (CNXH thị trường) dân chủ xã hội hay dân chủ pháp quyền càng ngày nhiều hơn, nổi bật hơn trong các mặt đời sống xã hội (CNXH dân chủ). Dân chủ và thị trường- hai thành quả lớn lao của văn minh nhân loại và có lẽ đó là hai yếu tử cốt tử của CNXH chân chính, như một giai đoạn quá độ của sự phát triển lịch sử. Có thể CNXH trong đổi mới ở VN và Trung Quốc là loại mô hình thứ ba chăng. Do vậy, phải có cái nhìn không định kiến.
Về mặt nhận thức luận, theo Ngô Giang (Trung Quốc) “dưới ảnh hưởng tuyên truyền của Liên Xô, lâu nay chúng ta có thành kiến rất sâu sắc về phong trào chủ nghĩa xã hội dân chủ Tây Âu. Thực ra, cho tới ngày Liên xô biến mất, người Liên Xô chưa bao giờ giới thiệu cho chúng ta biết một cách khách quan, trung thực về tình hình thực sự của phong trào xã hội dân chủ Tây Âu (kể cả mối quan hệ giữa các đảng cộng sản với các đảng xã hội dân chủ), không phải là “phủ định nhiều, khẳng định ít”, mà là phủ định toàn bộ. Trước hết, tôi muốn nói một điều: thật ra phong trào xã hội dân chủ Tây Âu đã phức tạp lại đa dạng, tình hình các nước không hoàn toàn giống nhau. Thụy Điển không ở vào vùng đất "trái tim" của thế giới tư bản, mà chỉ là "tứ chi" thôi ("trái tim" và "tứ chi" là cách nói của Mác), cách khá xa vùng trung tâm giành giật của các thế lực tư bản cường quyền, do đó cuộc cải cách xã hội của Thụy Điển có thể tiến hành tương đối tự chủ mà không, hoặc ít chịu sự can thiệp và ảnh hưởng của các thế lực ngoại quốc”. (Ngô Giang Trung Quốc- Giáo sư, nguyên Viện trưởng Học viện Chủ nghĩa xã hội Trung ương, thuộc Trung ương Đảng Cộng sản Trung quốc, Báo cáo khảo sát mô hình Thụy Điển.
Tác giả tóm tắt nội dung chính của bài “Một số điểm chính trong bản Báo cáo khảo sát đến muộn” (sau đây viết tắt là Báo cáo Khảo sát). Tác giả báo cáo này là đồng chí Dương Khải Tiên, năm 1985 và 1988 từng hai lần đến Thụy Điển tiến hành khảo sát).
Thiết nghĩ đây là một vấn đề rất thiết thực và khá lý thú. Vì vậy, chúng tôi mạnh dạn giới thiệu với bạn đọc bài viết dưới đây.
II- Dân chủ và CNXH (Qua so sánh khi nghiên cứu khảo sát mô hình Thụy Điển)
Theo tinh thần thâu hóa biện chứng tinh hoa kinh nghiệm của thế giới một cách Sáng tạo của Hồ Chí Minh, thì chúng ta cần lắng nghe kinh nghiệm từ CNXHDC mô hình Thụy Điển: (giới nghiên cứu Trung Quốc đã khảo sát và đang tải công khai)
Tóm tắt mấy ý chính:
- Thu hoạch tổng quát của tác giả là: “Đối với chủ nghĩa xã hội (CNXH) kiểu Thụy-điển, nhiều năm qua, chúng ta chẳng những luôn luôn cho là đối lập với quan điểm chính thống, giữ thái độ phê phán nghiêm khắc, mà thậm chí cho tới ngày nay, trong suy nghĩ của mọi người nói chung vẫn khẳng định thì ít mà phủ định thì nhiều. Thực ra, như vậy là không công bằng. Nếu phân tích một cách thực sự cầu thị, ta sẽ không khó phát hiện thấy : ngoài những vấn đề chính trị còn tranh cãi, tạm thời chưa thể đưa ra một kết luận đa số chúng ta có thể tiếp thu ra, thì thành tích của Thụy Điển về kinh tế là rất lớn, xét về những gì mà CNXH của Mác yêu cầu phải có, dù là về mặt thúc đẩy sản xuất phát triển, nâng cao đời sống của nhân dân, hoặc là về mặt thực hiện công bằng xã hội, phân phối công bằng, bảo đảm quyền lợi nên có của giai cấp công nhân và nhân dân lao động."
- Báo cáo khảo sát viết: "Lâu nay, chúng ta luôn cho rằng đảng Xã hội dân chủ Thụy Điển là một đảng xét lại, xã hội Thụy Điển là một xã hội tư bản như các nước xã hội phương Tây khác. Do đó, trong quá trình khảo sát, chúng tôi đã cực kỳ thẳng thắn hỏi các bạn Thụy Điển : rốt cuộc đảng và xã hội của họ có tính chất như thế nào ? Họ trả lời rõ ràng: cho tới nay, họ vẫn tự cho rằng đảng XHDC Thụy Điển là một chính đảng xã hội chủ nghĩa, xã hội Thụy Điển là một xã hội xã hội chủ nghĩa. Lý do chủ yếu là: xét về lịch sử đảng XHDC Thụy-điển, năm 1889, khi thành lập đảng, họ không có cương lĩnh và điều lệ đảng của riêng mình, mà sử dụng nguyên xi cương lĩnh và điều lệ của đảng XHDC Đức hồi đó, do Ang-ghen sáng lập. Khi chúng tôi đến thăm Thụy-điển, tuy họ đang chuẩn bị sửa đổi lần thứ 7 cương lĩnh của đảng, nhưng các tài liệu tuyên truyền phát đi vẫn ghi rõ: cơ sở lý luận của đảng XHDC Thụy Điển là đa nguyên, song chủ yếu là chủ nghĩa Mác Ang-ghen; cơ sở giai cấp rộng rãi, nhưng chủ yếu là giai cấp công nhân. Chỉ có điều là ghi rõ: giai cấp công nhân không những chỉ bao gồm công nhân cổ xanh mà còn gồm cả công nhân cổ trắng.
- Khi trao đổi ý kiến với một số nhà nghiên cứu lý luận của đảng XHDC Thụy-điển, họ đặc biệt nhấn mạnh: chủ nghĩa xã hội mà họ nói là có điều kiện, tức là trước đó phải thêm từ "dân chủ", nói hoàn chỉnh phải là xã hội "chủ nghĩa xã hội dân chủ". Nếu không thêm từ "dân chủ", thì họ thà để người ta nói xã hội của họ là xã hội tư bản, còn hơn là để nói là xã hội XHCN. Bởi lẽ, loại xã hội XHCN ấy đại biểu cho xã hội XHCN kiểu Liên Xô, không có sức thu hút quần chúng, nghĩa là không nhận được phiếu bầu của quần chúng, cũng tức là không thể nắm chính quyền và thực thi các chính sách XHCN.
- "Theo cách nói của các bạn Thụy-điển, tính chất của kinh tế Thụy Điển vừa không hoàn toàn là kinh tế tư bản, vừa cũng không phải hoàn toàn là kinh tế XHCN, mà là một loại kinh tế hỗn hợp. Kinh tế hỗn hợp nghĩa là:
- về chế độ sở hữu thì thực hành pha trộn chế độ sở hữu công cộng và chế độ tư hữu;
- về chế độ phân phối thì thực hành phân phối theo lao động kết hợp với phân phối theo vốn (tư bản);
- về phương thức vận hành kinh tế thì thực hành nhà nước điều hành vĩ mô kết hợp với kinh tế thị trường. Trong đó, cốt lõi nhất là sự hỗn hợp về chế độ sở hữu, vì chỉ có làm được như thế thì mới có thể thực hiện được sự hỗn hợp về chế độ phân phối và về phương thức vận hành kinh tế.
Tại sao chủ nghĩa xã hội phải thực hành kinh tế hỗn hợp? Về vấn đề này, các bạn Thụy Điển đã dùng kinh nghiệm tự thân của đảng mình để giới thiệu cho chúng tôi biết một bài học lịch sử rất sâu sắc của họ.
- "Theo giới thiệu, khi đảng XHDC Thuỵ-Điển thành lập năm 1889, lúc đó Thuỵ Điển hãy còn là một trong những nước lạc hậu nhất châu Âu, thậm chí dân chúng còn chưa có quyền tối thiểu là quyền bầu cử phổ thông (Vương quốc Thuỵ-điển thuộc Bắc Âu. Vào năm 1889, khi thành lập Đảng Xã hội Dân chủ Thuỵ-điển (Đúng ra phải gọi là đảng Dân chủ xã hội (tiếng Anh: Social Democratic Party), nhưng VN ta quen gọi là Xã hội dân chủ.), vương quốc này còn là một trong những nước lạc hậu nhất châu Âu, người ta gọi là nước của cướp biển, phần lớn dân vốn là cướp biển và tội phạm bị các nước Tây Âu đày đến đây cùng các hậu duệ của họ. Kinh tế Thụy Điển ngày ấy còn lạc hậu rất nhiều so với nước Nga hồi Cách mạng Tháng Mười năm 1917. Từ năm 1920, khi Đảng Xã hội Dân chủ (XHDC) Thuỵ-điển bắt đầu nắm chính quyền cho tới nay, tuy có một số thời kỳ gián đoạn, nhưng Đảng này vẫn nắm quyền lãnh đạo đất nước lâu hơn cả). Vì sức sản xuất còn kém và trình độ của đảng còn thấp, nên khi đảng thành lập, họ không đưa ra được cương lĩnh của đảng, đành phải sử dụng nguyên xi cương lĩnh của đảng XHDC Đức hồi đó, do Ang-ghen lãnh đạo soạn thảo. Cương lĩnh này quy định rõ ràng: về chính trị, phải thông qua bầu cử dân chủ để quá độ hoà bình giành lấy chính quyền; về kinh tế, phải thực hiện chế độ sở hữu công cộng, phân phối theo lao động và quản lý có kế hoạch.
Sau hơn 30 năm phấn đấu, về cách đề xuất phương thức mục tiêu đấu tranh chính trị tuy có mấy lần thay đổi, như ban đầu đề khẩu hiệu phấn đấu là "đấu tranh giành quyền bầu cử"; sau khi đã có quyền bầu cử thì sửa là "đấu tranh vì tham gia nghị viện"; sau khi đảng đã có chân trong Quốc hội rồi, lại đề xuất "đấu tranh giành đa số trong Quốc hội". Thế nhưng, các mục tiêu kinh tế nói trên trong cương lĩnh lại không hề thay đổi.
Trong thời gian đó (từ thập kỷ 20 đến thập kỷ 80, là thời gian được tác giả khảo sát), Đảng XHDC đã xây dựng Thuỵ-điển từ một nước lạc hậu trở thành một nước kinh tế phát triển, đứng thứ hai trên thế giới về GDP đầu người (thứ nhất là Thuỵ-sĩ); và thứ nhất thế giới về phúc lợi xã hội, chứng tỏ sự xã hội hoá phân phối đã đạt trình độ rất cao.
- "Trong tình hình đó, đảng XHDC Thụy Điển mới bình tĩnh tổng kết bài học kinh nghiệm; qua thảo luận trong toàn đảng, họ rút ra được một kết luận rất quan trọng. Đó là: đảng XHDC Thụy Điển là một chính đảng XHCN, do đó phải kiên trì thực hiện CNXH; nhưng trong việc thực hiện CNXH thì xã hội hoá quyền sở hữu không phải là một vấn đề căn bản; xã hội hoá phân phối mới là vấn đề căn bản, tức thực thi phân phối công bằng của cải xã hội như thế nào để bảo đảm quyền lợi của giai cấp công nhân và người lao động. Lập thật nhiều doanh nghiệp sở hữu công cộng, nhà nước phải đầu tư rất lớn, tốn nhiều công sức nhưng hiệu suất và lợi ích đều nói chung không cao, không làm ra được nhiều của cải, nếu muốn phân phối một cách công bằng thì cũng chẳng có cơ sở vật chất kinh tế lớn mạnh để làm chỗ dựa mà phân phối. Như vậy thì không có lợi bằng biện pháp: - không lập nhiều doanh nghiệp sở hữu công cộng (trừ các lĩnh vực bắt buộc phải do nhà nước làm), - khuyến khích ủng hộ sự phát triển kinh tế sở hữu phi công cộng, để cho các doanh nghiệp tư nhân làm ra càng nhiều của cải càng tốt, - chính phủ thực hiện phân phối các của cải đó một cách hợp lý nhằm đáp ứng nhu cầu của người lao động.
- Có thể giải quyết những vấn đề và tệ nạn phát sinh trong quá trình phát triển các doanh nghiệp tư nhân trên hai mặt sau: - sử dụng thế lực của công đoàn ở tổ chức cơ sở tiến hành đấu tranh cần thiết; - sử dụng quyền lập pháp của Quốc hội để hạn chế các tệ nạn đó ngay từ trên thượng tầng. Đảng XHDC Thụy Điển đã dựa vào kết luận này để sửa đổi lại cương lĩnh và điều lệ ban đầu của đảng, qua đó giành được sự ủng hộ của quần chúng rộng rãi. Trong cuộc bầu cử năm 1932, đảng lại giành được đa số trong Quốc hội và lại lên nắm chính quyền liên tục 44 năm liền, cho tới năm 1976 mới bị đảng Nhân dân thay thế một thời gian. Trong mấy chục năm đó, đảng XHDC đã xây dựng Thụy Điển từ một nước kinh tế lạc hậu nhất châu Âu trở thành nước kinh tế phát triển, đứng thứ 2 trên thế giới về GDP đầu người (thứ nhất là Thụy sĩ). Mặc dù có vài lần bị đảng Nhân dân thay thế nhưng trong phần lớn thời gian từ 1976 tới nay, đảng XHDC vẫn nắm chính quyền. Đến cuối thập kỷ 80, đầu thập kỷ 90 thế kỷ XX, phần phân phối đã được xã hội hoá trong toàn bộ của cải quốc dân, tính theo tỷ lệ của thu nhập tài chính của nhà nước so với GDP, đã đạt 57-58%. Nhờ đó đã có điều kiện xây dựng Thụy Điển thành nước có phúc lợi xã hội nhiều nhất thế giới, khiến cho lý thuyết xã hội hoá phân phối được vận dụng triệt để vào trong thực tiễn."
-"Theo các bạn Thụy Điển giới thiệu, nguyên tắc phân phối của họ là: phải vừa có lợi cho việc huy động, phát huy đầy đủ tính tích cực về mọi mặt, và nâng cao năng suất lao động, lại vừa không để xuất hiện chênh lệch phân phối quá lớn (ý nghĩa có chút giống như khẩu hiệu "ưu tiên năng suất, chiếu cố công bằng" mà Trung Quốc mấy năm nay luôn nhấn mạnh). Biện pháp chủ yếu là: trong lần phân phối đầu tiên phải kiên trì nguyên tắc ưu tiên hiệu suất, nghĩa là người làm nhiều, cống hiến nhiều thì phải được phân phối nhiều; ngược lại thì chỉ được phân phối ít. Nhưng khi tái phân phối thì phải có sự điều tiết hợp lý, sao cho mức hơn kém trong phân phối cuối cùng không quá lớn. Bởi thế, cho tới nay trong cả nước Thụy-điển, chỉ có một số cực ít các nhà doanh nghiệp xuất sắc, thí dụ những người như Tổng Giám đốc hãng ô tô Volvo, mới được hưởng mức thu nhập trên 1 triệu cuaron mỗi năm; còn nhìn chung chênh lệch về thu nhập thực tế của tuyệt đại đa số là không lớn lắm 9. Thí dụ, lương của người lãnh đạo cao nhất trong chính phủ so với lương của công chức nói chung, trước khi nộp thuế chênh lệch có thể tới gấp 4-5 lần, nhưng sau khi nộp thuế, tỷ lệ chênh lệch chỉ còn bằng 2-3 lần . Điều đặc biệt là, ngoài lương ra, họ không có bất kỳ phụ cấp cấp bậc và phụ cấp chức vụ nào khác; cho nên tỷ lệ chênh lệch nói trên là rất nhỏ. Khi giới thiệu với chúng tôi, các bạn Thụy Điển nói chênh lệch thu nhập ở Thụy Điển có lẽ là nhỏ nhất thế giới. Tại Thụy-điển, cơ bản đã thanh toán xong cái gọi là sự cách biệt giữa thành thị với nông thôn, giữa công nhân với nông dân, giữa lao động trí óc với lao động chân tay. Về vấn đề này, mới đầu chúng tôi còn nửa tin nửa ngờ; nhưng sau khi quan sát thực địa một số gia đình thuộc các diện khác nhau, chúng tôi cảm thấy đúng là về đại thể là như vậy."
- Về chế độ phúc lợi ở Thụy-điển. Báo cáo khảo sát viết: "Mọi người đều biết, phúc lợi xã hội ở Thụy Điển ở mức nhiều nhất thế giới. Ngoài 4 loại bảo hiểm lớn được pháp luật qui định (như các nước Tây Bắc Âu khác): bảo hiểm hưu trí dưỡng lão, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động, còn có nhiều loại hình phúc lợi xã hội khác, nhiều đến mức người ta hình dung Thụy Điển là nước mà người dân "từ khi lọt lòng đến khi chết" đều được hưởng phúc lợi. Căn cứ theo kết quả khảo sát của chúng tôi thì câu nói trên đúng là "danh bất hư truyền".
Thí dụ:
(1) Chế độ dưỡng lão: người lao động về hưu được định kỳ lĩnh lương hưu đủ sống, người già yếu không tự lo liệu cuộc sống được thì có thể vào ở trong viện dưỡng lão của nhà nước, được hưởng sự chăm sóc y tế miễn phí, điều kiện sống tại đây tương đương với khách sạn 3 sao.
(2) Chế độ bảo hiểm thất nghiệp : nếu người lao động thất nghiệp, họ được định kỳ lĩnh tiền cứu tế thất nghiệp, được các trung tâm giới thiệu việc làm của nhà nước miễn phí giới thiệu việc làm trong phạm vi toàn quốc. Nếu nơi làm việc mới cách xa chỗ ở hiện nay, nhà nước có thể giúp một phần kinh phí dọn nhà.
(3) Chế độ giáo dục: không những tất cả mọi người đều được đi học không mất tiền suốt đời mà luật pháp còn qui định, từ nhà trẻ cho đến bậc trung học, nếu trong lớp có một học sinh người nước ngoài, thì nhà trường phải bố trí một giáo viên biết tiếng mẹ đẻ của em đó (dĩ nhiên đều là giáo viên kiêm nhiệm), mỗi tháng phải lên lớp một số giờ nhất định bằng tiếng mẹ đẻ cho em này. Ở bậc đại học, từ lúc vào học cho đến lúc tốt nghiệp, tuy có qui ước số năm học nhất định nhưng pháp luật qui định, nếu học sinh nào tốt nghiệp rồi mà chưa tìm được công việc thích hợp và không muốn rời nhà trường thì có thể tiếp tục học tập miễn phí. Các bạn Thụy Điển cho biết, hiện nay hầu như ở trường nào cũng có những sinh viên lớn tuổi đã học 7-8 năm hoặc hơn trong trường.
(4) Chế độ sinh đẻ: phụ nữ sinh con được nghỉ đẻ 18 tháng có lương (12 tháng đầu hưởng 100% lương, 6 tháng cuối hưởng 90%). Nếu đến tháng thứ 18 lại có thai, sẽ tiếp tục được nghỉ tiếp hưởng 90% lương cho đến khi đứa trẻ ra đời lại được hưởng chế độ nghỉ đẻ 18 tháng. Ngoài ra, nếu người vợ làm công việc tương đối quan trọng không thể hoặc không muốn nghỉ ở nhà quá lâu như vậy, thì hai vợ chồng có thể bàn bạc để chồng có thể nghỉ thay vợ.
(5) Chế độ nhà tù: người bị giam giữ hoặc tội phạm đang lĩnh án được nhà nước nuôi ăn ở không mất tiền, ngoài ra, mỗi tháng còn được lĩnh một khoản tiền mặt trợ cấp tuy không lớn nhưng cũng không phải là nhỏ lắm. Nhờ các khoản phúc lợi xã hội nói trên, đời sống cơ bản của mổi người dân trong bất kỳ tình huống nào đều có sự bảo đảm cần thiết. Vì thế bộ mặt xã hội nói chung là tốt đẹp, cuộc sống yên bình, trật tự nền nếp, thực là có cái cảnh "ra đường không sợ mất cắp, đêm nằm không phải đóng cửa". Các cán bộ sứ quán Trung quốc ở đây cho biết, mấy chục năm qua họ rất ít khi bị mất cắp.
- Về công bằng xã hội ở Thụy-điển. Báo cáo Khảo sát viết: "Qua nhiều thực tế chúng tôi đã tìm hiểu và tiếp xúc trong quá trình khảo sát, có thể nói xã hội Thụy Điển tương đối công bằng. Tuy không thể nói Thụy Điển hoàn toàn không có chế độ đặc quyền đẳng cấp, lối sống không lành mạnh và hiện tượng tham nhũng thường thấy ở nhiều nước khác, nhưng qua tai nghe mắt thấy thì các hiện tượng đó đúng là không nhiều. Tại sao xã hội Thụy Điển có thể thực hiện được tương đối công bằng? Chủ yếu là do:
- Có chế độ pháp luật hoàn thiện, có thể hạn chế một cách hữu hiệu sự nảy sinh các hiện tượng bất công xã hội. Thí dụ, pháp luật quy định rõ: trừ Quốc vương ra, bất cứ ai, kể cả Thủ tướng, khi ra ngoài đều không được mang theo nhân viên bảo vệ. Chính vì thế mà Thủ tướng Thụy Điển kiêm Chủ tịch đảng XHDC nước này là ông Ô-lôp Pan-mơ đã bị ám sát… Sau vụ này, Thụy Điển mới sửa đổi luật, quy định Thủ tướng khi ra ngoài cũng có thể mang theo nhân viên bảo vệ.
- "Luật pháp cũng ghi rõ: trong cả nước, chỉ một số rất ít cấp lãnh đạo như Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao, Bộ trưởng Quốc phòng mới được nhà nước cấp ô tô công vụ, còn tất cả các quan chức khác chỉ được đi lại bằng các phương tiện giao thông công cộng hoặc xe tư của mình. Quy định trên không những giảm rõ rệt biên chế nhân viên cơ quan nhà nước và chi phí, mà còn ngăn chặn được tình trạng lợi dụng xe công làm việc tư, cũng như các tác phong không lành mạnh khác. "Pháp luật còn quy định rõ: trong công việc giao thiệp với khách nước ngoài, người lãnh đạo ở cấp nào thì được nhận quà tặng trị giá bao nhiêu.
- Dư luận giám sát công khai, là biện pháp hạn chế mạnh mẽ sự phát sinh và lan tràn các hiện tượng bất công xã hội. Về mặt này, năm 1988, khi chúng tôi đến Thụy Điển và Áo khảo sát, ở cả hai nước đều gặp những chuyện cụ thể. Chúng tôi tới Thụy Điển đúng vào lúc cô con gái của một vị Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương đảng XHDC Thụy Điển (tương đương Uỷ viên Bộ Chính trị đảng CSTQ) và là Chủ tịch Công đoàn toàn quốc, có chuyện rắc rối: báo chí tố giác cô này chưa đủ tiêu chuẩn được phân phối nhà nhưng vẫn được chia nhà, và phê phán ông Chủ tịch Công đoàn lợi dụng đặc quyền đảng XHDC đang nắm chính quyền để kiếm chác lợi riêng. Vì vấn đề này, đảng XHDC đã tổ chức một cuộc họp báo để công khai giải thích và tỏ thái độ. Trong họp báo, ông Chủ tịch Công đoàn tuyên bố: việc này ông không được biết trước, là do con gái ông tự làm; dĩ nhiên, ông có trách nhiệm là giáo dục con chưa nghiêm, ông nhất định sẽ đôn đốc con gái trả lại nhà nước căn nhà này, và sẵn sàng nhận sự phán xử của luật pháp. Sau đó, vụ tai tiếng này mới chìm xuống."
- Về vấn đề địa vị trong xã hội của chính đảng và của người lãnh đạo. Vấn đề này được Báo cáo Khảo sát dành riêng một đoạn viết về những gì đã tìm hiểu khảo sát được: "Cuộc cạnh tranh gay gắt giữa các chính đảng và nguy cơ sống còn của đảng đã buộc lãnh đạo các cấp và tầng lớp công chức phải đối xử với quần chúng nhân dân bằng một thái độ bình đẳng và giải quyết các công việc xã hội theo nguyên tắc công bằng. Về chính trị, Thụy Điển thực hành cái gọi là chế độ dân chủ kiểu phương Tây, các chính đảng cạnh tranh với nhau rất gay gắt, lá phiếu bầu của quần chúng quyết định đảng nào có được lên vũ đài chính trị nắm chính quyền hay không, sự sống còn của đảng trên một mức độ lớn cũng phụ thuộc vào lá phiếu bầu cử của nhân dân. Nhà nước không cấp kinh phí vô điều kiện cho các chính đảng, nguồn kinh phí hoạt động của các đảng phải trông vào đảng phí của đảng viên nộp và các nguồn tự gây quỹ, phần khá lớn nữa là kinh phí chính phủ cấp dựa vào số lượng nghị sĩ của đảng trong Quốc hội. Đảng nào không nhận được nhiều phiếu bầu của quần chúng thì không vào được Quốc hội, do đó không có khoản kinh phí nói trên, như vậy sẽ rất khó tồn tại lâu dài. Bởi lẽ đó, dù là nguyện vọng chủ quan thế nào đi nữa, trong mọi hoạt động, đảng XHDC Thụy Điển đều bắt buộc phải luôn giữ cho mình một hình ảnh giầu mà không xa sỉ, bình đẳng đối xử với quần chúng, bảo đảm công bằng xã hội. Thí dụ: tuy đảng XHDC Thụy Điển đã nhiều lần nắm chính quyền và một lần nắm chính quyền liền 44 năm, nhưng vào cuối thập kỷ 80 khi chúng tôi đến đây khảo sát, cơ quan trung ương đảng của họ vẫn chỉ có 50-60 nhân viên công tác. Tỉnh uỷ tỉnh Goteborg chỉ có 5~6 người. Khi chúng tôi đến làm việc với họ, chỉ thấy một cán bộ làm tất cả mọi việc, từ giới thiệu tình hình, toạ đàm trao đổi ý kiến, dẫn đi tham quan các nơi, hướng dẫn du lịch, và cả việc lái xe nữa. Họ cho biết, tỉnh uỷ Goteborg có 300-400 chi bộ phân tán trong các cộng đồng phường xã (vì pháp luật quy định không được tổ chức chi bộ đảng trong các doanh nghiệp và cơ quan đơn vị), mỗi tháng ít nhất tỉnh uỷ phải đến mỗi cơ sở 1 lần để tìm hiểu nắm tình hình, chỉ đạo công tác và truyền đạt chỉ thị của cấp trên; do đó công tác của họ rất bận. Năm 1985, khi tôi theo Đoàn Cải cách cơ chế thăm Thụy Điển lần đầu, hôm đến Goteborg đúng vào Chủ nhật, Chủ tịch tỉnh và Chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh cùng tổ chức chiêu đãi chúng tôi trong một pháo đài trên núi gần biên giới với Na-Uy. Phòng tiệc bày biện sang trọng nhưng ăn uống rất đơn giản. Sau bữa ăn, họ mời ra quảng trường ngoài pháo đài nghe một đoàn nhạc giao hưởng vừa từ Moskva trở về biểu diễn. Khách nghe nhạc, từ toàn đoàn chúng tôi cho tới Chủ tịch tỉnh và Chủ tịch HĐND tỉnh, tất cả đều không có chỗ ngồi, mà cùng đứng chung với khách du lịch suốt hơn một giờ. Trên đường về thành phố, khi ô tô chúng tôi sắp lên phà qua sông, bỗng một chiếc xe phía trước không nổ được máy. Lúc đó, Chủ tịch HĐND ngồi bên cửa xe (ông này thọt chân) và Chủ tịch tỉnh lẳng lặng xuống xe trước tiên, cùng mọi người đẩy xe cho tới lúc xe nổ máy được mới thôi. Cảnh này thật làm mọi người cảm động.
-"Nguyên tắc công bằng xã hội nói trên của các bạn Thụy Điển không những chỉ thể hiện trong việc giải quyết các công việc trong nước, mà đối với các bạn nước ngoài cũng vậy. Lần đi Thụy Điển năm 1988, hôm tới Xtốc-khôm đúng vào hai ngày nghỉ cuối tuần, vì không bố trí được phòng trọ cho chúng tôi trong thành phố, họ đưa chúng tôi đến trọ tại nhà nghỉ của một công đoàn trên hòn đảo ngoài biển gần đấy. Xung quanh nhà nghỉ là cánh đồng tuyết, không có tường bao cũng chẳng có người bảo vệ, rất ít nhân viên phục vụ. Mỗi người chúng tôi được bố trí ở trong một căn phòng khoảng chục mét vuông, kể cả trưởng đoàn cũng vậy, tuy có được thêm một phòng khách cũng nhỏ như thế, chỉ vừa đủ chỗ kê mấy chiếc ghế xô pha. Nghe nói đây là căn phòng ông Các-xơn (Carsson), đương kim Chủ tịch đảng XHDC và Thủ tướng chính phủ Thụy-điển, thường đến nghỉ. Hết hai ngày cuối tuần, họ đưa chúng tôi về thành phố, bố trí trọ tại một khách sạn vừa không đồ sộ, thiết bị lại vừa chưa đạt tiêu chuẩn khách sạn ba sao ở Trung quốc. Trưởng đoàn chúng tôi cũng không được đặc cách ở phòng sang hơn, mà cũng chỉ ở một phòng tiêu chuẩn như mọi đoàn viên.
- "Những người lãnh đạo Thụy Điển rất chú ý giữ gìn hình ảnh công bằng xã hội tốt đẹp nói trên, khi họ còn sống cũng như khi giải quyết việc tang lễ cho người lãnh đạo. Như ông Pan-mơ bị ám sát năm 1988, sinh thời ông vừa là Thủ tướng và Chủ tịch đảng XHDC Thụy-điển, mà còn là Chủ tịch Quốc tế của các đảng Xã hội, có ảnh hưởng lớn trên thế giới và ở châu Âu, có uy tín cao trong nước, cống hiến đối với đảng và với nước đều không nhỏ. Nhưng sau khi ông qua đời, người ta không dựng nhà kỷ niệm hoặc bia kỷ niệm ông, cũng không xây cất cho ông một ngôi mộ sang trọng, mà chỉ mai táng tro xương ông trong một nghĩa trang công cộng phía sau nhà thờ gần dãy phố nơi ông bị ám sát. Ngôi mộ ông là một khối hình hộp bằng đá cẩm thạch mầu đen, diện tích khoảng 4 m2, trên dựng một phiến đá cao chừng 1 m có chữ ký của Pan-mơ.
Như vậy, tóm lại, chúng tôi thấy rằng trong mô hình Thụy Điển họ rất chú ý:
1) khái niệm và vấn đề dân chủ,
2) về kinh tế thị trường hỗn hợp, coi trọng vai trò đìều tiết của nhà nước,
3) chú ý phân phối hơn là sở hữu,
4) chú trọng phúc lợi xã hội,
5) công bằng xã hội,
6) thể chế pháp quyền,
7) vai trò giám sát xã hội,
8) giữ gìn hình ảnh của chính đảng sống gương mẫu, giản dị, trong sáng để dân tin tưởng.
9) tuy là theo thể chế đa nguyên chính trị những nhấn mạnh chủ yếu là chủ nghĩa Mác- Ăngghen,
10) cơ sở giai cấp của Đảng là rộng rãi nhưng vẫn chủ yếu là giai cấp công nhân…