Di cảo của nhà thơ Quách Tấn

Bạch Phong

New member
Xu
0
DI CẢO CỦA NHÀ THƠ QUÁCH TẤN


Nhà thơ Quách Tấn là một trong 4 nhà thơ nổi tiếng của “Bàn thành tứ hữu” ở đất Bình Định những năm nửa đầu thế kỷ 20. Cùng với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Yến Lan, ông đã để lại cho đời những tác phẩm văn học quí giá. Nhân kỷ niệm 13 năm ngày mất của ông (1910-1992), chúng ta hãy cùng đến với những tác phẩm của nhà thơ “Mùa cổ điển”, ngay trong ngôi nhà của ông ở 12 Bến Chợ - Thành phố Nha Trang.

20523435_images852511_quachtan1.jpg


Bìa cuốn hồi ký Quách Tấn Một buổi sáng lất phất mưa, trong ngôi nhà nhỏ nơi phố chợ đông đúc, ít ai biết được đây đã từng là nơi gặp gỡ tâm giao của 4 nhà thơ thời tiền chiến và nhiều văn nhân thủa ấy. Thắp nén hương thơm tưởng nhớ nhà thơ Quách Tấn, tưởng như thấy nụ cười hiền hậu của ông trước cuộc đời chìm nổi. Ẩn hiện trong sương khói thời gian, ký ức còn lại là những lời thơ, hương trầm “mùa cổ điển”. Nhà dẫu chật nhưng con cháu vẫn trân trọng dành riêng một căn phòng thờ cúng và lưu giữ những tác phẩm của ông.

Quách Tấn sinh năm 1910, ở Tây Sơn - Bình Định, nhưng hơn nửa đời người ông gắn với Nha Trang - Khánh Hòa, nơi đã đi vào tác phẩm Xứ Trầm hương quen thuộc. Sinh thời, Quách Tấn kính trọng cụ Phan Bội Châu, lại được Tản Đà dìu dắt, và có những người bạn thơ tâm huyết như Hàn Mạc Tử, Chế Lan Viên, Yến Lan, Nguyễn Đình. Vì vậy, khi ông đi xa, con cháu ông để những người xưa kề cận bên ông trong căn phòng tưởng niệm.

Vẫn còn đây hình ảnh của ông cùng cây mận trước nhà, những bức ảnh, bức tranh và dòng thư pháp… của anh em, bạn hữu tặng ông. Ông Quách Giao - con trai thứ hai của nhà thơ Quách Tấn kể về ngôi nhà đã gắn bó với cuộc đời nhà thơ và nhiều kỷ niệm văn chương. Năm 1935 từ Đà Lạt xuống, hai năm sau ông mua ngôi nhà này. Lúc đó ông Quách Giao được 3 tuổi. Ngôi nhà đã trải qua rất nhiều kỷ niệm văn học, sử học. Thi sĩ Tản Đà đã từng đến ở. Từ năm 1938 trở về sau, đây là nơi tụ họp của 4 nhà thơ gọi là “Bàn thành tứ hữu” ở Bình định. Đó là Quách Tấn và ba người bạn Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử, Yến Lan. Ngoài ra, có những nhà thơ khác ở đây nhiều là Bích Khê. Những nhà thơ từ Bắc vào Nam đến đều được quách Tấn tiếp đón niềm nở.

Ông Quách Giao trầm ngâm bên “Trường Xuyên tứ bảo”- 4 kỷ vật quí của gia đình. Mỗi vật đều gợi nhớ về nỗi niềm, về tình cảm của người đã xa. Trường Xuyên là hiệu của Quách Tấn, còn 4 vật quí mà nhà thơ lưu giữ là quyển sách Tô Văn Trung và Lữ Đường Thi, khúc sừng tê giác do nhà nghiên cứu văn hoá Nguyễn Hiến Lê tặng năm 1973. Cả 3 chiếc lá mận trước sân nhà bay vào phòng giấy khi ông viết hồi ký “Bóng ngày qua” năm 1973, đến đúng đoạn về cây mận 3 nhành. Cây mận lúc đó đã bị chết do ảnh hưởng của chất khai quang của Mỹ…

Riêng quyển Tô Văn TrungLữ Đường Thi còn nguyên những dòng chữ của nhà thơ. Quách Tấn đặc biệt quí bộ sách Tô Văn Trung. Trải qua những năm tản cư thời đánh Pháp, di chuyển Bình Định, Nha Trang, ông vẫn mang theo mình. Vậy mà đến năm 53, vì nhà nghèo, vợ bệnh, ông đau lòng phải bán bộ sách gồm 20 quyển, chỉ chuộc lại được một quyển làm kỷ niệm.

20523435_images852509_quachtan.jpg


Quách Tấn và những người bạn Cùng với 4 kỷ vật trên, chiếc rương da cổ dùng để dựng sách đã gắn bó với Quách Tấn từ năm 1941 cũng là một vật được gia đình giữ lại đến ngày nay. Con cháu của nhà thơ giữ gìn và sắp xếp thứ tự những di cảo của ông để lại cho đời. Đó là những bản thảo viết tay, trong đó có bản thảo tập thơ Mùa cổ điển cùng bút tích của các nhà thơ Bích Khê, Chế Lan Viên, Nguyễn Đình… xuất bản năm 1941, và hàng chục tập bản thảo khác. Ông Quách Giao - người con trai thứ hai của Quách Tấn không chỉ giữ gìn cẩn thận những tác phẩm của ông mà cả những bài báo, tập sách viết về người cha kính yêu. Cùng với gần 20 tập thơ, văn đã xuất bản từ năm 1939 đến 2003, vẫn còn 25 tập thơ và trên 40 tập văn của Quách Tấn chưa xuất bản.

Không nhiều người biết rằng, ông đã dành trọn tấm lòng yêu kính đối với Bác Hồ qua những bản dịch thơ tập Nhật ký trong tù và những bài thơ bằng chữ Hán của Bác, từ những ngày miền Nam chưa giải phóng. Tiến sĩ Mai Quốc Liên đã trân trọng đưa 73 bản dịch vào tập Hồ Chí Minh thơ toàn tập, xuất bản năm 2000. Nhà thơ Quách Tấn đã đi xa chúng ta 13 năm nhưng những gì ông để lại luôn là những tác phẩm văn học có giá trị. Làm thế nào để những di cảo của ông đến được với công chúng yêu văn học- luôn là mong muốn lớn nhất của gia đình và những người yêu mến thơ văn và con người Quách Tấn.

Là người con luôn kề cận và sưu tập những tác phẩm của cha, nay đã bước vào tuổi thất thập, ông Quách Giao luôn tâm nguyện dành hết thời gian còn lại để làm thế nào in gần hết tác phẩm của cha mình. Đó là tập hồi ký Bóng ngày qua (mới chỉ in được 4/20 quyển), là các thi thoại, công trình nghiên cứu về Đào Tấn và tuồng Bình Định v.v..Trong năm 2006 sắp tới, ông sẽ in 500 bài thơ tuyển chọn qua hơn 2000 bài thơ của Quách Tấn. Đó là những tư liệu quí để chúng ta có thể hiểu thêm về một thời văn chương tiền chiến, về dịch thuật, địa chí và cuộc đời thơ văn của nhà thơ từng được gọi là “sứ giả của đời Đường, đời Tống” (chữ của nhà phê bình Hoài Thanh).

Mưa dứt, nắng đã lên. Bên ngoài xôn xao hàng quán. Chợ Đầm - Thành phố Nha Trang đang buổi trưa. Bến Đình và mặt nước đầm xưa, trước nhà ông không còn nữa nhưng mỗi tập thơ, mỗi trang bản thảo đều gợi nhớ về một nhà thơ trang nghiêm và cẩn trọng, tinh tế trong từng chữ, từng lời. Rùa vàng thủa nào trong bộ tứ linh “Long, Lân, Qui , Phụng”- hình ảnh của Hàn Mặc Tử, Yến Lan, Quách Tấn và Chế Lan Viên như vẫn còn mãi với dòng thơ Việt. “Duyên trần đã tỉnh chiêm bao, còn nghe bước sóng ra vào bến xưa.” Nhớ tới ông, nhớ tới Mùa cổ điển, Xứ Trầm hương, Nước non Bình định, Bóng ngày qua và tấm lòng của một nhà thơ với non nước ân tình.


(Theo_VietNamNet)

 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:
Chùm thơ Quách Tấn

CHÙM THƠ QUÁCH TẤN








Thơ Về

Giấc mộng nghìn xưa đương mải mê,
Vùng nghe cảm hứng báo thơ về.
Sóng mài nghiên biển ngòi non chấm,.......
Gió trải tà mây chữ nhạn đề.
Vồn vã tiếng dương ngâm lại đọc,
Rỡ ràng sắc rớn điểm rồi phê.
Tứ tràn ra mãi trong cao rộng...
Thiên nữ bưng hoa rắc xuống tề.​


Quách Tấn

Ðêm Thu Nghe Quạ Kêu

Từ ô y hạng rủ rê sang,
Bóng lẩn đêm thâu tiếng rộn ràng...
Trời bến Phong kiều sương thấp thoáng
Thu sông Xích Bích nguyệt mơ màng.
Bồn chồn thương kẻ nương song bạc,
Lạnh lẽo sầu ai rụng giếng vàng.
Tiếng dội lưng mây đồng vọng mãi,
Tình hoang mang gợi tứ hoang mang


Quách Tấn

Dưới Liễu Chờ Xuân

Tin Xuân gió rải khắp nơi nơi,
Dưới liễu chờ Xuân gắng gượng cười.
Bạn khắp non sông mà vắng vẻ
Tình trong gang tấc vẫn xa xôi !
Thân gầy với nguyệt bao phân nữa ?
Tóc rụng theo sương mấy lớp rồi !
Giòng cũ Ngân Hà sâu bến đợi,
Muốn đem sầu gởi nước trôi xuôi...


Quách Tấn

Cảm Thu

Gầy úa rừng sương đeo giọt sầu,
Ðây lòng ta đó một trời thu.
Gió vàng cợt sóng sông chau mặt
Mây trắng vờn cây núi bạc đầu.
Dìu dặt tiếng ve còn vẳng đấy,
Vội vàng cánh nhạn rủ về đâu ?
Hỡi người chinh phụ nương rèm liễu,
Sùi sụt chi thêm bận vó câu.


Quách Tấn

Trời Ðông

Chuông gióng Hàn San bẵng tiếng ngân,
Ngàn xa tiếng địch cũng xa dần...
Lá thương nhánh nặng bay hầu hết,
Trời sợ non côi xích xuống gần
Ngần ngại gió mưa chim ẩn bóng
Quây quần mây khói liễu riêng xuân
Ðêm như dài lắm... người Vân Hớn,
Trong giấc thăm nhau được mấy lần


Quách Tấn
Trời Khuya


Sương buông màn lượt phủ bao la
Non nước chìm sâu trong giấc mơ.
Cung quế im lìm mây ấp nguyệt,
Song đào âu yếm gió hôn hoa.
Hương trà pha lẫn hương trầm thoảng
Tiếng dế hòa ăn tiếng địch xa.
Lẳng lặng thâu đêm người đối cảnh,
Hồn tan theo mộng tứ theo thơ.


Quách Tấn
Gió Khuya


Ngọn gió muôn xa đưa đẩy vào
Nửa phòng mây rộng một trăng cao.
Sáo dìu dặt nổi rừng dương liễu
Hương chập chờn bay khóm trúc đào.
Vàng ngọc nhảy reo câu khiển hứng,
Non sông huyền hoặc sắc chiêm bao.
Lòng chan chứa biết bao cay đắng,
Tan sạch còn lưa chút ngọt ngào.


Quách Tấn
Mộng Thấy Hàn Mặc Tử


ÔỊ Lệ Thanh ! Ôi Lệ Thanh !
Một giấc trưa nay lại gặp mình.
Nhan sắc châu pha màu phú quí,
Tài ba bút trổ nét tinh anh.
Rượu tàn thu cũ say sưa chuyện,
Hương tạ trời cao bát ngát tình.
Tôi khóc , tôi cười vang cả mộng...
Nhớ thương đưa lạc gió qua mành


Quách Tấn
Trơ Trọi


Tình cũng lơ mà bạn cũng lơ !
Bao nhiêu khăng khít bấy ơ hờ !
Sầu mong theo lệ khôn rơi lệ,
Nhớ gửi vào thơ nghĩ tội thơ !
Mưa gió canh dài ngăn lối mộng,
Bèo mây bến cũ quyện lòng tơ...
Hỏi thăm tin tức bao giờ lại ?
Con thước qua song lại ỏm ờ !


Quách Tấn
Hiu Quạnh


Trăng lại tròn trăng mấy độ rồi,
Ðìu hiu còn đọng ngấn ly bôi !
Mộng về lối cũ tìm khôn gặp,
Nhớ đốt niềm tây dập chẳng nguôi !
Lá rắc thêm sầu rơi gió một,
Chim đành riêng thú liệng trời đôi.
Vườn sương thờ thẫn đêm qua lạnh,
Cúc nở nhìn nhau mỉm miệng cười.


Quách Tấn


Nhắn Ai


Thềm xuân mấy lượt lệ hoa rơi,
Mấy lượt mưa thu liễu rối bời !
Nhớ chập chồng non mây sớm tối,
Tình lai láng biển nước đầy với.
Chiêm bao lẩn quẩn trăng dầm gối,
Tin tức nôn nao nhạn lạc trời.
Gương nhạt cảnh đời chung tấc bóng,
Tâm hồn riêng gởi nước non ai.


L.T. và Q.T

Lại Nhắn Ai

Còi xe đêm trước lọt rèm xưa,
Tin gởi vào ai đã đến chưa ?
Tỉnh mộng nằm ôm tràng mộng cũ,
Mong thơ lần giở xấp thơ xưa...
Cỏ sương rung động niềm thương nhớ,
Mây nước nôn nao ý đợi chờ.
Lơ đễnh bên người ôm mặt khóc,
Hỏi tra duyên cớ, ngại ngùng thưa.


T.T. và Q.T



Chiều Xuân

Chim mang về tổ bóng hoàng hôn,
Vàng lửng lơ non biếc đọng cồn.
Cành gió hương xao hoa tỉ muội,
Ðồi sương sóng lượn cỏ vương tôn.
Khói mây quanh quẩn hồi chuông vọng,
Trời biển nôn nao tiếng địch dồn.
Thưởng cảnh ông câu tình tự quá!
Thuyền con chở nguyệt đến cô thôn.


Quách Tấn

Ðêm Mơ

Thuyền ai neo nguyệt bến sông Ngân,
Khúc nhạc giao bôi rót xuống trần
Sương bạc vấn vương lòng quả phụ,
Trúc vàng tha thướt bóng giai nhân.
Hồ im vẻ ngọc mơ duyên lá,
Sân vén rèm hoa đón ý xuân.
Muôn dặm gió về say lảo đảo,
Cành hương chợt tỉnh ngát hương lân.


Quách Tấn

Thi Nại Hoài Cổ

Thi Nại xưa kia vũng chiến trường,
Nổi chìm thế sự mấy sao sương ?
Non cao còn thoáng hơi binh dữ,
Biển thẳm chưa phai sắc máu hường.
Gành Ráng sóng vờn gương đế bá,
Phương Mai rừng đắp vết tang thương.
Bùi ngùi ngắm cảnh quay trông lại,
Lớp lớp xa ai rộn phố phường.


1932
Quách Tấn
Về Thăm Nhà Cảm Tác


Quê người nương náu bấy nhiêu lâu,
Vườn cũ về thăm cảnh dãi dầu !
Trống trải ba gian nhà nhện choán,
Ngửa nghiêng bốn mặt dậu bìm leo !
Cội tùng bóng ngả sương rơi lệ !
Ngõ trúc mây che quốc giục sầu.
Lẳng lặng bên thềm ôn chuyện cũ...
Giật mình ngỡ đến chốn nào đâu !


Quách Tấn
1932


Ðêm Xuân

Lơ lửng từng mây vọng tiếng tơ,
Ðêm trong như kính dịu thu mờ.
Phấn sương điểm má đào thơ thớ,
Gương nước soi mày liễu nhởn nhơ.
Mượn lược nường trăng soi chải tóc,
Khai tình chị gió lá đề thơ.
Bồng lai một giấc muôn năm cũ,
Mơ ước chi cho bướm phỉnh phờ


Quách Tấn
Ông Thích Chi


Người hỏi: bình sinh ông thích chi ?
Hoa thơm gái lịch với thơ hay.
Sống trăm năm đó chơi cho thú,
Chết một lần thôi sợ quái gì .
Chúa Phật hầu non: Nguyễn Uy Viễn,
Non tiên rêu biếc: Tràn Hy Di.
Chị em thương tớ đừng khuyên tớ...
Lúc hứng trời xanh bé tỉ ti .


Quách Tấn
Chút Lòng


Từ phen biển mộng khép trăng song,
Nửa mẫu vườn quê tạm náu lòng.
Ði đứng luống thương đường lối hẹp,
Ăn nằm dám phụ nước non chung.
Mười phương tin tức mây hờ hững,
Ba kiếp văn chương bút ngại ngùng!
Bạn tác ví thương tình gặp gỡ,
Ðừng đem mây ráng đọ nghi dung.


Quách Tấn
Qua Xuân


Ðôi tiếng chim vàng nghe chửa nhuyễn,
Nhìn xuân bóng ngựa đã xa lơ...!
Biết bao tươi thắm sai hò hẹn,
Còn chút thơm thanh dám hững hờ.
Cánh phấn ấp iu cành nhả kén,
Nhụy hồng dan díu nhện trương tơ.
Một mai trăng chở thu về cúc,
Rèm cuốn sương hương tỏa lững lờ.


Quách Tấn
Bóng Giai Nhân


Sen vàng từ độ cách trùng dương,
Ðâu nửa ? Khi xuân đón hải đường.
Nắng gợn ly đào son hé ngọc,
Gió nâng tà lụa tuyết vương hương...
Bồi hồi trăng nước say cơn mộng,
Thao thức cầm thi lạnh ải sương.
Thoảng cánh buồm mây nương ráng lại,
Lòng thu vời vợi sóng tiêu tương


Quách Tấn
Lại Tản Cư


Vừa mới hồi cư đã tản cư !
Vận nhà vận nước biết nên hư ?
Máu xương chiến đấu thương đà lắm,
Nanh vuốt xâm lăng giận chửa trừ !
Vườn cũ tả tơi trời tháng chạp,
Ðường khuya khấp khểnh nguyệt canh tư.
Gió sương chếch chóng hồn ly loạn,
Ước nguyện bình sinh nửa có như ?


Trường Ðịnh 1947
Quách Tấn
Lánh Cư


Khôn tới đào nguyên tránh loạn ly,
Thôn côi nương náu tạm qua thì.
Mây trưa mống xế chung thời tiết,
Rẩy mít vướng thơm ít thị phi.
Phòng vắng ngẩn ngơ hồn Tử Mỹ
Ngày dài gượng gạo giấc Hy Di.
Ðem đêm nằm đợi canh gà giục,
Mảnh nguyệt rừng xa bạn cố tri.


Phú Ân 1947
Quách Tấn
Nhớ Tản Ðà


Ðà Giang từ độ rụng văn tinh,
Tản Lĩnh đìu hiu rọi bóng mình.
Móng đỏ in sâu lòng tuyết trắng,
Tơ vàng mang nặng nợ dâu xanh.
Hàm Rồng nắm cỏ chưa tròn mộng,
Khê Thượng nguồn thơ luống quăn tình.
Chén rượu đêm nay nồng nã nhớ,
Hồn ai lai láng ánh trăng thanh


Phú Phong 1949
Quách Tấn
Lại Bị An Trí


Vườn quê hẩm hút thú ăn làm
Mỗi bận nghi tình mỗi bắt giam !
Năm nắng mười mưa thân đã dạn,
Ba cha bảy mẹ phận đành cam.
Lạnh lùng tiếng ngựa run cơn bấc !
Da diết lòng chim vọng nhành nam.
Lắm lúc thẫn thờ ven nẻo mộng,
Trời cao bể rộng giọt sương lam.


Phú Nhiêu 1953
Quách Tấn
Bước Cùng


Năm ngoái năm nay gặp bước cùng,
Lỡ bề gánh xách lỡ bề bưng !
Văn xưa dạy học trườn bôn thải,
Sức yếu làm thuê thế chẳng dùng.
Thân thích khó nhờ, sơ khó cậy,
Ruộng nương thì có, lúa thì không !!
Ngày mùa đành vẫn ăn cơm ghé,
Cha nhịn con ăn vợ nhịn chồng.


Phú Phong 1953
Quách Tấn
Trời Chiều


Năm lụn ngày qua thân mỏi mòn
Buồn trông thoi thóp ráng đầu non...
Ấm no trước đã không cha mẹ,
Thiếu hụt rày thêm khổ vợ con !
Lặng lẽ mây trôi làn viễn vọng.
Ngập ngừng sương úa giọt hoàng hôn.
Trăng non một mảnh tình lưu luyến...
Người có như trăng khuyết để tròn ?


Phú Phong 1953
Quách Tấn
Xí Xóa


Bóng dâu đã xế mái đầu xanh,
Mà việc chi chi cũng chửa thành !
Tình nghĩa thoảng qua cơn huyễn mộng,
Văn chương rớt lại chút hư danh !
Chừ đây mới biết vàng là quí
Năm ngoái còn mua sách để dành !
Phải quấy sự đời thôi xí xóa,
Kìa đoàn con trẻ nhịp đồng thanh...


Phú Phong 1954
Quách Tấn



LỊU ĐỊU*.

Áo giũ ngày sương gió
Lên chùa thăm cố nhân
Non nghiêng thềm nắng xế
Lịu địu bóng nhàn vân.

TÌNH CỐ NHÂN.

Mây nước nhiễm phong trần
Nơi đâu tình cố nhân
Những đêm buồn tĩnh giấc
Chùa cũ tiếng chuông ngân.

THÂM U.

Thoảng tiếng chuông chùa vọng
Bóng đèn khuya runh rinh
Nao nao lòng giếng quạnh
Hơi thu tràn hư linh.

ÂM BA.

Sương xuống hồi chuông lặng
Dư âm tràn hư không
Lửng lơ vàng gợi sóng
Trăng hồ thu mênh mông.

Quách Tấn.
*bài Lịu Địu ông làm khi lên chùa Hải Đức/ Nha Trang, hay Phạm Công Thiên đã rời chùa vào Sài gòn không biết bao giờ trở lại.

 

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top