Tiếp theo...
Hồi nhỏ sống với đồng
với sông rồi với biển
hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỷ
Thời bình, sau 1975, người lính Nguyễn Duy trở về thành phố. Ông đã trở thành nhà thơ và người nổi tiếng. Bài thơ “Ánh trăng” viết về cảm xúc của người lính thời bình, tưởng rằng đã quên và có lúc đã quên đi “vầng trăng thời chiến” song “hôm nay vầng trăng sáng quá, ánh trăng nhắc con người ta nhớ về cái hồn nhiên, trần trụi của đời lính, khó quên, và không thể quên được”. Nhà thơ bỗng “giật mình”, rưng rưng đầy hoài niệm. Bản chất lính, phẩm chất lính không mất đi. Nó thể hiện thiên lương của người lính, con người thời đại, hào khí, hào hùng “thời hoa lửa đã qua”, thời mà chúng ta đã đánh đổ cả máu xương mới có ngày hòa bình, có cuộc sống thành thị, có ánh điện rạng ngời thay vầng trăng “vành vạnh”.
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh,
Sốt run người, vừng trán ướt mồ hôi.
Thiếu thốn, khó khăn cả vật chất và tinh thần. Xa người thân, xa mái nhà, xa cánh đồng. Thiếu ăn, thiếu mặc, bị sốt rét. Người lính kháng chiến chống Pháp đối diện bao hiểm nguy, họ có thể chết vì sốt rét thay vì viên đạn của kẻ thù. “Đồng chí” của nhà thơ Chính Hữu cho chúng ta hình dung và hiểu biết về hiện thực mà người lính phải vượt qua. Tiễn biệt quê hương lên đường chống Pháp, hiểm nguy không sờn lòng, lo lắng cho hậu phương, cho mái nhà, cho người thân bao nhiêu lòng người lính càng thêm ý chí căm thù và quyết tâm. Xa xa kia ruộng lúa mùa này bỏ hoang, thiếu người cày đất, gian nhà tranh không có bàn tay đỡ đần, giếng nước, gốc đa quê tôi. Tất cả sẽ chịu bàn tay xâm lược, đốt cháy của giặc Pháp ư? Người lính, biên giới trận địa, đứng đầu hiểm nguy vất vả, sẵn sàng vì tổ quốc mến thương. Khổ thơ thứ hai của bài “Đồng chí” khẳng định sự gắn bó, lòng thủy chung, tình đồng đội “vào sống ra chết”.
Trần trụi với thiên nhiên
hồn nhiên như cây cỏ
ngỡ không bao giờ quên
cái vầng trăng tình nghĩa
Từ hồi về thành phố
quen ánh điện cửa gương
vầng trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường
Đời lính trận mạc, đời lính phong lưu, có thể nói như vậy về khí phách và tính cách của con người cá tính như hồn thơ Nguyễn Duy. Nhà thơ Nguyễn Duy từng có bài thơ “Đò Lèn” viết về tuổi thơ, về quê ngoại, về bà của mình rất tình cảm. Cả vầng kí ức, cả vầng kỉ niệm không bao giờ lãng quên và mất đi về tuổi thơ. Với bài “Ánh trăng”, Nguyễn Duy cho chúng ta bắt gặp tâm sự của người lính sau 30/4, ông sống tại thành phố, và vào ngày điện bị mất, đối diện trước lòng mình, ông khắc khoải về giá trị con người và kí ức. Đây là thời kỳ chiến tranh lùi dần về kí ức, con người tự sự, tính đối thoại trong thơ nói riêng và văn hoc nói chung là xu hướng chủ yếu. Người lính thời bình kiên trung, giữ mãi phẩm chất bộ đội cụ Hồ.
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay!
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.
Đâu chỉ có sốt rét rừng, người lính trong bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu áo “rách vai’, quần “vài mảnh vá”. Có thể nói muôn vàn khó khăn đến với người lính nơi chiến trường Việt Bắc. Trời giá buốt. Chân họ không có giày. “Rừng hoang và sương lạnh”. Người lính chỉ biết nắm lấy tay nhau. Xua đi giá lạnh, xua đi đêm đen, xua đi hận thù, xua đi cô đơn. Họ là một tập thể, một đoàn quân, một đội quân, họ là người lính kháng Pháp. Họ không đầu hàng kẻ thù, Họ như vầng trăng nơi đầu súng. Họ là bất tử. Là thời đại Hồ Chí Minh anh hùng. Những người lính trong bài “Đồng chí’ là biểu tượng của anh hùng cách mạng, vẻ đẹp của thời đại, là hiện thân của kháng Pháp gian khổ, họ là niềm tin, bản lĩnh Việt Nam.
Chất tự vấn, tự sự trong “Ánh trăng” rất rõ rệt và đậm đặc. Người lính thời bình và kí ức không quên. Không quên ánh trăng kỉ niệm, ánh trăng nơi rừng sâu, thời trận mạc, đồng đội, khói lửa, cái thời mà “thương nhau tay nắm lấy bàn tay” (Đồng chí – Chính Hữu). Cuộc kháng chiến chống Mỹ của chúng ta cách xa chưa lâu, nếu kháng chiến chống Pháp là đánh đuổi thực dân Pháp thì kháng chiến chống Mỹ là thống nhất nước nhà và chống can thiệp Mỹ. Người lính ở bài “Ánh trăng” là người chiến thắng, người hưởng thụ trực tiếp hòa bình, thành quả mà mình và đồng đội đã hy sinh.
Thình lình đèn điện tắt
phòng buyn - đinh tối om
vội bật tung cửa sổ
vột ngột vầng trăng tròn
Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì rưng rưng
như là đồng là bể
như là sông là rừng
Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình
Bộn bề và mưu sinh cuộc sống, người lính có thể lãng quên và đôi khi không nhớ về kí ức, nhưng không vì thế mà kỷ niệm mất đi ý nghĩa trong họ, họ là người lính kháng chiến chống Mỹ, người lính của ngày hôm nay. Sống và đối diện với quá khứ. Chất hào sảng và lý tưởng của ‘‘Ánh trăng’’ là vậy.
Bài “Đồng chí” của Chính Hữu và bài “Ánh trăng” của Nguyễn Duy nói về người lính, tình đồng chí. Đó là biểu tượng, hình tượng đẹp trong văn chương cách mạng thể hiện sâu sắc và chân thực sức mạnh và chiến thắng thời đại, thời đại quên mình vì dân tộc, giữ và không khuất phục trước mình. Câu nói “Thơ là sự thể hiện con người và thời đại một cách cao đẹp” của nhà thơ Sóng Hồng thật đúng với trường hợp “Đồng chí” và “Ánh trăng”. Hai bài thơ xuất sắc của nền thơ ca cách mạng, là tâm hồn và con người thời đại của chúng ta.
Sen Biển( biên soạn)