Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
VĂN HÓA - ĐỜI SỐNG
Ứng Nhân Xử Thế
Đạo Đức Kinh-Lão Tử-phiên âm và bản dịch của Lê Hiếu
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="tapchoi82" data-source="post: 15736" data-attributes="member: 695"><p>Đại ý ông bảo: Hai chữ "nhược 若" trong câu đầu nghĩa như chữ "nãi 乃" (thời xưa hai chữ đó đọc giống nhau, nên dùng thay nhau), nghĩa là "bèn, thì, do đó mà...". Nhiều người không hiểu vậy, giảng là "như tối", hoặc sửa lại là chữ "giả", như vậy vô nghĩa: Chữ "quý 貴" nghĩa là coi trọng, tức sợ (theo Hà Thượng Công); còn chữ "thân 身" với chữ "kinh 驚" ở trên là "hỗ bị ngữ" tức những chữ làm đủ nghĩa lẫn nhau, đọc chữ sau thì phải coi ngược lên chữ trước mới thấy nghĩa. (1), và nghĩa nó cũng là "kinh". Vậy câu đầu có nghĩa là: Vinh, nhục thì lòng sinh ra rối loạn, sợ vạ lớn thì lòng rối loạn.</p><p></p><p>Câu đó là cổ ngữ, chứ không phải của Lão tử vì Lão tử chủ trương "vô dục" (Ngã vô dục nhi dân tự hóa - chương 57); "hậu kỳ thân, ngoại kỳ thân" (chương 7), thì đâu lại để cho vinh nhục, đắc thất làm cho rối loạn, đâu lại "coi trọng cái vạ lớn như bản thân mình". Vì vậy, Dư Bồi Lâm đặt câu đó trong dấu móc [ ]. Những câu sau mới là lời giải thích của Lão tử. Và Dư dịch như sau: [Người đời được vinh hay bị nhục thì lòng sinh ra rối loạn, sợ vạ lớn thì sinh ra rối loạn].</p><p></p><p>Tại sao vinh, nhục sinh ra rối loạn? Là vì vinh thì được tôn, nhục thì bị hèn; được thì lòng [mừng rỡ mà] rối loạn, mất thì lòng [rầu rĩ mà] rối loạn; cho nên bảo là vinh nhục sinh ra rối loạn.</p><p></p><p>Tại sao sợ vạ lớn mà sinh ra rối loạn? Chúng ta sợ dĩ sợ vạ lớn là vì ta có cái thân. Nếu ta không có thân [quên mình có thân đi] thì còn sợ gì tai vạ nữa.</p><p></p><p>Cho nên người nào coi trọng sự hy sinh thân mình cho thiên hạ thì có thể giao thiên hạ cho người đó được. Người nào vui vẻ đem thân mình phục vụ thiên hạ thì có thể gởi thiên hạ cho người đó được.</p><p></p><p>Dư Bồi Lâm dịch như vậy nhưng cũng nhận rằng đó chỉ là thiển kiến của ông, không dám chắc là đúng.</p><p></p><p>Câu cuối chúng tôi thấy còn 4 bản dịch khác để độc giả lựa chọn.</p><p></p><p>1.</p><p></p><p>Kẻ nào biết quý thân vì thiên hạ thì giao phó thiên hạ cho được. Kẻ nào biết thương thân vì thiên hạ thì gởi gắm thiên hạ cho được.</p><p>2.</p><p></p><p>Kẻ nào quý thân mình vì thiên hạ thì có thể sống trong thiên hạ được. Kẻ nào yêu thân mình vì thiên hạ thì có thể ký thác mình cho thiên hạ được.</p><p>3.</p><p></p><p>Kẻ nào coi trọng thiên hạ như bản thân mình thì có thể giao phó thiên hạ cho được. Kẻ nào yêu thiên hạ như yêu bản thân mình thì có thể giao cho việc trị thiên hạ được.</p><p>4.</p><p></p><p>Kẻ nào quý thân mình hơn cả thiên hạ thì có thể giao cho việc trị thiên hạ được. Kẻ nào yêu thân mình hơn cả thiên hạ thì có thể giao cho việc trị thiên hạ được.</p><p></p><p>chương 14</p><p>Thị chi bất kiến danh viết di ﹔thính chi bất văn danh viết hi ﹔bác chi bất đắc danh viết vi . Thử tam giả bất khả trí cật , cố hỗn nhi vi nhất . Kì thượng bất kiểu , kì hạ bất muội , thằng thằng bất khả danh , phục quy ư vô vật . Thị vị vô trạng chi trạng , vô vật chi tượng , thị vị hốt hoảng . Nghinh chi bất kiến kì thủ , tuỳ chi bất kiến kì hậu . Chấp cổ chi đạo , dĩ ngự kim chi hữu ; năng tri cổ thỉ , thị vị đạo kỉ .Nhìn không thấy gọi là di, nghe không thấy gọi là hi, nắm không được gọi là vi. Ba cái đó (di, hi, vi, tức vô sắc, vô thanh, vô hình) truy cứu đến cùng cũng không biết gì được, chỉ thấy trộn lộn làm một thôi. Ở trên không sáng, ở dưới không tối, thâm viễn bất tuyệt, không thể gọi tên, nó lại trở về cõi vô vật, cho nên bảo là cái trạng không có hình trạng, cái tượng không có vật thể. Nó thấ thoáng, mập mờ. Đón nó thì không thấy đầu, theo nó thì không thấy đuôi.</p><p></p><p>Ai giữ được cái đạo từ xưa vẫn có thì có thể khống chế được mọi sự vật ngày nay; biết được cái nguyên thủy tức là nắm được giềng mối của đạo.</p><p></p><p></p><p>LỜI BÀN</p><p></p><p>laozi</p><p></p><p>Chương này nói về bản thể của đạo, vô sắc, vô thanh, vô hình, nên không thể giảng được, gọi tên được. Nhưng nó đầy khắp vũ trụ, là căn nguyên của vạn vật, hễ giữ được nó là nắm được chân lý mà xử lý được mọi sự vật</p><p></p><p>chương 15</p><p>Cổ chi thiện vi đạo giả , vi diệu huyền thông , thâm bất khả thức . Phù duy bất khả thức , cố cưỡng vị chi dung :Dự hề , nhược đông thiệp xuyên ﹔do hề , nhược úy tứ lân ﹔nghiễm hề , kì nhược khách ﹔hoán hề , nhược băng chi tương thích ﹔đôn hề , kì nhược phác ﹔khoáng hề , kì nhược cốc ﹔hỗn hề , kì nhược trọc . Thục năng trọc dĩ tĩnh chi từ thanh . Thục năng an dĩ động chi từ sinh . Bảo thủ đạo giả , bất dục doanh . Phù duy bất doanh , cố năng tế nhi tân thành .</p><p>DỊCH NGHĨA</p><p></p><p>Người đắc đạo thời xưa tinh tế, mầu nhiệm, thông đạt, sâu xa không thể biết được. Vì không thể biết được, nên phải miễn cưỡng tả họ như sau:</p><p></p><p>Họ rụt rè như mùa đông lội qua sông, nghi ngại như sợ láng giềng bốn bên, nghiêm chỉnh như một người khách, chảy ra, lưu động như băng tan, dày dặn mộc mạc như gỗ chưa đẽo, không hư như cái hang, hỗn độn (lờ đờ) như nước đục.</p><p></p><p>Ai có thể đương đục mà lắng xuống để lần lần trong ra? Ai có thể đương hư tĩnh mà phát động để lần lần sinh động lên? Người nào giữ được đạo ấy thì không tự mãn. Vì không tự mãn nên mới bỏ cái cũ mà canh tân được.</p><p>LỜI BÀN</p><p></p><p></p><p></p><p>Chương này bản của Vương Bật đã được nhiều người đời sau hiệu đính, do đó hiện nay có nhiều bản khác nhau, như chúng tôi đã ghi sơ ở cước chú. Đại khái, chữ tuy khác mà nghĩa như nhau, trừ câu cuối, để chữ bất, không đổi ra chữ nhi, thì nghĩa ngược hẳn: "Vì không đầy nên có thể che lấp, chẳng trở nên mới; Chúng tôi nghĩ chữ tế ở đây dùng như chữ "tệ" ở chương 22, và nghĩa tệ nhi tân thành ở đây cũng là nghĩa "tệ tắc tân" ở chương 22. Vì vậy chúng tôi cho đổi ra chữ nhi là phải, và dịch là: "bỏ cái cũ mà canh tân".</p><p></p><p>Đoạn thứ nhì, có ngưiờ giải thích chữ "hoán" là giải tán, chữ "thích" là tiêu vong; và "hoán hề nhược băng thi tương thích" là diệt tình dục, lòng thành ra hư không. Chữ "hồn" (hồn hề kỳ nhược trọc), có người giải thích là hồn nhiên, bề ngoài tựa như ngu muội.</p><p></p><p>Đoạn cuối: "đương đục mà lắng xuống để lần lần trong ra" là từ đời sống hỗn trọc ngày nay trở về đạo, "đương hư tĩnh mà phát động để lần lần sinh động lên", là ngược lại, từ đạo trở xuống đời sống hiện tại.</p><p></p><p>Giọng văn ở chương này khác hẳn các chương trên, giống thể từ phú ở cuối đời Chiến Quốc, cho nên chúng tôi ngờ không phải là lời của Lão tử, cũng không phải viết sau khi Lão tử mới mất.</p><p></p><p>chương16Trí hư cực , thủ tĩnh đốc . Vạn vật tịnh tác , ngô dĩ quan phục . Phù vật vân vân , các phục quy kì căn . Quy căn viết tĩnh , tĩnh viết phục mệnh . Phục mệnh viết thường , tri thường viết minh . bất tri thường , vọng tác , hung . Tri thường dung , dung nãi công , công nãi toàn , toàn nãi thiên ,thiên nãi đạo , đạo nãi cửu , một thân bất đãi .</p><p>DỊCH NGHĨA</p><p></p><p>Hết sức giữ được cực hư, cực tĩnh xem vạn vật sinh trưởng ta thấy được qui luật phản phục [vạn vật từ vô mà sinh ra rồi trở về vô].</p><p></p><p>Vạn vật phồn thịnh đều trở về căn nguyên của chúng [tức đạo]. Trở về căn nguyên thì tĩnh, [tĩnh là bản tính của mọi vật, cho nên] trở về căn nguyên gọi là "trở về mệnh". Trở về mệnh là luật bất biến (thường) của vật. Biết luật bất biến thì sáng suốt, không biết luật bất biến thì vọng động mà gây hoạ.</p><p></p><p>Biết luật bất biến thì bao dung, bao dung thì công bình [vô tư] công bình thì bao khắp, bao khắp thì phù hợp với tự nhiên, phù hợp với tự nhiên thì phù hợp với đạo, hợp với đạo thì vĩnh cửu, suốt đời không nguy.</p><p>LỜI BÀN</p><p></p><p></p><p></p><p>Trong đoạn cuối, "công nãi toàn", có bản chép là "công nãi vương 王" (Chinapage.com), và có người dịch là "vua"; lại có người hiểu chữ "toàn" ở đó là hoàn toàn.</p><p></p><p>Ý nghĩa chương ngày rất rõ: chúng ta phải cực hư tĩnh, bỏ hết thành kiến, tư dục đi mà nhận xét vũ trụ, sẽ thấy luật "qui căn" của vạn vật: từ vô sinh hữu, rồi từ hữu trở về vô; hiểu luật thiên nhiên bất biến đó và hành động theo nó thì suốt đời không bị họa.</p><p></p><p>chưong 17</p><p>Thái thượng , bất tri hữu chi ﹔kì thứ , thân nhi dự chi ﹔kì thứ , uý chi ﹔kì thứ ,vũ chi . Tín bất túc yên , hữu bất tín yên . Du hề , kì quý ngôn . Công thành sự toại , bách tính giai vị :「ngã tự nhiên 」 .</p><p>DỊCH NGHĨA</p><p></p><p>Bậc trị dân giỏi nhất thì dân không biết là có vua, thấp hơn một bực thì dân yêu quí và khen; thấp hơn nữa thì dân sợ; thấp nhất thì bị dân khinh lờn.</p><p></p><p>Vua không đủ thành tín thì dân không tin. Nhàn nhã, ung dung [vì vô vi] mà quý lời nói. Vua công thành, việc xong rồi mà trăm họ đều bảo: "Tự nhiên mình được vậy".</p><p></p><p></p><p>LỜI BÀN</p><p></p><p></p><p></p><p>Câu đầu, nhiều bản chép là: "Thái thượng, hạ tri hữu chi" nghĩa là "bậc trị dân giỏi nhất thì dân biết là có vua", nghĩa đó không sâu sắc, không hợp với câu cuối: "bách tính giai vị: Ngã tự nhiên". Ông vua giỏi thì cứ thuận theo tự nhiên, "cư vô vi nhi sự, hành bất ngôn chi giáo" (chương 2) để cho dân thuận tính mà phát triển, không can thiệp vào việc của dân, nên dân không thấy vua làm gì cả, cơ hồ không có vua.</p><p></p><p>Đoạn sau: "tín bất túc yên", có người giảng là vua không đủ tin dân. "Du hề", có người giảng là "lo nghĩ", chúng tôi e không hợp với thuyết vô vi của Lão tử.</p><p>chương 18</p><p>Đại đạo phế , hữu nhân nghĩa ﹔trí tuệ xuất , hữu đại ngụy ﹔lục thân bất hoà , hữu hiếu từ ﹔quốc gia hôn loạn , hữu trung thần .</p><p>DỊCH NGHĨA</p><p></p><p>Đạo lớn bị bỏ rồi mới có nhân nghĩa; trí xảo xuất hiện rồi mới có trá ngụy; gia đình (cha mẹ, anh em, vợ chồng) bất hòa rồi mới sinh ra hiếu, từ; nước nhà rối loạn mới có tôi trung.</p><p></p><p></p><p>LỜI BÀN</p><p></p><p></p><p></p><p>Đạo lớn thì tự nhiên, vô tâm, coi vạn vật như nhau; nhân nghĩa thì hữu tâm yêu vạn vật mà có sự suy tính, phân biệt. Sáu chữ "đại đạo phế, hữu nhân nghĩa", nghĩa cũng như câu đầu chương 38: "Thất đạo nhi hậu đức, thất đức nhi nhậu nhân, thất nhân nhi hậu nghĩa".</p><p>chương 19</p><p>Tuyệt thánh khí trí , dân lợi bách bội ﹔tuyệt nhân khí nghĩa , dân phục hiếu từ ﹔tuyệt xảo khí lợi , đạo tặc vô hữu . Thử tam giả dĩ vi văn , bất túc , cố linh hữu sở thuộc :kiến tố bão phác , thiểu tư quả dục .</p><p>DỊCH NGHĨA</p><p></p><p>Dứt thánh (thánh hiểu theo quan niệm Khổng, Mặc) bỏ trí, dân lợi gấp trăm; dứt nhân bỏ nghĩa, dân lại hiếu từ; dứt (trí) xảo bỏ lợi, không có trộm giặc.</p><p></p><p>Ba cái đó (thánh trí, nhân nghĩa, xảo lợi) vì là cái văn vẻ (trang sức bề ngoài) không đủ (để trị dân) cho nên (phải bỏ mà) khiến cho dân qui (hoặc chuyên chú) về điều này: ngoài thì biểu hiện sự mộc mạc (tố), trong thì giữ sự chất phác (phác), giảm tư tâm (tư), bớt dục vọng (dục).</p><p>LỜI BÀN</p><p></p><p></p><p></p><p>Trong câu nhì, chữ văn trái với chữ phác. Bỏ ba cái "văn" đó mới chỉ là tiêu cực; phải mộc mạc, chất phác, giảm tư tâm, bớt dục mới là tích cực.</p><p>chương 20</p><p>Tuyệt học vô ưu, duy chi dữ a , tương khứ kỉ hà ? thiện chi dữ ác , tương khứ nhược hà ? nhân chi sở úy , bất khả bất úy . Hoang hề kì vị ương tai !Chúng nhân hi hi , như hưởng thái lao , như xuân đăng đài. ngã độc bạc hề kì vị triệu ﹔như anh nhi chi vị hài ﹔luy luy hề nhược vô sở quy . Chúng nhân giai hữu dư , nhi ngã độc nhược di . ngã ngu nhân chi tâm dã tai , độn độn hề !Tục nhân chiêu chiêu , ngã độc hôn hôn . Tục nhân sát sát , ngã độc muộn muộn , đạm hề kì nhược hải , liêu hề nhược vô chỉ . Chúng nhân giai hữu dĩ , nhi ngã độc ngoan thả bỉ . Ngã độc dị ư nhân , nhi quý thực mẫu .</p><p>DỊCH NGHĨA</p><p></p><p>Dứt học thì không lo. Dạ (giọng kính trọng) với ơi (giọng coi thường) khác nhau bao nhiêu? Thiện với ác khác nhau thế nào? Cái người ta sợ, ta không thể không sợ. Rộng lớn thay, không sao hết được!</p><p></p><p>Mọi người hớn hở như hưởng bữa tiệc lớn, như mùa xuân lên đài; riêng ta điềm tĩnh, không lộ chút tình ý gì như đứa trẻ mới sinh, chưa biết cười; rũ rượi mà đi như không có nhà để về.</p><p></p><p>Mọi người đề có thừa, riêng ta như thiếu thốn; lòng ta ngu muội, đần độn thay!</p><p></p><p>Người đời sáng rỡ, riêng ta tối tăm; người đời trong trẻo, riêng ta hỗn độn, như sóng biển nhấp nhô, như gió vèo vèo không ngừng.</p><p></p><p>Mọi người đều có chỗ dùng, riêng ta ngoan cố mà bỉ lậu. Riêng ta khác người, mà quí mẹ nuôi muôn loài (tức đạo).</p><p>LỜI BÀN</p><p></p><p></p><p></p><p>Chương này có nhiều bản, nếu dẫn hết những chỗ khác nhau thì quá rườm.</p><p></p><p>Bốn chữ đầu "tuyệt học vô ưu", Trần Trụ bảo nên để ở đầu chương trên, Hồ Thích bảo nên để ở cuối chương trên. Để ở đâu cũng khó ổn.</p><p></p><p>Rồi cả đoạn đầu, ý nghĩa cũng tối tăm, cơ hồ không liên lạc gì với đoạn dưới. "Cái người ta sợ" là cái gì? Và cái gì "rộng lớn thay"?</p><p></p><p>Mỗi nhà rán đưa ra một thuyết. Có người bảo là sợ cái học vì nó mênh mông, không sao hết được. Giảng như vậy thì bốn chữ "tuyệt học vô ưu" không chơi vơi nữa.</p><p></p><p>Nhưng có nhà lại bảo: sợ đây là sợ để lộ cái sáng suốt, tài năng của mình ra, mà sẽ bị người đời đố kỵ; còn rộng lớn là cái đạo rộng lớn, người đời không sao hiểu hết được.</p><p></p><p>Cả hai giả thuyết đó đều không dựa vào cái gì chắc chắn cả. Chúng tôi xin tồn nghi, chỉ dịch sát từng chữ, để độc giả muốn hiểu sao thì hiểu.</p><p></p><p>Đoạn dưới tả chân dung một người đắc đạo: cực sáng suốt thì như ngu độn.</p><p></p><p>Cũng như Chương 15, chương này không chắc là lời của Lão tử.</p><p>chương 21</p><p>Khổng đức chi dung , duy đạo thị tòng . Đạo chi vi vật , duy hoảng duy hốt ; hốt hề hoảng hề , kì trung hữu tượng ﹔hoảng hề hốt hề , kì trung hữu vật ﹔yểu hề minh hề , kì trung hữu tinh ﹔kì tinh thậm chân , kì trung hữu tín . Tự cổ cập kim , kì danh bất khứ , dĩ duyệt chúng phủ . Ngô hà dĩ tri chúng phủ chi trang tai . Dĩ thử .</p><p>DỊCH NGHĨA</p><p></p><p>Những biểu hiện của đức lớn đều tùy theo đạo (vì đạo là bản thể của đức, đức là tác dụng của đạo).</p><p></p><p>Đạo là cái gì chỉ mập mờ, thấp thoáng; thấp thoáng mập mờ mà bên trong có hình tượng; mập mờ, thấp thoáng mà bên trong có vật; nó thâm viễn, tối tăm mà bên trong có cái tinh túy; tinh túy đó rất xác thực, và rất đáng tin.</p><p></p><p>Từ xưa đến nay, đạo tồn tại hoài, nó sáng tạo vạn vật. Chúng ta do đâu mà biết được bản nguyên của vạn vật? Do cái đó (tức đạo).</p><p>LỜI BÀN</p><p></p><p></p><p></p><p>Câu đầu, có người hiểu là: ngôn ngữ, cử động của người có đức lớn đều tùy theo đạo.</p><p></p><p>Chữ "tinh" (kỳ trung hữu tinh) trong đoạn thứ nhì có thể hiểu là nguyên lý và nguyên chất của mọi vật. Chữ "tín" ở sau, có người dịch là hiệu năng, diệu dụng (efficience).</p><p></p><p>Đoạn cuối: chữ "danh" (tên) có người cho là trỏ bản thể của đạo.</p><p></p><p>Chương này cho ta biết thêm về đạo. Quan trọng nhất là những chữ "kỳ trung hữu tinh, kỳ tinh thậm chân, kỳ trung hữu tín". Nhờ cái "tinh" đó mà đạo sinh ra vạn vật. Nhưng cái tinh đó hữu hình hay vô hình?</p><p></p><p>Không có gì cho chúng ta biết chắc được. Có lẽ nó vừa là nguyên lý, vừa là nguyên chất.</p><p>chương 22</p><p></p><p>khúc tắc toàn , uổng tắc trực , oa tắc doanh , tệ tắc tân , thiếu tắc đắc , đa tắc hoặc . Thị dĩ thánh nhân bão nhất vi thiên hạ thức . Bất tự hiện cố minh bất tự thị cố chương ﹔bất tự phạt ,cố hữu công ﹔bất tự căng cố trướng . Phù duy bất tranh cố thiên hạ mạc năng dữ chi tranh . Cổ chi sở vị khúc tắc toàn giả , khởi hư ngôn tai !thành toàn nhi quy chi .</p><p>DỊCH NGHĨA</p><p></p><p>Cong [chịu khuất] thì sẽ được bảo toàn, queo thì sẽ thẳng ra, trũng thì sẽ đầy, cũ nát thì sẽ mới, ít thì sẽ được thêm, nhiều thì sẽ hóa mê.</p><p></p><p>Vì vậy mà thánh nhân[thánh ở đây hiểu theo quan niệm của Lão] ôm giữ lấy đạo [nhất đây là đạo] làm phép tắc cho thiên hạ. Không tự biểu hiện cho nên mới sáng tỏ, không tự cho là phải cho nên mới chói lọi, không tự kể công cho nên mới có công, không tự phụ cho nên mới trường cửu [hoặc hơn người]. Chỉ vì không tranh với ai cho nên không ai tranh giành với mình được.</p><p></p><p>Người xưa bảo: "Cong thì sẽ được bảo toàn", đâu phải hư ngôn! Nên chân thành giữ vẹn cái đạo mà về với nó.</p><p>LỜI BÀN</p><p></p><p></p><p></p><p>Câu cuối: "Thành toàn nhi qui chi" có người dịch là:</p><p></p><p>- Thực vẹn đủ nên theo về.</p><p></p><p>- Nếu thành thật hoàn toàn thì ai cũng về với mình.</p><p></p><p>- Do đó mà mình giữ được toàn vẹn.</p><p></p><p>- Thực giữ được vẹn cái đạo chuyên đạo cũng giữ được vẹn cho mình mà mình về với đạo.</p><p></p><p>Các nhà bình giải đều cho rằng bốn hoặc cả sáu châm ngôn trong câu đầu: 【khúc tắc toàn, uổng tắc trực, oa tắc oanh, tệ tắc tân, thiểu tắc đắc, đa tấc hoặc】đều là thành ngữ trong dân gian đã có từ xưa. Họ bảo rằng: "Lão tử thích chủ trương thuyết tương đối, nên thường nói ngược với người đời, "nhu tri kì hùng, thủ kì thư, tri kì bạch, thủ kì hắc, tri kì vinh, thủ kì nhục" (chương 28). Ở đây cũng vậy. Người ta ai cũng muốn được toàn vẹn, thẳng, đầy, mới, có nhiều, riêng ông, cái gì người ta bỏ: cong, queo, trũng, cũ nhát, ít, thì ông lại coi trọng".</p><p>Đạo vốn khiêm, nhu, người giữ đạo cũng phải khiêm nhu: cong, queo, tức là nhu, trũng, cũ, ít tức là khiêm. Khiêm nhu thắng được tự phụ cương cường. Đó là một lẽ. Còn lẽ nữa là trong vũ trụ không có cái gì bất di bất dịch, thịnh rồi suy, đầy rồi vơi, cho nên bây giờ ở vào trạng thái cong queo thì sau sẽ bảo toàn được sẽ thẳng ra; bây giờ ở vào trạng thái thấp trũng, cũ nát, ít thì sau sẽ được đầy, mới, nhiều.</p><p>Những kinh nghiệm đó thuộc vào cái túi khôn chung của nhân loại, chẳng riêng của Trung Hoa; Lão tử chỉ có công nhấn mạnh vào coi trọng nó hơn những người khác và sắp đặt thành một hệ thống mà dùng đạo, tức luật thiên nhiên làm cơ sở.</p><p>chương 23</p><p>Hi ngôn tự nhiên . Cố phiêu phong bất chung triêu , sậu vũ bất chung nhật . Thục vi thử giả ? Thiên địa . Thiên địa thượng bất năng cửu , nhi huống ư nhân hồ ? Cố tòng sự ư đạo giả , đồng ư đạo ﹔đức giả , đồng ư đức ﹔thất giả , đồng ư thất . Đồng ư đạo giả , đạo diệc lạc đắc chi ﹔đồng ư đức giả , đức diệc lạc đắc chi ﹔đồng ư thất giả , thất diệc lạc đắc chi . Tín bất túc yên , hữu bất tín yên .</p><p>DỊCH NGHĨA</p><p></p><p>Ít nói thì hợp với tự nhiên (với đạo).</p><p></p><p>Cho nên gió lốc không hết buổi sáng, mưa rào không suốt ngày. Ai làm nên những cái ấy? Trời đất. Trời đất còn không thể lâu được, huống hồ là người?</p><p></p><p>Cho nên theo đạo thì sẽ hòa đồng với đạo; theo đức thì sẽ hòa đồng với đức; theo sự mất đạo mất đức thì sẽ là một với "mất". Hòa đồng với đạo thì sẽ vui được đạo; hòa đồng với đức thì sẽ vui được đức; là một với "mất" thì sẽ vui với "mất".</p><p></p><p>Vua không đủ thành tín thì dân không tin.</p><p>LỜI BÀN</p><p></p><p></p><p></p><p>Chữ "thất" (mất) trong đoạn nhì có lẽ là chữ thất trong chương 38: thất đạo nhi hậu đức, thất đức nhi hậu nhân, thất nhân nhi hậu nghĩa, thất nghĩa nhi hậu lễ; và có thể hiểu là sự mất đạo, mất đức. Theo sự mất đạo mất đức tức là theo nhân, nghĩa, lễ, theo cách trị dân của Khổng Giáo. Lão tử cho cách đó là thấp.</p><p></p><p>Câu "đồng ư đạo giả, đạo diệc lạc đắc chi", có thể hiểu là hòa đồng với đạo thì đạo cũng vui được ta mà hòa đồng với ta. Như vậy là nhân cách hóa đạo. Hai câu sau cũng vậy. Hiểu theo cách này với hiểu như chúng tôi đã dịch, chung qui cũng không khác nhau.</p><p></p><p>Câu cuối đã có ở Chương 17. Ở đây vì không chắc là nói về việc trị dân, cho nên có thể dịch là:</p><p></p><p>- Lòng tin ở đạo không đủ, cho nên có sự không tin,</p><p></p><p>- Hoặc mình không tin mình thì người không tin mình, dẫu có nói nhiều cũng vô ích; như vậy ứng với câu đầu: nên ít nói để hợp với đạo.</p><p></p><p>Chương này, xét từng câu thì nghĩa dễ hiểu. Nhưng tìm liên lạc giữa các ý thì rất khó, mỗi người đưa ra một cách giảg; cách nào cũng không xuôi. Chẳng hạn có người giảng:</p><p></p><p>Người học đạo phải hòa đồng với đạo mà đạo tức thiên nhiên không nói (trời đất nói gì đâu mà mọi vật đều thành tựu), vậy ta cũng nên ít nói, đừng để "nổi" lên những cơn mưa bão trong lòng" (!). Hòa đồng với đạo thì sẽ vui được đạo; muốn vậy phải dốc lòng tin đạo.</p><p>chương 24</p><p>Xí giả bất lập ﹔khoá giả bất hành ﹔tự hiện giả bất minh ﹔tự thị giả bất chương ﹔tự phạt giả bất công ﹔tự khoa giả bất trường . Kì tại (ư) đạo dã viết: dư thực chức hành (hình) , vật hoặc ố chi , cố hữu đạo giả bất xử (cư) .</p><p>DỊCH NGHĨA</p><p></p><p>Kẻ kiểng chân không đứng được (vững), kẻ xoạc cẳng không đi được (lâu), kẻ tự biểu hiện thì không sáng tỏ, kẻ tự cho là phải thì không chói lọi, kẻ tự kể công thì không có công, kẻ tự phụ thì không trường cửu. Đối với đạo thì những thái độ đó là "những đồ ăn thừa, những cục bướu, ai cũng ghét". Cho nên kẻ theo đạo không làm như vậy.</p><p>LỜI BÀN</p><p></p><p></p><p></p><p>Ý trong câu thừ nhì: "Tự hiệu giả minh ... tự khoa giả bất trường" đã được diễn trong Chương 22.</p><p></p><p>Câu thứ ba, nhiều nhà cho chữ hành với chữ hình đọc giống nhau, dùng thay cho nhau được. Chúng tôi theo chủ trương đó. Có người dịch là việc làm, chức hành là việc làm thừa, như kiểu vẽ rắn thêm chân.</p><p>chương 25</p><p>Hữu vật hỗn thành , tiên thiên địa sinh . Tịch hề liêu hề , độc lập nhi bất cải , chu hành nhi bất đãi , khả dĩ vi thiên địa mẫu . Ngô bất tri kì danh , tự chi viết đạo , cưỡng vị chi danh viết đại . Đại viết thệ , thệ viết viễn , viễn viết phản . Cố đạo đại , thiên đại , địa đại , nhân diệc đại . Vực trung hữu tứ đại , nhi nhân cư kì nhất yên . Nhân pháp địa , địa pháp thiên , thiên pháp đạo , đạo pháp tự nhiên .</p><p>DỊCH NGHĨA</p><p></p><p>Có một vật hôn độn mà thành trước cả trời đất. Nó yên lặng (vô thanh) trống không (vô hình), đứng một mình mà không thay đổi (vĩnh viễn bất biến), vận hành khắp vũ trụ mà không ngừng, có thể coi nó là mẹ của vạn vật trong thiên hạ. Ta không biết nó là gì, tạm đặt tên nó là đạo, miễn cưỡng gọi nó là lớn (vô cùng).</p><p>Lớn (vô cùng) thì lưu hành (không ngừng), lưu hành (không ngừng) thì đi xa, đi xa thì trở về (qui căn). Cho nên đạo lớn, trời lớn, đất lớn, người cũng lớn. Trong vũ trụ có bốn cái lớn mà người là một. Người bắt chước đất, đất bắt chước trời, trời bắt chước đạo, đạo bắt chước tự nhiên.</p><p>LỜI BÀN</p><p></p><p></p><p></p><p>Cuối đoạn đầu, "tự chi viết đạo", "danh chi viết đại", có người dịch "đặt tên tự là đạo", "gọi tên là lớn". Dư Bồi Lâm bảo chữ danh ở đây có nghĩa là "hình dung", như chữ dung trong "cưỡng vị chi dung" ở chương 15; vậy nên dịch là "miễn cưỡng tả nó là lớn".</p><p>Đoạn sau, ba chữ "nhân diệc đại", bản cổ nhất chép là "vương (vua) diệc đại", nhưng dù vương hay nhân, nghĩa cũng không khác: vua là chúa của loài người, đại biểu cho loài người, vậy vua lớn, tức là loài người lớn. Phó Dịch sửa lại nhân cho hợp với câu sau: "nhân pháp địa, địa pháp thiên..."</p><p>Câu cuối "đạo pháp tự nhiên", chúng tôi dịch sát là: đạo bắt chước tự nhiên, nhưng phải hiểu: đạo tức là tự nhiên, đạo với tự niên là một, vì ngoài đạo ra không có gì khác nữa.</p><p>Chương này diễn lại vài ý trong các chương 1, chương 14, chương 16 và thêm ý này: đạo là tự nhiên.</p><p>chương 26</p><p>Trọng vi khinh căn , tĩnh vi táo quân . Thị dĩ thánh nhân chung nhật hành bất li tri trọng . Tuy hữu vinh quan , yên xử siêu nhiên . Nại hà vạn thặng chi chủ , nhi dĩ thân khinh thiên hạ ? khinh tắc thất căn , táo tắc thất quân .</p><p>DỊCH NGHĨA</p><p></p><p>Nặng là gốc rễ của nhẹ, tĩnh là chủ của náo động; Cho nên thánh nhân (tức vua) suốt ngày đi không lìa xe chở đồ dùng (nặng) tuy được sự sang đẹp mà lòng nhàn tĩnh vượt lên cả (coi thường ngoại vật).</p><p>Ông vua một nước có vạn cỗ xe (một nước lớn) sao lại có thể lấy thân coi nhẹ thiên hạ? Nhẹ thì mất gốc rễ, náo động thì mật chủ.</p></blockquote><p></p>
[QUOTE="tapchoi82, post: 15736, member: 695"] Đại ý ông bảo: Hai chữ "nhược 若" trong câu đầu nghĩa như chữ "nãi 乃" (thời xưa hai chữ đó đọc giống nhau, nên dùng thay nhau), nghĩa là "bèn, thì, do đó mà...". Nhiều người không hiểu vậy, giảng là "như tối", hoặc sửa lại là chữ "giả", như vậy vô nghĩa: Chữ "quý 貴" nghĩa là coi trọng, tức sợ (theo Hà Thượng Công); còn chữ "thân 身" với chữ "kinh 驚" ở trên là "hỗ bị ngữ" tức những chữ làm đủ nghĩa lẫn nhau, đọc chữ sau thì phải coi ngược lên chữ trước mới thấy nghĩa. (1), và nghĩa nó cũng là "kinh". Vậy câu đầu có nghĩa là: Vinh, nhục thì lòng sinh ra rối loạn, sợ vạ lớn thì lòng rối loạn. Câu đó là cổ ngữ, chứ không phải của Lão tử vì Lão tử chủ trương "vô dục" (Ngã vô dục nhi dân tự hóa - chương 57); "hậu kỳ thân, ngoại kỳ thân" (chương 7), thì đâu lại để cho vinh nhục, đắc thất làm cho rối loạn, đâu lại "coi trọng cái vạ lớn như bản thân mình". Vì vậy, Dư Bồi Lâm đặt câu đó trong dấu móc [ ]. Những câu sau mới là lời giải thích của Lão tử. Và Dư dịch như sau: [Người đời được vinh hay bị nhục thì lòng sinh ra rối loạn, sợ vạ lớn thì sinh ra rối loạn]. Tại sao vinh, nhục sinh ra rối loạn? Là vì vinh thì được tôn, nhục thì bị hèn; được thì lòng [mừng rỡ mà] rối loạn, mất thì lòng [rầu rĩ mà] rối loạn; cho nên bảo là vinh nhục sinh ra rối loạn. Tại sao sợ vạ lớn mà sinh ra rối loạn? Chúng ta sợ dĩ sợ vạ lớn là vì ta có cái thân. Nếu ta không có thân [quên mình có thân đi] thì còn sợ gì tai vạ nữa. Cho nên người nào coi trọng sự hy sinh thân mình cho thiên hạ thì có thể giao thiên hạ cho người đó được. Người nào vui vẻ đem thân mình phục vụ thiên hạ thì có thể gởi thiên hạ cho người đó được. Dư Bồi Lâm dịch như vậy nhưng cũng nhận rằng đó chỉ là thiển kiến của ông, không dám chắc là đúng. Câu cuối chúng tôi thấy còn 4 bản dịch khác để độc giả lựa chọn. 1. Kẻ nào biết quý thân vì thiên hạ thì giao phó thiên hạ cho được. Kẻ nào biết thương thân vì thiên hạ thì gởi gắm thiên hạ cho được. 2. Kẻ nào quý thân mình vì thiên hạ thì có thể sống trong thiên hạ được. Kẻ nào yêu thân mình vì thiên hạ thì có thể ký thác mình cho thiên hạ được. 3. Kẻ nào coi trọng thiên hạ như bản thân mình thì có thể giao phó thiên hạ cho được. Kẻ nào yêu thiên hạ như yêu bản thân mình thì có thể giao cho việc trị thiên hạ được. 4. Kẻ nào quý thân mình hơn cả thiên hạ thì có thể giao cho việc trị thiên hạ được. Kẻ nào yêu thân mình hơn cả thiên hạ thì có thể giao cho việc trị thiên hạ được. chương 14 Thị chi bất kiến danh viết di ﹔thính chi bất văn danh viết hi ﹔bác chi bất đắc danh viết vi . Thử tam giả bất khả trí cật , cố hỗn nhi vi nhất . Kì thượng bất kiểu , kì hạ bất muội , thằng thằng bất khả danh , phục quy ư vô vật . Thị vị vô trạng chi trạng , vô vật chi tượng , thị vị hốt hoảng . Nghinh chi bất kiến kì thủ , tuỳ chi bất kiến kì hậu . Chấp cổ chi đạo , dĩ ngự kim chi hữu ; năng tri cổ thỉ , thị vị đạo kỉ .Nhìn không thấy gọi là di, nghe không thấy gọi là hi, nắm không được gọi là vi. Ba cái đó (di, hi, vi, tức vô sắc, vô thanh, vô hình) truy cứu đến cùng cũng không biết gì được, chỉ thấy trộn lộn làm một thôi. Ở trên không sáng, ở dưới không tối, thâm viễn bất tuyệt, không thể gọi tên, nó lại trở về cõi vô vật, cho nên bảo là cái trạng không có hình trạng, cái tượng không có vật thể. Nó thấ thoáng, mập mờ. Đón nó thì không thấy đầu, theo nó thì không thấy đuôi. Ai giữ được cái đạo từ xưa vẫn có thì có thể khống chế được mọi sự vật ngày nay; biết được cái nguyên thủy tức là nắm được giềng mối của đạo. LỜI BÀN laozi Chương này nói về bản thể của đạo, vô sắc, vô thanh, vô hình, nên không thể giảng được, gọi tên được. Nhưng nó đầy khắp vũ trụ, là căn nguyên của vạn vật, hễ giữ được nó là nắm được chân lý mà xử lý được mọi sự vật chương 15 Cổ chi thiện vi đạo giả , vi diệu huyền thông , thâm bất khả thức . Phù duy bất khả thức , cố cưỡng vị chi dung :Dự hề , nhược đông thiệp xuyên ﹔do hề , nhược úy tứ lân ﹔nghiễm hề , kì nhược khách ﹔hoán hề , nhược băng chi tương thích ﹔đôn hề , kì nhược phác ﹔khoáng hề , kì nhược cốc ﹔hỗn hề , kì nhược trọc . Thục năng trọc dĩ tĩnh chi từ thanh . Thục năng an dĩ động chi từ sinh . Bảo thủ đạo giả , bất dục doanh . Phù duy bất doanh , cố năng tế nhi tân thành . DỊCH NGHĨA Người đắc đạo thời xưa tinh tế, mầu nhiệm, thông đạt, sâu xa không thể biết được. Vì không thể biết được, nên phải miễn cưỡng tả họ như sau: Họ rụt rè như mùa đông lội qua sông, nghi ngại như sợ láng giềng bốn bên, nghiêm chỉnh như một người khách, chảy ra, lưu động như băng tan, dày dặn mộc mạc như gỗ chưa đẽo, không hư như cái hang, hỗn độn (lờ đờ) như nước đục. Ai có thể đương đục mà lắng xuống để lần lần trong ra? Ai có thể đương hư tĩnh mà phát động để lần lần sinh động lên? Người nào giữ được đạo ấy thì không tự mãn. Vì không tự mãn nên mới bỏ cái cũ mà canh tân được. LỜI BÀN Chương này bản của Vương Bật đã được nhiều người đời sau hiệu đính, do đó hiện nay có nhiều bản khác nhau, như chúng tôi đã ghi sơ ở cước chú. Đại khái, chữ tuy khác mà nghĩa như nhau, trừ câu cuối, để chữ bất, không đổi ra chữ nhi, thì nghĩa ngược hẳn: "Vì không đầy nên có thể che lấp, chẳng trở nên mới; Chúng tôi nghĩ chữ tế ở đây dùng như chữ "tệ" ở chương 22, và nghĩa tệ nhi tân thành ở đây cũng là nghĩa "tệ tắc tân" ở chương 22. Vì vậy chúng tôi cho đổi ra chữ nhi là phải, và dịch là: "bỏ cái cũ mà canh tân". Đoạn thứ nhì, có ngưiờ giải thích chữ "hoán" là giải tán, chữ "thích" là tiêu vong; và "hoán hề nhược băng thi tương thích" là diệt tình dục, lòng thành ra hư không. Chữ "hồn" (hồn hề kỳ nhược trọc), có người giải thích là hồn nhiên, bề ngoài tựa như ngu muội. Đoạn cuối: "đương đục mà lắng xuống để lần lần trong ra" là từ đời sống hỗn trọc ngày nay trở về đạo, "đương hư tĩnh mà phát động để lần lần sinh động lên", là ngược lại, từ đạo trở xuống đời sống hiện tại. Giọng văn ở chương này khác hẳn các chương trên, giống thể từ phú ở cuối đời Chiến Quốc, cho nên chúng tôi ngờ không phải là lời của Lão tử, cũng không phải viết sau khi Lão tử mới mất. chương16Trí hư cực , thủ tĩnh đốc . Vạn vật tịnh tác , ngô dĩ quan phục . Phù vật vân vân , các phục quy kì căn . Quy căn viết tĩnh , tĩnh viết phục mệnh . Phục mệnh viết thường , tri thường viết minh . bất tri thường , vọng tác , hung . Tri thường dung , dung nãi công , công nãi toàn , toàn nãi thiên ,thiên nãi đạo , đạo nãi cửu , một thân bất đãi . DỊCH NGHĨA Hết sức giữ được cực hư, cực tĩnh xem vạn vật sinh trưởng ta thấy được qui luật phản phục [vạn vật từ vô mà sinh ra rồi trở về vô]. Vạn vật phồn thịnh đều trở về căn nguyên của chúng [tức đạo]. Trở về căn nguyên thì tĩnh, [tĩnh là bản tính của mọi vật, cho nên] trở về căn nguyên gọi là "trở về mệnh". Trở về mệnh là luật bất biến (thường) của vật. Biết luật bất biến thì sáng suốt, không biết luật bất biến thì vọng động mà gây hoạ. Biết luật bất biến thì bao dung, bao dung thì công bình [vô tư] công bình thì bao khắp, bao khắp thì phù hợp với tự nhiên, phù hợp với tự nhiên thì phù hợp với đạo, hợp với đạo thì vĩnh cửu, suốt đời không nguy. LỜI BÀN Trong đoạn cuối, "công nãi toàn", có bản chép là "công nãi vương 王" (Chinapage.com), và có người dịch là "vua"; lại có người hiểu chữ "toàn" ở đó là hoàn toàn. Ý nghĩa chương ngày rất rõ: chúng ta phải cực hư tĩnh, bỏ hết thành kiến, tư dục đi mà nhận xét vũ trụ, sẽ thấy luật "qui căn" của vạn vật: từ vô sinh hữu, rồi từ hữu trở về vô; hiểu luật thiên nhiên bất biến đó và hành động theo nó thì suốt đời không bị họa. chưong 17 Thái thượng , bất tri hữu chi ﹔kì thứ , thân nhi dự chi ﹔kì thứ , uý chi ﹔kì thứ ,vũ chi . Tín bất túc yên , hữu bất tín yên . Du hề , kì quý ngôn . Công thành sự toại , bách tính giai vị :「ngã tự nhiên 」 . DỊCH NGHĨA Bậc trị dân giỏi nhất thì dân không biết là có vua, thấp hơn một bực thì dân yêu quí và khen; thấp hơn nữa thì dân sợ; thấp nhất thì bị dân khinh lờn. Vua không đủ thành tín thì dân không tin. Nhàn nhã, ung dung [vì vô vi] mà quý lời nói. Vua công thành, việc xong rồi mà trăm họ đều bảo: "Tự nhiên mình được vậy". LỜI BÀN Câu đầu, nhiều bản chép là: "Thái thượng, hạ tri hữu chi" nghĩa là "bậc trị dân giỏi nhất thì dân biết là có vua", nghĩa đó không sâu sắc, không hợp với câu cuối: "bách tính giai vị: Ngã tự nhiên". Ông vua giỏi thì cứ thuận theo tự nhiên, "cư vô vi nhi sự, hành bất ngôn chi giáo" (chương 2) để cho dân thuận tính mà phát triển, không can thiệp vào việc của dân, nên dân không thấy vua làm gì cả, cơ hồ không có vua. Đoạn sau: "tín bất túc yên", có người giảng là vua không đủ tin dân. "Du hề", có người giảng là "lo nghĩ", chúng tôi e không hợp với thuyết vô vi của Lão tử. chương 18 Đại đạo phế , hữu nhân nghĩa ﹔trí tuệ xuất , hữu đại ngụy ﹔lục thân bất hoà , hữu hiếu từ ﹔quốc gia hôn loạn , hữu trung thần . DỊCH NGHĨA Đạo lớn bị bỏ rồi mới có nhân nghĩa; trí xảo xuất hiện rồi mới có trá ngụy; gia đình (cha mẹ, anh em, vợ chồng) bất hòa rồi mới sinh ra hiếu, từ; nước nhà rối loạn mới có tôi trung. LỜI BÀN Đạo lớn thì tự nhiên, vô tâm, coi vạn vật như nhau; nhân nghĩa thì hữu tâm yêu vạn vật mà có sự suy tính, phân biệt. Sáu chữ "đại đạo phế, hữu nhân nghĩa", nghĩa cũng như câu đầu chương 38: "Thất đạo nhi hậu đức, thất đức nhi nhậu nhân, thất nhân nhi hậu nghĩa". chương 19 Tuyệt thánh khí trí , dân lợi bách bội ﹔tuyệt nhân khí nghĩa , dân phục hiếu từ ﹔tuyệt xảo khí lợi , đạo tặc vô hữu . Thử tam giả dĩ vi văn , bất túc , cố linh hữu sở thuộc :kiến tố bão phác , thiểu tư quả dục . DỊCH NGHĨA Dứt thánh (thánh hiểu theo quan niệm Khổng, Mặc) bỏ trí, dân lợi gấp trăm; dứt nhân bỏ nghĩa, dân lại hiếu từ; dứt (trí) xảo bỏ lợi, không có trộm giặc. Ba cái đó (thánh trí, nhân nghĩa, xảo lợi) vì là cái văn vẻ (trang sức bề ngoài) không đủ (để trị dân) cho nên (phải bỏ mà) khiến cho dân qui (hoặc chuyên chú) về điều này: ngoài thì biểu hiện sự mộc mạc (tố), trong thì giữ sự chất phác (phác), giảm tư tâm (tư), bớt dục vọng (dục). LỜI BÀN Trong câu nhì, chữ văn trái với chữ phác. Bỏ ba cái "văn" đó mới chỉ là tiêu cực; phải mộc mạc, chất phác, giảm tư tâm, bớt dục mới là tích cực. chương 20 Tuyệt học vô ưu, duy chi dữ a , tương khứ kỉ hà ? thiện chi dữ ác , tương khứ nhược hà ? nhân chi sở úy , bất khả bất úy . Hoang hề kì vị ương tai !Chúng nhân hi hi , như hưởng thái lao , như xuân đăng đài. ngã độc bạc hề kì vị triệu ﹔như anh nhi chi vị hài ﹔luy luy hề nhược vô sở quy . Chúng nhân giai hữu dư , nhi ngã độc nhược di . ngã ngu nhân chi tâm dã tai , độn độn hề !Tục nhân chiêu chiêu , ngã độc hôn hôn . Tục nhân sát sát , ngã độc muộn muộn , đạm hề kì nhược hải , liêu hề nhược vô chỉ . Chúng nhân giai hữu dĩ , nhi ngã độc ngoan thả bỉ . Ngã độc dị ư nhân , nhi quý thực mẫu . DỊCH NGHĨA Dứt học thì không lo. Dạ (giọng kính trọng) với ơi (giọng coi thường) khác nhau bao nhiêu? Thiện với ác khác nhau thế nào? Cái người ta sợ, ta không thể không sợ. Rộng lớn thay, không sao hết được! Mọi người hớn hở như hưởng bữa tiệc lớn, như mùa xuân lên đài; riêng ta điềm tĩnh, không lộ chút tình ý gì như đứa trẻ mới sinh, chưa biết cười; rũ rượi mà đi như không có nhà để về. Mọi người đề có thừa, riêng ta như thiếu thốn; lòng ta ngu muội, đần độn thay! Người đời sáng rỡ, riêng ta tối tăm; người đời trong trẻo, riêng ta hỗn độn, như sóng biển nhấp nhô, như gió vèo vèo không ngừng. Mọi người đều có chỗ dùng, riêng ta ngoan cố mà bỉ lậu. Riêng ta khác người, mà quí mẹ nuôi muôn loài (tức đạo). LỜI BÀN Chương này có nhiều bản, nếu dẫn hết những chỗ khác nhau thì quá rườm. Bốn chữ đầu "tuyệt học vô ưu", Trần Trụ bảo nên để ở đầu chương trên, Hồ Thích bảo nên để ở cuối chương trên. Để ở đâu cũng khó ổn. Rồi cả đoạn đầu, ý nghĩa cũng tối tăm, cơ hồ không liên lạc gì với đoạn dưới. "Cái người ta sợ" là cái gì? Và cái gì "rộng lớn thay"? Mỗi nhà rán đưa ra một thuyết. Có người bảo là sợ cái học vì nó mênh mông, không sao hết được. Giảng như vậy thì bốn chữ "tuyệt học vô ưu" không chơi vơi nữa. Nhưng có nhà lại bảo: sợ đây là sợ để lộ cái sáng suốt, tài năng của mình ra, mà sẽ bị người đời đố kỵ; còn rộng lớn là cái đạo rộng lớn, người đời không sao hiểu hết được. Cả hai giả thuyết đó đều không dựa vào cái gì chắc chắn cả. Chúng tôi xin tồn nghi, chỉ dịch sát từng chữ, để độc giả muốn hiểu sao thì hiểu. Đoạn dưới tả chân dung một người đắc đạo: cực sáng suốt thì như ngu độn. Cũng như Chương 15, chương này không chắc là lời của Lão tử. chương 21 Khổng đức chi dung , duy đạo thị tòng . Đạo chi vi vật , duy hoảng duy hốt ; hốt hề hoảng hề , kì trung hữu tượng ﹔hoảng hề hốt hề , kì trung hữu vật ﹔yểu hề minh hề , kì trung hữu tinh ﹔kì tinh thậm chân , kì trung hữu tín . Tự cổ cập kim , kì danh bất khứ , dĩ duyệt chúng phủ . Ngô hà dĩ tri chúng phủ chi trang tai . Dĩ thử . DỊCH NGHĨA Những biểu hiện của đức lớn đều tùy theo đạo (vì đạo là bản thể của đức, đức là tác dụng của đạo). Đạo là cái gì chỉ mập mờ, thấp thoáng; thấp thoáng mập mờ mà bên trong có hình tượng; mập mờ, thấp thoáng mà bên trong có vật; nó thâm viễn, tối tăm mà bên trong có cái tinh túy; tinh túy đó rất xác thực, và rất đáng tin. Từ xưa đến nay, đạo tồn tại hoài, nó sáng tạo vạn vật. Chúng ta do đâu mà biết được bản nguyên của vạn vật? Do cái đó (tức đạo). LỜI BÀN Câu đầu, có người hiểu là: ngôn ngữ, cử động của người có đức lớn đều tùy theo đạo. Chữ "tinh" (kỳ trung hữu tinh) trong đoạn thứ nhì có thể hiểu là nguyên lý và nguyên chất của mọi vật. Chữ "tín" ở sau, có người dịch là hiệu năng, diệu dụng (efficience). Đoạn cuối: chữ "danh" (tên) có người cho là trỏ bản thể của đạo. Chương này cho ta biết thêm về đạo. Quan trọng nhất là những chữ "kỳ trung hữu tinh, kỳ tinh thậm chân, kỳ trung hữu tín". Nhờ cái "tinh" đó mà đạo sinh ra vạn vật. Nhưng cái tinh đó hữu hình hay vô hình? Không có gì cho chúng ta biết chắc được. Có lẽ nó vừa là nguyên lý, vừa là nguyên chất. chương 22 khúc tắc toàn , uổng tắc trực , oa tắc doanh , tệ tắc tân , thiếu tắc đắc , đa tắc hoặc . Thị dĩ thánh nhân bão nhất vi thiên hạ thức . Bất tự hiện cố minh bất tự thị cố chương ﹔bất tự phạt ,cố hữu công ﹔bất tự căng cố trướng . Phù duy bất tranh cố thiên hạ mạc năng dữ chi tranh . Cổ chi sở vị khúc tắc toàn giả , khởi hư ngôn tai !thành toàn nhi quy chi . DỊCH NGHĨA Cong [chịu khuất] thì sẽ được bảo toàn, queo thì sẽ thẳng ra, trũng thì sẽ đầy, cũ nát thì sẽ mới, ít thì sẽ được thêm, nhiều thì sẽ hóa mê. Vì vậy mà thánh nhân[thánh ở đây hiểu theo quan niệm của Lão] ôm giữ lấy đạo [nhất đây là đạo] làm phép tắc cho thiên hạ. Không tự biểu hiện cho nên mới sáng tỏ, không tự cho là phải cho nên mới chói lọi, không tự kể công cho nên mới có công, không tự phụ cho nên mới trường cửu [hoặc hơn người]. Chỉ vì không tranh với ai cho nên không ai tranh giành với mình được. Người xưa bảo: "Cong thì sẽ được bảo toàn", đâu phải hư ngôn! Nên chân thành giữ vẹn cái đạo mà về với nó. LỜI BÀN Câu cuối: "Thành toàn nhi qui chi" có người dịch là: - Thực vẹn đủ nên theo về. - Nếu thành thật hoàn toàn thì ai cũng về với mình. - Do đó mà mình giữ được toàn vẹn. - Thực giữ được vẹn cái đạo chuyên đạo cũng giữ được vẹn cho mình mà mình về với đạo. Các nhà bình giải đều cho rằng bốn hoặc cả sáu châm ngôn trong câu đầu: 【khúc tắc toàn, uổng tắc trực, oa tắc oanh, tệ tắc tân, thiểu tắc đắc, đa tấc hoặc】đều là thành ngữ trong dân gian đã có từ xưa. Họ bảo rằng: "Lão tử thích chủ trương thuyết tương đối, nên thường nói ngược với người đời, "nhu tri kì hùng, thủ kì thư, tri kì bạch, thủ kì hắc, tri kì vinh, thủ kì nhục" (chương 28). Ở đây cũng vậy. Người ta ai cũng muốn được toàn vẹn, thẳng, đầy, mới, có nhiều, riêng ông, cái gì người ta bỏ: cong, queo, trũng, cũ nhát, ít, thì ông lại coi trọng". Đạo vốn khiêm, nhu, người giữ đạo cũng phải khiêm nhu: cong, queo, tức là nhu, trũng, cũ, ít tức là khiêm. Khiêm nhu thắng được tự phụ cương cường. Đó là một lẽ. Còn lẽ nữa là trong vũ trụ không có cái gì bất di bất dịch, thịnh rồi suy, đầy rồi vơi, cho nên bây giờ ở vào trạng thái cong queo thì sau sẽ bảo toàn được sẽ thẳng ra; bây giờ ở vào trạng thái thấp trũng, cũ nát, ít thì sau sẽ được đầy, mới, nhiều. Những kinh nghiệm đó thuộc vào cái túi khôn chung của nhân loại, chẳng riêng của Trung Hoa; Lão tử chỉ có công nhấn mạnh vào coi trọng nó hơn những người khác và sắp đặt thành một hệ thống mà dùng đạo, tức luật thiên nhiên làm cơ sở. chương 23 Hi ngôn tự nhiên . Cố phiêu phong bất chung triêu , sậu vũ bất chung nhật . Thục vi thử giả ? Thiên địa . Thiên địa thượng bất năng cửu , nhi huống ư nhân hồ ? Cố tòng sự ư đạo giả , đồng ư đạo ﹔đức giả , đồng ư đức ﹔thất giả , đồng ư thất . Đồng ư đạo giả , đạo diệc lạc đắc chi ﹔đồng ư đức giả , đức diệc lạc đắc chi ﹔đồng ư thất giả , thất diệc lạc đắc chi . Tín bất túc yên , hữu bất tín yên . DỊCH NGHĨA Ít nói thì hợp với tự nhiên (với đạo). Cho nên gió lốc không hết buổi sáng, mưa rào không suốt ngày. Ai làm nên những cái ấy? Trời đất. Trời đất còn không thể lâu được, huống hồ là người? Cho nên theo đạo thì sẽ hòa đồng với đạo; theo đức thì sẽ hòa đồng với đức; theo sự mất đạo mất đức thì sẽ là một với "mất". Hòa đồng với đạo thì sẽ vui được đạo; hòa đồng với đức thì sẽ vui được đức; là một với "mất" thì sẽ vui với "mất". Vua không đủ thành tín thì dân không tin. LỜI BÀN Chữ "thất" (mất) trong đoạn nhì có lẽ là chữ thất trong chương 38: thất đạo nhi hậu đức, thất đức nhi hậu nhân, thất nhân nhi hậu nghĩa, thất nghĩa nhi hậu lễ; và có thể hiểu là sự mất đạo, mất đức. Theo sự mất đạo mất đức tức là theo nhân, nghĩa, lễ, theo cách trị dân của Khổng Giáo. Lão tử cho cách đó là thấp. Câu "đồng ư đạo giả, đạo diệc lạc đắc chi", có thể hiểu là hòa đồng với đạo thì đạo cũng vui được ta mà hòa đồng với ta. Như vậy là nhân cách hóa đạo. Hai câu sau cũng vậy. Hiểu theo cách này với hiểu như chúng tôi đã dịch, chung qui cũng không khác nhau. Câu cuối đã có ở Chương 17. Ở đây vì không chắc là nói về việc trị dân, cho nên có thể dịch là: - Lòng tin ở đạo không đủ, cho nên có sự không tin, - Hoặc mình không tin mình thì người không tin mình, dẫu có nói nhiều cũng vô ích; như vậy ứng với câu đầu: nên ít nói để hợp với đạo. Chương này, xét từng câu thì nghĩa dễ hiểu. Nhưng tìm liên lạc giữa các ý thì rất khó, mỗi người đưa ra một cách giảg; cách nào cũng không xuôi. Chẳng hạn có người giảng: Người học đạo phải hòa đồng với đạo mà đạo tức thiên nhiên không nói (trời đất nói gì đâu mà mọi vật đều thành tựu), vậy ta cũng nên ít nói, đừng để "nổi" lên những cơn mưa bão trong lòng" (!). Hòa đồng với đạo thì sẽ vui được đạo; muốn vậy phải dốc lòng tin đạo. chương 24 Xí giả bất lập ﹔khoá giả bất hành ﹔tự hiện giả bất minh ﹔tự thị giả bất chương ﹔tự phạt giả bất công ﹔tự khoa giả bất trường . Kì tại (ư) đạo dã viết: dư thực chức hành (hình) , vật hoặc ố chi , cố hữu đạo giả bất xử (cư) . DỊCH NGHĨA Kẻ kiểng chân không đứng được (vững), kẻ xoạc cẳng không đi được (lâu), kẻ tự biểu hiện thì không sáng tỏ, kẻ tự cho là phải thì không chói lọi, kẻ tự kể công thì không có công, kẻ tự phụ thì không trường cửu. Đối với đạo thì những thái độ đó là "những đồ ăn thừa, những cục bướu, ai cũng ghét". Cho nên kẻ theo đạo không làm như vậy. LỜI BÀN Ý trong câu thừ nhì: "Tự hiệu giả minh ... tự khoa giả bất trường" đã được diễn trong Chương 22. Câu thứ ba, nhiều nhà cho chữ hành với chữ hình đọc giống nhau, dùng thay cho nhau được. Chúng tôi theo chủ trương đó. Có người dịch là việc làm, chức hành là việc làm thừa, như kiểu vẽ rắn thêm chân. chương 25 Hữu vật hỗn thành , tiên thiên địa sinh . Tịch hề liêu hề , độc lập nhi bất cải , chu hành nhi bất đãi , khả dĩ vi thiên địa mẫu . Ngô bất tri kì danh , tự chi viết đạo , cưỡng vị chi danh viết đại . Đại viết thệ , thệ viết viễn , viễn viết phản . Cố đạo đại , thiên đại , địa đại , nhân diệc đại . Vực trung hữu tứ đại , nhi nhân cư kì nhất yên . Nhân pháp địa , địa pháp thiên , thiên pháp đạo , đạo pháp tự nhiên . DỊCH NGHĨA Có một vật hôn độn mà thành trước cả trời đất. Nó yên lặng (vô thanh) trống không (vô hình), đứng một mình mà không thay đổi (vĩnh viễn bất biến), vận hành khắp vũ trụ mà không ngừng, có thể coi nó là mẹ của vạn vật trong thiên hạ. Ta không biết nó là gì, tạm đặt tên nó là đạo, miễn cưỡng gọi nó là lớn (vô cùng). Lớn (vô cùng) thì lưu hành (không ngừng), lưu hành (không ngừng) thì đi xa, đi xa thì trở về (qui căn). Cho nên đạo lớn, trời lớn, đất lớn, người cũng lớn. Trong vũ trụ có bốn cái lớn mà người là một. Người bắt chước đất, đất bắt chước trời, trời bắt chước đạo, đạo bắt chước tự nhiên. LỜI BÀN Cuối đoạn đầu, "tự chi viết đạo", "danh chi viết đại", có người dịch "đặt tên tự là đạo", "gọi tên là lớn". Dư Bồi Lâm bảo chữ danh ở đây có nghĩa là "hình dung", như chữ dung trong "cưỡng vị chi dung" ở chương 15; vậy nên dịch là "miễn cưỡng tả nó là lớn". Đoạn sau, ba chữ "nhân diệc đại", bản cổ nhất chép là "vương (vua) diệc đại", nhưng dù vương hay nhân, nghĩa cũng không khác: vua là chúa của loài người, đại biểu cho loài người, vậy vua lớn, tức là loài người lớn. Phó Dịch sửa lại nhân cho hợp với câu sau: "nhân pháp địa, địa pháp thiên..." Câu cuối "đạo pháp tự nhiên", chúng tôi dịch sát là: đạo bắt chước tự nhiên, nhưng phải hiểu: đạo tức là tự nhiên, đạo với tự niên là một, vì ngoài đạo ra không có gì khác nữa. Chương này diễn lại vài ý trong các chương 1, chương 14, chương 16 và thêm ý này: đạo là tự nhiên. chương 26 Trọng vi khinh căn , tĩnh vi táo quân . Thị dĩ thánh nhân chung nhật hành bất li tri trọng . Tuy hữu vinh quan , yên xử siêu nhiên . Nại hà vạn thặng chi chủ , nhi dĩ thân khinh thiên hạ ? khinh tắc thất căn , táo tắc thất quân . DỊCH NGHĨA Nặng là gốc rễ của nhẹ, tĩnh là chủ của náo động; Cho nên thánh nhân (tức vua) suốt ngày đi không lìa xe chở đồ dùng (nặng) tuy được sự sang đẹp mà lòng nhàn tĩnh vượt lên cả (coi thường ngoại vật). Ông vua một nước có vạn cỗ xe (một nước lớn) sao lại có thể lấy thân coi nhẹ thiên hạ? Nhẹ thì mất gốc rễ, náo động thì mật chủ. [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
VĂN HÓA - ĐỜI SỐNG
Ứng Nhân Xử Thế
Đạo Đức Kinh-Lão Tử-phiên âm và bản dịch của Lê Hiếu
Top