Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
VĂN HÓA - ĐỜI SỐNG
SỐNG ĐẸP
Đạo đức học & triết lý nhân sinh
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="Butchi" data-source="post: 15464" data-attributes="member: 7"><p><strong>8. Thuyết học trực giác của IMMANUEL KANT</strong></p><p></p><p>Immanuel Kant(5)(1724-1804) xây dựng một học thuyết đạo đức dựa trên nền tảng "thiện chí", ý chí nguyện tôn trọng các nguyên tắc luận lý. Vì thế, học thuyết ấy còn được gọi bằng thuật ngữ "Đạo nghĩa học" <em>(Deontological)</em> - đạo lý về bổn phận. "<em>Bổn phận là nghĩa vụ hành động xuất phát từ sự tôn trọng các quy tắc (đạo đức)"</em>(4) Toàn bộ vấn đề đạo đức đều bao hàm trong lãnh vực "thiện ý có lý tính" (<em>rational good will</em>). Trong tác phẩm "<em>Siêu hình tính của luân lý"</em>, Kant nhận định: "<em>Không có gì ở toàn bộ thế giới này, hay ngay cả bên ngoài thế giới này, có thể được xem là tốt đẹp hoàn toàn, ngoại trừ thiện ý"</em>. Nơi nào không có ý nguyện tốt lành, không có sự tự quyết, tất không có sự tồn tại của môi trường đạo đức.</p><p></p><p><strong><em>Đạo đức học theo thuyết trực giác</em></strong></p><p></p><p>Thuyết trực giác (<em>Intuitionism</em>) là luận thuyết cho rằng đạo lý hoàn toàn tồn tại bên trong ý thức cá nhân, rằng cá giá trị đạo đức nẩy sinh từ ý nguyện và mục đích của mỗi hành vi (không nên căn cứ theo hình thái biểu hiện bên ngoài, vốn là hệ quả của một hành vi). Kant cho rằng điều tốt đẹp tồn tại ngay trong ý nguyện, bất kể kết quả của các hành vi biểu lộ ra bên ngoài. Thực tế, mọi hành động đều trung tính về mặt đạo đức (<em>morally neutral</em>). Ý nguyện, bản ngã đạo đức của con người, thể hiện sự lựa chọn của học trước những yêu cầu thuộc về các quy tắc luân lý. Lẽ phải có bản chất là đúng và phải được phát triển thành ý nguyện, không cần xét đến hệ quả - "Hãy để cho lẽ phải được thực hiện, cho dù thiên đường có sụp đổ”. Khi các quy tắc đạo đức yêu cầu chúng ta phải có ý nguyện thực hiện những đòi hỏi ấy, bất kể mọi hệ quả về sau.</p><p></p><p><strong><em>Mệnh lệnh vô điều kiện </em></strong></p><p></p><p>Tiêu chuẩn đạo đức của Kant (công cụ kiểm chứng tính đạo đức của một hành vi) là "Mệnh lệnh vô điều kiện" (<em>Cantegorical Imperative)</em>. "<em>Hãy hành động như thể nguyên tắc hành động của bạn, thông qua ý nguyện, chính là quy luật tự nhiên của toàn thể vũ trụ"</em>. Để xác định một hành vi "ý nguyện" là đạo đức, người ta phải dựa theo tiêu chuẩn này. Vì thế, khi dự định bỏ qua một lời hứa, người ta cần phải tự vấn chính mình rằng : “Liệu tôi có thực sự ước muốn rằng mọi người đều thất hứa mỗi khi được lựa chọn?” Nếu câu trả lời có tính phủ định, hành vi dự kiến là trái đạo đức."</p><p></p><p>Mệnh lệnh vô điều kiện là một yêu cầu đạo đức tối thượng, luôn đúng trong mọi trường hợp, mọi tình huống, mọi nơi mọi lúc. Mệnh lệnh (<em>The Imperative</em>) xuất phát từ lương tâm, là yêu cầu vô điều kiện (<em>Categorical)</em>, không có bất kỳ giới hạn hay khuôn khổ nào cả. Nếu thất hứa là hành động đúng trong một trường hợp nào đó, đúng với một cá nhân nào đó, nó phải đúng trong mọi trường hợp, đúng với tất cả mọi người. Điều gì sai trái đối với một người tất phải sai trái đối với tất cả mọi người. Qua đó, chúng ta tìm thấy nơi mệnh lệnh vô điều kiện một quan niệm triết lý thuộc về quy tắc vàng (<em>the Golden Rule) </em>trong nghệ thuật ứng xử: <em>"Hãy dành cho người khác những gì bạn mong muốn họ dành cho bạn</em>." Kant lý giải và chứng minh quan điểm của mình như sau: “<em>.... Liệu rằng tôi có thể, thí dụ, dưới áp lực của tình thế, đưa ra một lời hứa mà không hề có ý định thực hiện? Không nhằm để xác định tính không ngoan của hành vi hứa hão, câu hỏi ấy được đưa ra nhằm tìm hiểu đúng đắn về mặt đạo đức củ hành vi ấy. Để có thể trả lời câu hỏi ấy một cách ngắn gọn và rốt ráo, cách tốt nhất là tự vấn bản thận: “Liệu rằng có thể thoả mãn hay không, khi hành vi hứa hão với mục đích thoát ra khỏi tình thế bối rối trở thành quy luật ứng xử chung của toàn bộ của toàn bộ cộng đồng, áp dụng cho tất cả mọi người kể cả chính mình?”</em></p><p></p><p><em>“Ngay lập tức, tôi nhận ra rằng trong khi tôi muốn có quyền được nói dối, tôi cũng không muốn dối trá trở thành một quy luật ứng xử chung. Nếu dối trá trở thành quy luật phổ biến, nói cho cùng, trên đời sẽ không tồn tại cái được gọi là “lời hứa” nữa. Tôi có thể phỉnh phờ về cái điều tôi dự định làm trong tương lai, nhưng không ai tin tưởng ở tôi cả. Hoặc giả, nếu như có một người nào đó tin ở tôi; ngay tại thời điểm ấy, anh ta cũng có thể đang phỉnh phờ lại tôi. Chính vì thế, cung cách ứng xử sai trái ấy được xem là tự vọng, ngay khi nó được chấp nhận như một quy luật phổ biến.”</em></p><p></p><p><strong><em>Sự độc lập của ý nguyện</em></strong></p><p></p><p>Theo Kant, luân lý chỉ khả thi với sự tồn tại của “thiện chí có lý tính” của con người, một sự tự do lựa chọn không khuất phục bởi điều gì ngoài chính nó. Ý nguyện độc lập chỉ tuân theo mệnh lệnh của chính nó. Không ai có thể ước muốn cái điều anh ta không chọn lựa. Mặc dù người ta có thể ép buộc trẻ con thực hiện một hành vi nào đó, họ không thể nào cưỡng bách đứa trẻ “ước muốn” thực hiện hành vi ấy - đó là ý nguyện, là quyền tự quyết tối thượng của một con người. Cách duy nhất để khiến người khác chia sẻ ý nguyện với mình là thuyết phục họ; nếu thuyết phục thất bại, không còn phương cách khả dĩ nào khác nữa.</p><p></p><p><strong><em>Phẩm giá của con người</em></strong></p><p></p><p>Mọi vật, ngoại trừ con người, theo Kant, đều có giá trị trao đổi, lại giá trị xác định tính chất thương mại của chúng; ngay cả đồ vật mantg dấu ấn kỷ niệm và tình cảm cũng có thể được mua bán với một cái giá nào đó. Tuy nhiên, nhân phẩm của con người, “giá trị chân thực và vô hạn” (<em>infinite intrinsic value</em>) của mỗi cá nhân, là hoàn toàn vô giá. Với lý lẽ cho rằng “mỗi người đều có cái giá của họ”, Kant sẽ đáp lại rằng bất cứ ai tự bám mình sẽ bị tước mất quyền làm người chính đáng của họ, bởi lẽ nhân phẩm vượt trên mọi giá trị và mọi hạn định.</p><p></p><p><strong><em>Cá nhân - Mục đích tối hậu</em></strong></p><p></p><p><img src="https://files.chungta.com/Image.ashx/image=pjpeg/38abb4629190462294f538ca117557d8-Imman-Kant.jpg/Imman-Kant.jpg" alt="" class="fr-fic fr-dii fr-draggable " data-size="" style="" /></p><p></p><p>Theo quan điểm của Kant, bởi vì chỉ con người mới có ý nguyện độc lập (chỉ có họ thực thi các quy tắc luân lý và thể hiện các giá trị đạo đức), bởi vì bản thân họ chính là mục đích tối hậu. Điều này có ý nghĩa là con người phải được đối xử như mục đích, chứ không bao giờ chỉ là phương tiện trong cuộc đời.</p><p></p><p>Thực tế, mọi cá nhân đều có thể được dùng vào mục đích nào đó, vì thế họ có một giá trị tiện ích. Tuy nhiên, bởi lẽ họ cũng là những tạo vật có giá trị chân thực và vô hạn; vì thế nếu đến thời điểm họ không còn giá trị tiện ích nữa, họ vẫn phải được tôn trọng và giúp đỡ. Xét cho cùng, với nhân phẩm vượt trên mọi giá trị và hạn định, con người chính là mục đích tối thượng của cuộc đợi.</p><p></p><p><strong><em>Tính ký sinh của sai trái</em></strong></p><p></p><p>Kant chỉ ra rằng Cái Xấu hiện hữu như một thứ ký sinh; rằng nó như một dạng nấm mốc không có khả năng tự phát triển mà chỉ sống bám víu trên cánh đồng thiện tâm. Kẻ dối trá chí có thể dở trò lừa lọc khi hầu hết mọi ngươì, trong những tình huống thông thường, luôn đối xử trung thực. Nếu đa số đều trở thành những kẻ điêu ngoa, chẳng còn ai tin vào người khác nữa. Vì thế, ngay cả khi có được chiến thắng tạm thời, Cái Xấu cũng phải nương dựa vào Cái Tốt. Nếu Cái Thiện bị tiêu diệt, Cái ác cũng tự vong.</p><p></p><p>Thí dụ: Những thành viên trong một băng cướp cũng phải cần đến "chữ Tín" (một đức tính tốt) để có thể cộng tác với nhau trong các hoạt động phi pháp (hành vi sai trái). Tuy nhiên, máu hám lợi và đồng tiền bất chính sẽ che lấp lòng trung tính, dẫn đến sự phân hoá và cuối cùng là những cuộc xô xát nội bộ như một kết cục không thể tránh khỏi.</p><p></p><p><strong><em>Thế giới bản thiện</em></strong></p><p></p><p>Kant cho rằng thế giới vốn được hình thành trên cơ sở các quy luật đạo đức. Vì thế, nếu theo đuổi một cuộc sống trái đạo đức, cá nhân sẽ phát hiện ra rằng cuối cùng các quy luật ấy cuốn phăng mọi nỗ lực đi ngược lại với dòng chảy của cuộc đời. Một xã hội, tổ chức hay doanh nghiệp nào đó được vận hành trên nền tảng phi đạo đức chẳng bao giờ có được sự thành công lâu bền. Một thương gia chỉ quan tâm đến mục đích tạo ra lợi nhuận, bất chấp mọi phương tiện và thủ đoạn, sẽ nhận ra rằng lừa đảo và gian trá chỉ mang đến sự bất tính nhiệm và tai hoạ về mặt luật pháp. Giới doanh nhân và các nhà đầu từ thời hiện đại đánh giá tiếng tăm và uy tín như một thứ tài sản thiết yếu; họ luôn đón chào và mong đợi khách hàng tìm đến với sản phẩm của mình trên tinh thần thiện ý.</p><p></p><p><strong>9. Triết lý yếm thế của ARTHUR SHOPENHAUER</strong></p><p><strong></strong></p><p><strong></strong>Triết gia Đức Arthur Schopenhauer(6) (1788-1860) tin rằng Cái Xấu có ưu thế hơn, rằng thế giới, về cơ bản, gắn liền với Cái Xấu. Hạnh phúc chỉ lướt qua, điểm xuyến những khoảng khắc êm đẹp ngắn ngủi trong cuộc sống đầy đau khổ và bất hạnh. Như trong những truyện kể dân gian, sau biết bao thăng trầm tiếp nối, câu chuyện thường kết thúc khi anh hùng và mỹ nhân bước vào đời sống lứa đôi hạnh phúc. Nếu như câu chuyện tiếp tục, những nỗi bất hạnh tất yếu trong đời cuối cùng sẽ chứng minh cho quan điểm của Schopenhauer, rằng "cuộc sống là một thứ sai lầm", rằng "sinh ra ở đời đã là một cái tội".</p><p></p><p><strong><em>Chủ nghĩa bi quan</em></strong></p><p></p><p>Triết lý yếm thế (<em>Pessimism</em>) của Schopenhauer dựa trên nhận định cho rằng thế giới là một động lực mù quáng, phi lý và lạc lối, bởi vì không có Thượng đế nào dẫn đường cho nó. Thực tại là động lực mù quáng, là ý chí mạnh mẽ được thể hiện dưới các hình thức bản năng, động cơ và dục vọng vô độ, không bao giờ thoả mãn. Thoả mãn một khát khao chỉ khiến con người tìm đến những khát khao mới đòi hỏi phải được thoả mãn. Dục vọng thì khôn cùng mà cơ hội thoả mãn thì có hạn. Trong cuộc sống thực tế, hầu hết mọi người đều nếm trải thất vọng và, trong những giây phút thành công hiếm hoi, sự buồn chấn đến tận cùng.</p><p></p><p>Theo cách nói của Schopenhauer: <em>"Mọi ý nguyện đều xuất phát từ ý muốn, ý muốn nẩy sinh từ sự thiếu thốn và đó cũng là nguồn gốc đau khổ. Sự thoả mãn một ý nguyện chấm dứt ý nguyện ấy nhưng vẫn còn những ý nguyện khác cần được giải quyết. Hơn nữa, dục vọng vốn khôn cùng, nhu cầu lại vô hạn, trong khi sự thoả nguyện thì ngắn ngủi và hiếm hoi. Thậm chí, chính ước vọng thoả nguyện cuối cùng cũng chỉ là ảo tưởng. Mỗi ý nguyện được thoả mãn lập tức mở đường cho một ý nguyện mới - cả hai đều là ảo vọng... Không có sự thành tựu nỗi khao khát nào có thể mang đến sự thoả nguyện viên mãn. Tất cả chỉ là sự hài lòng nhất thời, cạn cợt và tạm bợ - giống như của bố thí cho kẻ hành khất vậy, nó có thể giúp hắn sống qua hôm nay và kéo dài cảnh cơ cực của hắn cho đến ngày mai..."(5)</em></p><p><em></em></p><p><em></em><strong><em>Con đường cứu rỗi</em></strong></p><p></p><p>Tuyệt dục, theo Schopenhauer, là cách duy nhất thoát ly khỏi sự thống khổ của thế giới này. Từ bỏ khát vọng sống, những không chối bỏ cuộc sống. Tiêu diệt ý chí, dục vọng và bản năng; tự hài lòng với tình trạng không tồn tại (<em>nothingness</em>), với cõi Vô Dục Niết Bàn (<em>Nirvana-absence of deisre</em>). Ai đó có thể nghĩ rằng trạng thái suy tư theo triết lý của Platon (độc lập với không gian và thời gian, thoát khỏi sự ràng buộc của ý chí và bản năng) cũng mang đến an lạc; tuy nhiên, xét đến cùng, đó chưa phải là con đường giải thoát rốt ráo.</p><p></p><p><strong><em>Đạo lý của lòng cảm thống</em></strong></p><p></p><p>Schopenhauer ghi nhận sự cần thiết của Từ Tâm. Xét rằng cuộc sống của mỗi người đều thống khổ, rằng mỗi cá nhân đều có nỗi bất hạnh riêng, chúng ta không nên lên án những kẻ phạm phải hành vi sai trái mà nên thương hại họ. Tất cả chúng ta đều "ở trên cùng một con thuyền không hề mong đợi", đều bất lực trước tính thế khốn khổ của mình. Vì thế, trách cứ và hành hạ lẫn nhau từ tâm và thiện chí giúp đỡ. <em>"Chỉ có từ tâm mới chính là nền tảng thực sự của mọi hình thức công lý tự nguyện (voluntary justice) và bác ái; Chỉ có hành động xuất phát từ nền tảng ấy mới có giá trị đạo đức, mọi hành vi luân lý xuất phát. Sự thật các động cơ khác đều không có giá trị. Khi tôi cảm thấy xót thương chó sự thống khô của người nào đó, nỗi đau của anh ta len thẳng vào lòng tôi, không hẳn là cùng một mức độ nhưng tôi cảm nhận đúng nỗi đau ấy nơi bản thân - nếu không, đó chỉ là một hình thức cảm nhận vị kỷ. Với lòng xót thương, sự khác biệt giữa bản thân tôi và anh ta không còn là hố ngăn cách không thể vượt qua được".(6)</em></p><p><em></em></p><p><em></em><strong>10. Triết lý tự nhiên của FRIENDRICH NIETZSCHE</strong></p><p></p><p><img src="https://files.chungta.com/Image.ashx/image=jpeg/a2b8ab8062134f6394446dc5bf72e25d-Friecherneizer.jpg/Friecherneizer.jpg" alt="" class="fr-fic fr-dii fr-draggable " data-size="" style="" /></p><p></p><p>Friendrich Nietzche(7)(1844-1900) tin rằng đạo đức phổ biến đương thời là thể nghịch đảo của đạo đức chân thực, rằng những gì thực sự là đạo đức phải phù hợp và không bao giờ mâu thuẫn với bản chất của con người.</p><p></p><p>Ông có quan điểm tương đồng với Schopenhauer về bản chất của con người bao gồm cả bản năng sống, rằng <em>"sống là thực hiện toàn mãn những bản năng của con người"</em>, không phải là áp chế chúng như các nền văn hóa phổ biến trong thời hiện đại thường đòi hỏi. Những Nietzche bất đồng sâu sắc với triết lý bi quan của Schopenhauer. Ông xác quyết rằng vẫn còn khả năng hoàn thiện nếu chúng ta dành trọng ý nghĩa cuộc sống cho các bản năng, thay vì đè nên chúng.</p><p></p><p><strong><em>Đạo đức nô lệ đối kháng đạo đức chủ nhân</em></strong></p><p></p><p>Nietzche chỉ ra rằng có hai hệ thống đạo đức tồn tại suốt dòng lịch sử nhân loại - đạo đức của giới nô lệ và đạo đức của giới chủ nhân - mỗi hệ thống có quy tắc luân lý riêng của nó.</p><p></p><p>Đạo đức nô lệ của kẻ yếu đòi hỏi họ chấp nhận phục tùng chủ nhân. Đạo đức của giới chủ bao gồm đạo lý của tầng lớp quý tộc (giới cầm quyền và qúy tộc), những người tạo thành "chủng tộc Aryan<span style="color: #3366ff">(8</span>) ưu thắng", cống hiến vào sự nghiệp chiến tranh, thám hiểm và chinh phục. Đối với họ, hoà bình chỉ đến sau khi chiến thắng được đối thủ của họ, buộc đối thủ phải thừa nhận quy luật <em>"kẻ mạnh có quyền thống trị kẻ yếu"</em></p><p></p><p>Nguyên tắc "sức mạnh làm nên lẽ phải", theo Nietzche, là quy luật của tự nhiên- tương phản với khuynh hướng đạo lý của nền văn minh Cơ Đốc và Do Thái, vốn cổ xuý cho Tính Khiêm Cung và Từ Tâm. Nền văn hóa theo truyền thống Cơ Đốc và Do Thái <em>(Judeo - Christian culture)</em>, Nietzche nhấn mạnh, chỉ thích hợp cho giới nô lệ. Người Do Thái vốn bị lệ thuộc trong gần trọn lịch sử của dân tộc họ; vì thế họ phát triển nên một hệ thống luân lý phù hợp với phần yếu đuối của nòi giống người. Đạo lý của họ là kiềm chế tình cảm, một sản phẩm của sự phẫn nộ bị cầm tù, một sự thù địch dồn nén luôn ngấm ngầm tìm kiếm những phương cách trả đũa kẻ thống trị và chủ nhân của họ. Theo Nietzche, nô lệ là những người không hề dám bộc lộ sự phản kháng, chỉ tìm kiếm những hình thức trả đũa lén lút.</p><p></p><p>Nietzche lên án giới chức sắc tôn giáo Cơ Đốc và Do Thái sử dụng tôn giáo như một phương tiện để làm đảo lộn và hạ thấp các giá trị đạo đức tự nhiên, biền nòi giống chủ nhân trở thành nô lệ và nòi giống nô lệ trở thành chủ nhân. Theo ông, những người nô lệ đã trở thành giáo sĩ đại diện cho Thượng đế toàn năng, đe doạ giới chủ nhân bằng sự Trừng phạt Thánh thần để buộc họ phải chấp nhận vai trò khiêm hạ, quỵ luỵ của những người phục vụ trung thành cho nòi giống nô lệ. Chính vì thế, Nietzche kêu gọi xem xét lại mọi giá trị, bác bỏ các giá trị đạo đức theo tinh thần Cơ Đốc và Do Thái. (Cần ghi nhận mối quan hệ gần gũi giữa triết lý này với thuyết phân biệt chủng tộc của Adolp Hitler, mặc dù ý tưởng về chế độ quý tộc của Nietzche được tìm thấy ở rất nhiều quốc gia, không chỉ ở nước Đức ).</p><p></p><p><strong><em>Siêu nhân</em></strong></p><p></p><p>Siêu nhân, theo quan niệm của Nietzche, là dạng "người khổng lồ" về mặt đạo đức (<em>moral giant)</em> được phú cho một thể chất siêu việt. Siêu nhân là thành viên của nòi giống tương lai. Chưa từng có ai đạt đến phẩm chất cao quý của nòi giống ấy, bởi những con người hoàn hảo nhất của nhân loại đều hoá ra nhỏ bé và tật nguyền khi đứng trước siêu nhân. Quan niệm của Nietzche đòi hỏi siêu nhân phải là một tạo vật có quyền năng và sự uy nghiêm của Caesar(9), kết hợp với đạo đức cao vời vợi của Chúa Jesus.</p><p></p><p>Nếu xem con người là động vật thượng đẳng so với loài khỉ, siêu nhân là giống thượng đẳng so với loài người. Là một tạo vật siêu việt về mặt đạo đức, siêu nhân chẳng bao giờ cần đến lòng vị tha, bởi lẽ "anh ta" sẽ lập tức tha thứ hoặc quên đi ngay hành động xúc phạm đến mình; thậm chí anh ta thực sự tha thứ trước khi bị xúc phạm. Về mặt tinh thần, anh ta giống như Chúa Jesus trên thập tự giá, cầu xin Thượng đế tha thứ cho kẻ thù của mình vậy. Nietzche khẳng định rằng Đấng Jesus là mẫu mực lý tưởng cho người Cơ Đốc, rằng bởi vì họ không noi theo tấm gương của Người,cho nên "chỉ có một tín đồ Cơ Đốc mà thôi và người ấy đã chết trên thánh giá".(7)</p><p></p><p><strong><em>Zarathustra đã nói như thế</em></strong></p><p></p><p>Mặc dù là người vô thần, Nietzche tỏ ra rất sâu sắc khi phê phán những kẻ phụng thờ Thượng đế trên danh nghĩa, huỷ báng Ngài trong cung cách hành xử. Ông đã mượn lời của Zarathustra, một nhà tiên tri xứ Ba Tư, khi nhân vật hư cấu này chế giễu một vị thánh già nua ẩn cư chốn sơn lâm, để nói lên một sự thật phũ phàng: "<em>Có thể như thế được chăng? Vị thánh già nua sống trong rừng thẳng ấy vẫn còn chưa biết răng Thượng đế đã chết rồi hay sao?"(8) </em>Nói cách khác, nếu xét đến hành trạng của các tính đồ Cơ Đốc và Do Thái, Thượng đế đã chết; nếu không, những kẻ thời phụng Ngài nào dám hành xử sai trái một cách tàn tệ đến thế!</p><p></p><p>Sự kiện Chúa chết đi vì tình yêu thương con người, Nietzche nhận định, chứng tỏ rằng tình yêu mang đến khổ đau và bất hạnh. Tình yêu khiến cho mỗi cá nhân dễ bị tổn thương trước những ảnh hưởng xấu xa và môi trường thù địch. Thực tế, bất hạnh xảy ra đến với người mình yêu có thể khiến chúng ta khổ não hơn so với khi tự mình gánh chịu nỗi bất hạnh ấy. Vì thế, mỗi cá nhân cần tự mình cân nhắc và nhận thức về những mối dây tình cảm ràng buộc trong đời; tuy nhiên, cũng phải luôn nhớ rằng Chúa đã chết vì tình yêu thương con người, cũng bởi vì thái độ bất trị của con người.</p><p></p><p><strong>11. Triết lý trung thành của JOSIAH ROYCE</strong></p><p></p><p><img src="https://files.chungta.com/Image.ashx/image=jpeg/831b4dfb8e804b50b23254b79d2cbfbc-John-Royce.jpg/John-Royce.jpg" alt="" class="fr-fic fr-dii fr-draggable " data-size="" style="" /></p><p></p><p>Josia Royce (1855-1916), triết gia Hoa Kỳ, định nghĩa đạo lý trung thành (<em>Philosophy of loyalty)</em> của mình là "<em>sự tận hiến, về mặt ý chí cũng như trong hành động thực tế, của cá nhân dành cho một sự nghiệp nào đó.</em>"<span style="color: #ff0000">(9)</span>Trung thành là lẽ phải tối thượng, bao hàm mọi đức hạnh trong đời. Đành rằng đôi khi lòng trung thành có thể dẫn đến xung đột nội tâm, những ngay cả trong tình huống ấy, quyết định cần thiết vẫn là "trung thành với đức trung thành".</p><p></p><p><strong><em>Trung thành - Lẽ phải tối thượng</em></strong></p><p></p><p>Đức trung thành là lẽ chí thiện tận mỹ trong đời (<em>the summum bonum</em>), bất kể nó được dành cho sự nghiệp hay lý tưởng gì. Sự nghiệp có thể đúng đắn hoặc xấu xa, đức trung thành chẳng bao giờ sai trái. Vì thế, huỷ hoại tinh thần cao đẹp của đức trung thành là điều hoàn toàn lỗi lầm, cho dù bản thân người có lòng trung thành đang phục vụ cho một lý tưởng sai lầm.</p><p></p><p>Nếu lòng trung thành được dành cho sự nghiệp không chính đáng, người ta cần tìm cáh hướng nó vào mục đích xứng đáng hơn. Nói cho cùng, tinh thần của đức trung thành là điều cao đẹp, chọn đúng lý tưởng để theo đuổi lại là vấn đề thuộc về trí tuệ và nhận thức.</p><p></p><p><strong><em>Trung thành với đức trung thành</em></strong></p><p></p><p>Khi lòng trung thành dẫn đến xung đột nội tâm, cá nhân nhất thiết phải <em>"trung thành với đức trung thành"</em>. Nói cách khác, anh ta không nên huỷ hoại tinh thần cao đẹp của đức trung thành, hãy tôn vinh giá trị của nó. Đối với người trung thành với một lý tưởng xấu xa, chúng ta không bao giờ nên phỉ báng hay đả phá tinh thần tận hiến của họ; tốt hơn nên tìm cách hướng dẫn, tạo điều kiện giúp họ nhận thức ra vấn đề và phát huy đức trung thành trong sự nghiệp tốt đẹp hơn. Mỗi cá nhân cần phải giữ gìn giá trị của lòng trung thành; hành vi nào gây tổn hại đến giá trị này đều được xem là phản bội lại đức trung thành cao cả.</p></blockquote><p></p>
[QUOTE="Butchi, post: 15464, member: 7"] [B]8. Thuyết học trực giác của IMMANUEL KANT[/B] Immanuel Kant(5)(1724-1804) xây dựng một học thuyết đạo đức dựa trên nền tảng "thiện chí", ý chí nguyện tôn trọng các nguyên tắc luận lý. Vì thế, học thuyết ấy còn được gọi bằng thuật ngữ "Đạo nghĩa học" [I](Deontological)[/I] - đạo lý về bổn phận. "[I]Bổn phận là nghĩa vụ hành động xuất phát từ sự tôn trọng các quy tắc (đạo đức)"[/I](4) Toàn bộ vấn đề đạo đức đều bao hàm trong lãnh vực "thiện ý có lý tính" ([I]rational good will[/I]). Trong tác phẩm "[I]Siêu hình tính của luân lý"[/I], Kant nhận định: "[I]Không có gì ở toàn bộ thế giới này, hay ngay cả bên ngoài thế giới này, có thể được xem là tốt đẹp hoàn toàn, ngoại trừ thiện ý"[/I]. Nơi nào không có ý nguyện tốt lành, không có sự tự quyết, tất không có sự tồn tại của môi trường đạo đức. [B][I]Đạo đức học theo thuyết trực giác[/I][/B] Thuyết trực giác ([I]Intuitionism[/I]) là luận thuyết cho rằng đạo lý hoàn toàn tồn tại bên trong ý thức cá nhân, rằng cá giá trị đạo đức nẩy sinh từ ý nguyện và mục đích của mỗi hành vi (không nên căn cứ theo hình thái biểu hiện bên ngoài, vốn là hệ quả của một hành vi). Kant cho rằng điều tốt đẹp tồn tại ngay trong ý nguyện, bất kể kết quả của các hành vi biểu lộ ra bên ngoài. Thực tế, mọi hành động đều trung tính về mặt đạo đức ([I]morally neutral[/I]). Ý nguyện, bản ngã đạo đức của con người, thể hiện sự lựa chọn của học trước những yêu cầu thuộc về các quy tắc luân lý. Lẽ phải có bản chất là đúng và phải được phát triển thành ý nguyện, không cần xét đến hệ quả - "Hãy để cho lẽ phải được thực hiện, cho dù thiên đường có sụp đổ”. Khi các quy tắc đạo đức yêu cầu chúng ta phải có ý nguyện thực hiện những đòi hỏi ấy, bất kể mọi hệ quả về sau. [B][I]Mệnh lệnh vô điều kiện [/I][/B] Tiêu chuẩn đạo đức của Kant (công cụ kiểm chứng tính đạo đức của một hành vi) là "Mệnh lệnh vô điều kiện" ([I]Cantegorical Imperative)[/I]. "[I]Hãy hành động như thể nguyên tắc hành động của bạn, thông qua ý nguyện, chính là quy luật tự nhiên của toàn thể vũ trụ"[/I]. Để xác định một hành vi "ý nguyện" là đạo đức, người ta phải dựa theo tiêu chuẩn này. Vì thế, khi dự định bỏ qua một lời hứa, người ta cần phải tự vấn chính mình rằng : “Liệu tôi có thực sự ước muốn rằng mọi người đều thất hứa mỗi khi được lựa chọn?” Nếu câu trả lời có tính phủ định, hành vi dự kiến là trái đạo đức." Mệnh lệnh vô điều kiện là một yêu cầu đạo đức tối thượng, luôn đúng trong mọi trường hợp, mọi tình huống, mọi nơi mọi lúc. Mệnh lệnh ([I]The Imperative[/I]) xuất phát từ lương tâm, là yêu cầu vô điều kiện ([I]Categorical)[/I], không có bất kỳ giới hạn hay khuôn khổ nào cả. Nếu thất hứa là hành động đúng trong một trường hợp nào đó, đúng với một cá nhân nào đó, nó phải đúng trong mọi trường hợp, đúng với tất cả mọi người. Điều gì sai trái đối với một người tất phải sai trái đối với tất cả mọi người. Qua đó, chúng ta tìm thấy nơi mệnh lệnh vô điều kiện một quan niệm triết lý thuộc về quy tắc vàng ([I]the Golden Rule) [/I]trong nghệ thuật ứng xử: [I]"Hãy dành cho người khác những gì bạn mong muốn họ dành cho bạn[/I]." Kant lý giải và chứng minh quan điểm của mình như sau: “[I].... Liệu rằng tôi có thể, thí dụ, dưới áp lực của tình thế, đưa ra một lời hứa mà không hề có ý định thực hiện? Không nhằm để xác định tính không ngoan của hành vi hứa hão, câu hỏi ấy được đưa ra nhằm tìm hiểu đúng đắn về mặt đạo đức củ hành vi ấy. Để có thể trả lời câu hỏi ấy một cách ngắn gọn và rốt ráo, cách tốt nhất là tự vấn bản thận: “Liệu rằng có thể thoả mãn hay không, khi hành vi hứa hão với mục đích thoát ra khỏi tình thế bối rối trở thành quy luật ứng xử chung của toàn bộ của toàn bộ cộng đồng, áp dụng cho tất cả mọi người kể cả chính mình?”[/I] [I]“Ngay lập tức, tôi nhận ra rằng trong khi tôi muốn có quyền được nói dối, tôi cũng không muốn dối trá trở thành một quy luật ứng xử chung. Nếu dối trá trở thành quy luật phổ biến, nói cho cùng, trên đời sẽ không tồn tại cái được gọi là “lời hứa” nữa. Tôi có thể phỉnh phờ về cái điều tôi dự định làm trong tương lai, nhưng không ai tin tưởng ở tôi cả. Hoặc giả, nếu như có một người nào đó tin ở tôi; ngay tại thời điểm ấy, anh ta cũng có thể đang phỉnh phờ lại tôi. Chính vì thế, cung cách ứng xử sai trái ấy được xem là tự vọng, ngay khi nó được chấp nhận như một quy luật phổ biến.”[/I] [B][I]Sự độc lập của ý nguyện[/I][/B] Theo Kant, luân lý chỉ khả thi với sự tồn tại của “thiện chí có lý tính” của con người, một sự tự do lựa chọn không khuất phục bởi điều gì ngoài chính nó. Ý nguyện độc lập chỉ tuân theo mệnh lệnh của chính nó. Không ai có thể ước muốn cái điều anh ta không chọn lựa. Mặc dù người ta có thể ép buộc trẻ con thực hiện một hành vi nào đó, họ không thể nào cưỡng bách đứa trẻ “ước muốn” thực hiện hành vi ấy - đó là ý nguyện, là quyền tự quyết tối thượng của một con người. Cách duy nhất để khiến người khác chia sẻ ý nguyện với mình là thuyết phục họ; nếu thuyết phục thất bại, không còn phương cách khả dĩ nào khác nữa. [B][I]Phẩm giá của con người[/I][/B] Mọi vật, ngoại trừ con người, theo Kant, đều có giá trị trao đổi, lại giá trị xác định tính chất thương mại của chúng; ngay cả đồ vật mantg dấu ấn kỷ niệm và tình cảm cũng có thể được mua bán với một cái giá nào đó. Tuy nhiên, nhân phẩm của con người, “giá trị chân thực và vô hạn” ([I]infinite intrinsic value[/I]) của mỗi cá nhân, là hoàn toàn vô giá. Với lý lẽ cho rằng “mỗi người đều có cái giá của họ”, Kant sẽ đáp lại rằng bất cứ ai tự bám mình sẽ bị tước mất quyền làm người chính đáng của họ, bởi lẽ nhân phẩm vượt trên mọi giá trị và mọi hạn định. [B][I]Cá nhân - Mục đích tối hậu[/I][/B] [IMG]https://files.chungta.com/Image.ashx/image=pjpeg/38abb4629190462294f538ca117557d8-Imman-Kant.jpg/Imman-Kant.jpg[/IMG] Theo quan điểm của Kant, bởi vì chỉ con người mới có ý nguyện độc lập (chỉ có họ thực thi các quy tắc luân lý và thể hiện các giá trị đạo đức), bởi vì bản thân họ chính là mục đích tối hậu. Điều này có ý nghĩa là con người phải được đối xử như mục đích, chứ không bao giờ chỉ là phương tiện trong cuộc đời. Thực tế, mọi cá nhân đều có thể được dùng vào mục đích nào đó, vì thế họ có một giá trị tiện ích. Tuy nhiên, bởi lẽ họ cũng là những tạo vật có giá trị chân thực và vô hạn; vì thế nếu đến thời điểm họ không còn giá trị tiện ích nữa, họ vẫn phải được tôn trọng và giúp đỡ. Xét cho cùng, với nhân phẩm vượt trên mọi giá trị và hạn định, con người chính là mục đích tối thượng của cuộc đợi. [B][I]Tính ký sinh của sai trái[/I][/B] Kant chỉ ra rằng Cái Xấu hiện hữu như một thứ ký sinh; rằng nó như một dạng nấm mốc không có khả năng tự phát triển mà chỉ sống bám víu trên cánh đồng thiện tâm. Kẻ dối trá chí có thể dở trò lừa lọc khi hầu hết mọi ngươì, trong những tình huống thông thường, luôn đối xử trung thực. Nếu đa số đều trở thành những kẻ điêu ngoa, chẳng còn ai tin vào người khác nữa. Vì thế, ngay cả khi có được chiến thắng tạm thời, Cái Xấu cũng phải nương dựa vào Cái Tốt. Nếu Cái Thiện bị tiêu diệt, Cái ác cũng tự vong. Thí dụ: Những thành viên trong một băng cướp cũng phải cần đến "chữ Tín" (một đức tính tốt) để có thể cộng tác với nhau trong các hoạt động phi pháp (hành vi sai trái). Tuy nhiên, máu hám lợi và đồng tiền bất chính sẽ che lấp lòng trung tính, dẫn đến sự phân hoá và cuối cùng là những cuộc xô xát nội bộ như một kết cục không thể tránh khỏi. [B][I]Thế giới bản thiện[/I][/B] Kant cho rằng thế giới vốn được hình thành trên cơ sở các quy luật đạo đức. Vì thế, nếu theo đuổi một cuộc sống trái đạo đức, cá nhân sẽ phát hiện ra rằng cuối cùng các quy luật ấy cuốn phăng mọi nỗ lực đi ngược lại với dòng chảy của cuộc đời. Một xã hội, tổ chức hay doanh nghiệp nào đó được vận hành trên nền tảng phi đạo đức chẳng bao giờ có được sự thành công lâu bền. Một thương gia chỉ quan tâm đến mục đích tạo ra lợi nhuận, bất chấp mọi phương tiện và thủ đoạn, sẽ nhận ra rằng lừa đảo và gian trá chỉ mang đến sự bất tính nhiệm và tai hoạ về mặt luật pháp. Giới doanh nhân và các nhà đầu từ thời hiện đại đánh giá tiếng tăm và uy tín như một thứ tài sản thiết yếu; họ luôn đón chào và mong đợi khách hàng tìm đến với sản phẩm của mình trên tinh thần thiện ý. [B]9. Triết lý yếm thế của ARTHUR SHOPENHAUER [/B]Triết gia Đức Arthur Schopenhauer(6) (1788-1860) tin rằng Cái Xấu có ưu thế hơn, rằng thế giới, về cơ bản, gắn liền với Cái Xấu. Hạnh phúc chỉ lướt qua, điểm xuyến những khoảng khắc êm đẹp ngắn ngủi trong cuộc sống đầy đau khổ và bất hạnh. Như trong những truyện kể dân gian, sau biết bao thăng trầm tiếp nối, câu chuyện thường kết thúc khi anh hùng và mỹ nhân bước vào đời sống lứa đôi hạnh phúc. Nếu như câu chuyện tiếp tục, những nỗi bất hạnh tất yếu trong đời cuối cùng sẽ chứng minh cho quan điểm của Schopenhauer, rằng "cuộc sống là một thứ sai lầm", rằng "sinh ra ở đời đã là một cái tội". [B][I]Chủ nghĩa bi quan[/I][/B] Triết lý yếm thế ([I]Pessimism[/I]) của Schopenhauer dựa trên nhận định cho rằng thế giới là một động lực mù quáng, phi lý và lạc lối, bởi vì không có Thượng đế nào dẫn đường cho nó. Thực tại là động lực mù quáng, là ý chí mạnh mẽ được thể hiện dưới các hình thức bản năng, động cơ và dục vọng vô độ, không bao giờ thoả mãn. Thoả mãn một khát khao chỉ khiến con người tìm đến những khát khao mới đòi hỏi phải được thoả mãn. Dục vọng thì khôn cùng mà cơ hội thoả mãn thì có hạn. Trong cuộc sống thực tế, hầu hết mọi người đều nếm trải thất vọng và, trong những giây phút thành công hiếm hoi, sự buồn chấn đến tận cùng. Theo cách nói của Schopenhauer: [I]"Mọi ý nguyện đều xuất phát từ ý muốn, ý muốn nẩy sinh từ sự thiếu thốn và đó cũng là nguồn gốc đau khổ. Sự thoả mãn một ý nguyện chấm dứt ý nguyện ấy nhưng vẫn còn những ý nguyện khác cần được giải quyết. Hơn nữa, dục vọng vốn khôn cùng, nhu cầu lại vô hạn, trong khi sự thoả nguyện thì ngắn ngủi và hiếm hoi. Thậm chí, chính ước vọng thoả nguyện cuối cùng cũng chỉ là ảo tưởng. Mỗi ý nguyện được thoả mãn lập tức mở đường cho một ý nguyện mới - cả hai đều là ảo vọng... Không có sự thành tựu nỗi khao khát nào có thể mang đến sự thoả nguyện viên mãn. Tất cả chỉ là sự hài lòng nhất thời, cạn cợt và tạm bợ - giống như của bố thí cho kẻ hành khất vậy, nó có thể giúp hắn sống qua hôm nay và kéo dài cảnh cơ cực của hắn cho đến ngày mai..."(5) [/I][B][I]Con đường cứu rỗi[/I][/B] Tuyệt dục, theo Schopenhauer, là cách duy nhất thoát ly khỏi sự thống khổ của thế giới này. Từ bỏ khát vọng sống, những không chối bỏ cuộc sống. Tiêu diệt ý chí, dục vọng và bản năng; tự hài lòng với tình trạng không tồn tại ([I]nothingness[/I]), với cõi Vô Dục Niết Bàn ([I]Nirvana-absence of deisre[/I]). Ai đó có thể nghĩ rằng trạng thái suy tư theo triết lý của Platon (độc lập với không gian và thời gian, thoát khỏi sự ràng buộc của ý chí và bản năng) cũng mang đến an lạc; tuy nhiên, xét đến cùng, đó chưa phải là con đường giải thoát rốt ráo. [B][I]Đạo lý của lòng cảm thống[/I][/B] Schopenhauer ghi nhận sự cần thiết của Từ Tâm. Xét rằng cuộc sống của mỗi người đều thống khổ, rằng mỗi cá nhân đều có nỗi bất hạnh riêng, chúng ta không nên lên án những kẻ phạm phải hành vi sai trái mà nên thương hại họ. Tất cả chúng ta đều "ở trên cùng một con thuyền không hề mong đợi", đều bất lực trước tính thế khốn khổ của mình. Vì thế, trách cứ và hành hạ lẫn nhau từ tâm và thiện chí giúp đỡ. [I]"Chỉ có từ tâm mới chính là nền tảng thực sự của mọi hình thức công lý tự nguyện (voluntary justice) và bác ái; Chỉ có hành động xuất phát từ nền tảng ấy mới có giá trị đạo đức, mọi hành vi luân lý xuất phát. Sự thật các động cơ khác đều không có giá trị. Khi tôi cảm thấy xót thương chó sự thống khô của người nào đó, nỗi đau của anh ta len thẳng vào lòng tôi, không hẳn là cùng một mức độ nhưng tôi cảm nhận đúng nỗi đau ấy nơi bản thân - nếu không, đó chỉ là một hình thức cảm nhận vị kỷ. Với lòng xót thương, sự khác biệt giữa bản thân tôi và anh ta không còn là hố ngăn cách không thể vượt qua được".(6) [/I][B]10. Triết lý tự nhiên của FRIENDRICH NIETZSCHE[/B] [IMG]https://files.chungta.com/Image.ashx/image=jpeg/a2b8ab8062134f6394446dc5bf72e25d-Friecherneizer.jpg/Friecherneizer.jpg[/IMG] Friendrich Nietzche(7)(1844-1900) tin rằng đạo đức phổ biến đương thời là thể nghịch đảo của đạo đức chân thực, rằng những gì thực sự là đạo đức phải phù hợp và không bao giờ mâu thuẫn với bản chất của con người. Ông có quan điểm tương đồng với Schopenhauer về bản chất của con người bao gồm cả bản năng sống, rằng [I]"sống là thực hiện toàn mãn những bản năng của con người"[/I], không phải là áp chế chúng như các nền văn hóa phổ biến trong thời hiện đại thường đòi hỏi. Những Nietzche bất đồng sâu sắc với triết lý bi quan của Schopenhauer. Ông xác quyết rằng vẫn còn khả năng hoàn thiện nếu chúng ta dành trọng ý nghĩa cuộc sống cho các bản năng, thay vì đè nên chúng. [B][I]Đạo đức nô lệ đối kháng đạo đức chủ nhân[/I][/B] Nietzche chỉ ra rằng có hai hệ thống đạo đức tồn tại suốt dòng lịch sử nhân loại - đạo đức của giới nô lệ và đạo đức của giới chủ nhân - mỗi hệ thống có quy tắc luân lý riêng của nó. Đạo đức nô lệ của kẻ yếu đòi hỏi họ chấp nhận phục tùng chủ nhân. Đạo đức của giới chủ bao gồm đạo lý của tầng lớp quý tộc (giới cầm quyền và qúy tộc), những người tạo thành "chủng tộc Aryan[COLOR=#3366ff](8[/COLOR]) ưu thắng", cống hiến vào sự nghiệp chiến tranh, thám hiểm và chinh phục. Đối với họ, hoà bình chỉ đến sau khi chiến thắng được đối thủ của họ, buộc đối thủ phải thừa nhận quy luật [I]"kẻ mạnh có quyền thống trị kẻ yếu"[/I] Nguyên tắc "sức mạnh làm nên lẽ phải", theo Nietzche, là quy luật của tự nhiên- tương phản với khuynh hướng đạo lý của nền văn minh Cơ Đốc và Do Thái, vốn cổ xuý cho Tính Khiêm Cung và Từ Tâm. Nền văn hóa theo truyền thống Cơ Đốc và Do Thái [I](Judeo - Christian culture)[/I], Nietzche nhấn mạnh, chỉ thích hợp cho giới nô lệ. Người Do Thái vốn bị lệ thuộc trong gần trọn lịch sử của dân tộc họ; vì thế họ phát triển nên một hệ thống luân lý phù hợp với phần yếu đuối của nòi giống người. Đạo lý của họ là kiềm chế tình cảm, một sản phẩm của sự phẫn nộ bị cầm tù, một sự thù địch dồn nén luôn ngấm ngầm tìm kiếm những phương cách trả đũa kẻ thống trị và chủ nhân của họ. Theo Nietzche, nô lệ là những người không hề dám bộc lộ sự phản kháng, chỉ tìm kiếm những hình thức trả đũa lén lút. Nietzche lên án giới chức sắc tôn giáo Cơ Đốc và Do Thái sử dụng tôn giáo như một phương tiện để làm đảo lộn và hạ thấp các giá trị đạo đức tự nhiên, biền nòi giống chủ nhân trở thành nô lệ và nòi giống nô lệ trở thành chủ nhân. Theo ông, những người nô lệ đã trở thành giáo sĩ đại diện cho Thượng đế toàn năng, đe doạ giới chủ nhân bằng sự Trừng phạt Thánh thần để buộc họ phải chấp nhận vai trò khiêm hạ, quỵ luỵ của những người phục vụ trung thành cho nòi giống nô lệ. Chính vì thế, Nietzche kêu gọi xem xét lại mọi giá trị, bác bỏ các giá trị đạo đức theo tinh thần Cơ Đốc và Do Thái. (Cần ghi nhận mối quan hệ gần gũi giữa triết lý này với thuyết phân biệt chủng tộc của Adolp Hitler, mặc dù ý tưởng về chế độ quý tộc của Nietzche được tìm thấy ở rất nhiều quốc gia, không chỉ ở nước Đức ). [B][I]Siêu nhân[/I][/B] Siêu nhân, theo quan niệm của Nietzche, là dạng "người khổng lồ" về mặt đạo đức ([I]moral giant)[/I] được phú cho một thể chất siêu việt. Siêu nhân là thành viên của nòi giống tương lai. Chưa từng có ai đạt đến phẩm chất cao quý của nòi giống ấy, bởi những con người hoàn hảo nhất của nhân loại đều hoá ra nhỏ bé và tật nguyền khi đứng trước siêu nhân. Quan niệm của Nietzche đòi hỏi siêu nhân phải là một tạo vật có quyền năng và sự uy nghiêm của Caesar(9), kết hợp với đạo đức cao vời vợi của Chúa Jesus. Nếu xem con người là động vật thượng đẳng so với loài khỉ, siêu nhân là giống thượng đẳng so với loài người. Là một tạo vật siêu việt về mặt đạo đức, siêu nhân chẳng bao giờ cần đến lòng vị tha, bởi lẽ "anh ta" sẽ lập tức tha thứ hoặc quên đi ngay hành động xúc phạm đến mình; thậm chí anh ta thực sự tha thứ trước khi bị xúc phạm. Về mặt tinh thần, anh ta giống như Chúa Jesus trên thập tự giá, cầu xin Thượng đế tha thứ cho kẻ thù của mình vậy. Nietzche khẳng định rằng Đấng Jesus là mẫu mực lý tưởng cho người Cơ Đốc, rằng bởi vì họ không noi theo tấm gương của Người,cho nên "chỉ có một tín đồ Cơ Đốc mà thôi và người ấy đã chết trên thánh giá".(7) [B][I]Zarathustra đã nói như thế[/I][/B] Mặc dù là người vô thần, Nietzche tỏ ra rất sâu sắc khi phê phán những kẻ phụng thờ Thượng đế trên danh nghĩa, huỷ báng Ngài trong cung cách hành xử. Ông đã mượn lời của Zarathustra, một nhà tiên tri xứ Ba Tư, khi nhân vật hư cấu này chế giễu một vị thánh già nua ẩn cư chốn sơn lâm, để nói lên một sự thật phũ phàng: "[I]Có thể như thế được chăng? Vị thánh già nua sống trong rừng thẳng ấy vẫn còn chưa biết răng Thượng đế đã chết rồi hay sao?"(8) [/I]Nói cách khác, nếu xét đến hành trạng của các tính đồ Cơ Đốc và Do Thái, Thượng đế đã chết; nếu không, những kẻ thời phụng Ngài nào dám hành xử sai trái một cách tàn tệ đến thế! Sự kiện Chúa chết đi vì tình yêu thương con người, Nietzche nhận định, chứng tỏ rằng tình yêu mang đến khổ đau và bất hạnh. Tình yêu khiến cho mỗi cá nhân dễ bị tổn thương trước những ảnh hưởng xấu xa và môi trường thù địch. Thực tế, bất hạnh xảy ra đến với người mình yêu có thể khiến chúng ta khổ não hơn so với khi tự mình gánh chịu nỗi bất hạnh ấy. Vì thế, mỗi cá nhân cần tự mình cân nhắc và nhận thức về những mối dây tình cảm ràng buộc trong đời; tuy nhiên, cũng phải luôn nhớ rằng Chúa đã chết vì tình yêu thương con người, cũng bởi vì thái độ bất trị của con người. [B]11. Triết lý trung thành của JOSIAH ROYCE[/B] [IMG]https://files.chungta.com/Image.ashx/image=jpeg/831b4dfb8e804b50b23254b79d2cbfbc-John-Royce.jpg/John-Royce.jpg[/IMG] Josia Royce (1855-1916), triết gia Hoa Kỳ, định nghĩa đạo lý trung thành ([I]Philosophy of loyalty)[/I] của mình là "[I]sự tận hiến, về mặt ý chí cũng như trong hành động thực tế, của cá nhân dành cho một sự nghiệp nào đó.[/I]"[COLOR=#ff0000](9)[/COLOR]Trung thành là lẽ phải tối thượng, bao hàm mọi đức hạnh trong đời. Đành rằng đôi khi lòng trung thành có thể dẫn đến xung đột nội tâm, những ngay cả trong tình huống ấy, quyết định cần thiết vẫn là "trung thành với đức trung thành". [B][I]Trung thành - Lẽ phải tối thượng[/I][/B] Đức trung thành là lẽ chí thiện tận mỹ trong đời ([I]the summum bonum[/I]), bất kể nó được dành cho sự nghiệp hay lý tưởng gì. Sự nghiệp có thể đúng đắn hoặc xấu xa, đức trung thành chẳng bao giờ sai trái. Vì thế, huỷ hoại tinh thần cao đẹp của đức trung thành là điều hoàn toàn lỗi lầm, cho dù bản thân người có lòng trung thành đang phục vụ cho một lý tưởng sai lầm. Nếu lòng trung thành được dành cho sự nghiệp không chính đáng, người ta cần tìm cáh hướng nó vào mục đích xứng đáng hơn. Nói cho cùng, tinh thần của đức trung thành là điều cao đẹp, chọn đúng lý tưởng để theo đuổi lại là vấn đề thuộc về trí tuệ và nhận thức. [B][I]Trung thành với đức trung thành[/I][/B] Khi lòng trung thành dẫn đến xung đột nội tâm, cá nhân nhất thiết phải [I]"trung thành với đức trung thành"[/I]. Nói cách khác, anh ta không nên huỷ hoại tinh thần cao đẹp của đức trung thành, hãy tôn vinh giá trị của nó. Đối với người trung thành với một lý tưởng xấu xa, chúng ta không bao giờ nên phỉ báng hay đả phá tinh thần tận hiến của họ; tốt hơn nên tìm cách hướng dẫn, tạo điều kiện giúp họ nhận thức ra vấn đề và phát huy đức trung thành trong sự nghiệp tốt đẹp hơn. Mỗi cá nhân cần phải giữ gìn giá trị của lòng trung thành; hành vi nào gây tổn hại đến giá trị này đều được xem là phản bội lại đức trung thành cao cả. [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
VĂN HÓA - ĐỜI SỐNG
SỐNG ĐẸP
Đạo đức học & triết lý nhân sinh
Top