Danh thắng Hưng Yên

small star

Moderator
Xu
94
Chùa Chuông (Hưng Yên)

Hưng Yên tỉnh nhất thống chí" của Trịnh Như Tấu có ghi: "Chùa Chuông - Phố Hiến đẹp nhất danh lam" có nghĩa: chỉ Chùa Chuông ở Phố Hiến là đẹp nhất. Chùa đẹp không phải bởi cảnh quan và tên gọi mà còn đẹp hơn bởi Chùa Chuông nằm trong quần thể di tích đô thị cổ Phố Hiến một thời nổi danh "thứ nhất Kinh Kỳ, thứ nhì Phố Hiến".

Vanhoa1.8a.jpg


Cổng Tam quan - Chùa Chuông. Ảnh: Đức Hùng

Chùa Chuông có tên chữ là "Kim Chung tự" (Chùa Chuông Vàng). Truyền rằng: Vào một năm đại hồng thuỷ, có một dòng nước hung dữ cuốn theo một chiếc bè gỗ, trên bè ngự một quả chuông vàng rất đẹp, chiếc bè đã trôi qua nhiều nơi nhưng không dừng lại. Một ngày kia, chiếc bè được dòng nước đưa đến địa phận thôn Nhân Dục, thuộc tổng An Tảo, huyện Kim Động, phủ Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên xưa (nay thuộc phường Hiến Nam, thị xã Hưng Yên). Tăng ni, phật tử tại một ngôi chùa nhỏ trong thôn cùng các hương lão rất mừng, họ cho rằng trời phật ban cho quả chuông quý, liền bàn nhau góp công, góp của xây dựng lại chùa lớn hơn rồi làm lễ rước chuông vào chùa. Ai cũng vui mừng, háo hức nghe sư cụ trụ trì thỉnh hồi chuông đầu tiên. Khi hồi chuông vang lên, âm thanh trong sáng bay xa hàng ngàn, vạn dặm, vang động cả một vùng. Người ta còn kể: Tiếng chuông vang xa tận phương Bắc và điều kỳ lạ là khi tiếng chuông ngân lên, những báu vật của người Nam lưu lạc ở Bắc Quốc (Trung Quốc) liền trỗi dậy đòi về.
Vanhoa1.8b.jpg
Cầu đá - "Nhất chính đạo" theo quan niệm nhà Phật
Ảnh: Thu Hường

Bọn vua quan Bắc triều rất lo lắng, vì ngày nào tiếng chuông còn được thỉnh thì những báu vật mà chúng cướp được sẽ về hết với chủ cũ, nên bọn chúng đã sang đất Việt, đóng giả làm những cao tăng, tìm đến chùa hòng lấy cắp chuông vàng. Biết được dã tâm của chúng, các tăng ni giấu chuông vàng xuống một giếng nhỏ. Dần dần, những người mang chuông đi giấu đều viên tịch, hậu thế muốn tìm lại chuông nhưng không thấy. Để ghi nhớ ngôi chùa đã từng có một quả chuông quý, các tăng ni phật tử và nhân dân trong vùng đặt tên chùa là Kim Chung Tự.
Chùa chuông được xây dựng từ thời Lê (thế kỷ XV), qua nhiều lần trùng tu, tôn tạo, chùa vẫn giữ được nét kiến trúc nghệ thuật thời Hậu Lê (thế kỷ XVII). Năm 1992, Chùa Chuông đã được Bộ VHTT xếp hạng là di tích kiến trúc nghệ thuật.
Chùa Chuông có kết cấu kiểu "Nội công ngoại quốc", bao gồm các hạng mục: Tiền đường, Thượng điện, Nhà tổ, Nhà mẫu và 2 dãy hành lang. Mặt tiền chùa quay hướng Nam, đó là hướng của "Bát Nhã" và "Trí Tuệ". Chùa được bố trí cân xứng trên một trục trải dài từ cổng Tam quan đến Nhà tổ. Qua cổng Tam quan là tới ba nhịp cầu đá xanh, bắc ngang qua ao (mắt rồng), cây cầu được xây dựng năm 1702. Tiếp đến là con đường độc đạo được lát đá xanh dẫn thẳng đến nhà tiền đường, theo quan niệm nhà Phật, đường này gọi là "Nhất chính đạo", con đường chân chính duy nhất dẫn dắt con người thoát khỏi bể khổ.

Vanhoa1.8d.jpg


Tòa Tam Bảo - Chùa Chuông
Ảnh: Đức Hùng

Nhà Tiền đường có quy mô 5 gian 2 dĩ, kết cấu kiến trúc kiểu con chồng đấu sen, nối giữa tiền đường và thượng điện là khoảng sân, giữa sân có cây hương đá còn gọi là "Thạch trụ", bốn mặt khắc chữ Hán ghi công đức của nhân dân đóng góp tu sửa chùa.
Thượng điện cũng gồm 5 gian 2 dĩ, kết cấu giống nhà Tiền đường, mang đậm nét kiến trúc thời Hậu Lê. Hệ thống tượng ở thượng điện được bài trí theo thứ tự: Trên cùng là 3 pho Tam Thế; tiếp đến là A Di Đà và tứ Bồ Tát; lớp dưới là Văn Thù và Phổ Hiền; tiếp theo là Ngọc Hoàng và Nam Tào, Bắc Đẩu; tiếp nữa là Địa Tạng Vương và Phạm Thiên, Đế Thích; sau cùng là tòa Cửu Long và tượng Thích Ca sơ sinh.
Ở hai đầu phía Đông và phía Tây nối Nhà Tiền đường và Nhà Mẫu là hai dãy hành lang, kiến trúc kiểu kèo cầu quá giang đơn giản. Hai dãy hành lang được bài trí đối xứng các lớp tượng khác nhau. Đầu tiên là động "Thập điện Diêm Vương", diễn tả cảnh nhục hình mà con người phải trải qua nơi âm giới. Đây là triết lý nhân quả của nhà Phật, người ta tin rằng con người sống trên dương thế, khi từ giã cõi đời phải trải qua 10 cửa điện để Diêm Vương xét hỏi công và tội. Ứng với mỗi tội đồ là một hình phạt tương ứng.

Vanhoa1.8c.jpg


Tượng thập bát La Hán, một nét nổi bật của Chùa Chuông. Ảnh: Đức Hùng

Mục đích dựng Thập điện Diêm Vương là khuyên răn con người sống trên đời cần tu nhân tích đức, làm điều thiện, tránh điều ác. Tiếp đến là tượng Bát Bộ Kim Cương, sau đó là 18 pho "Thập Bát La Hán", 18 vị được tạo tác trong tư thế ngồi rất sinh động, rất đời thường. Nét độc đáo của tượng "Thập Bát La Hán" không phải chỉ ở sự khéo léo trong cách tạo tác mà còn ở cảm xúc nội tâm được biểu hiện qua từng khuôn mặt buồn, vui, trầm tư... mỗi người một vẻ. Cuối dãy hành lang là tượng Đức Ông đứng cạnh có Già Lan - Chân Tể và tượng Đức Thánh Hiền, đứng cạnh có Diệm Nhiên - Đại Sỹ.
Một trong những hiện vật có giá trị nhất còn lưu giữ lại chùa là tấm bia đá dựng năm Vĩnh Thịnh thứ 7 (1711), bia ghi tên những người công đức tu sửa chùa. Phần đặc biệt của bia ghi lại cảnh đẹp của Phố Hiến và một số phường, như: Phường Hàng Bè, Hàng Sũ, Thợ Nhuộm, Cự Đệ, Hàng Thịt... mà ngày nay khó có thể tìm thấy trên bia đá.
Hằng năm, vào dịp đại lễ Phật Đản, dịp xuân về, Chùa Chuông lại tổ chức lễ hội, thu hút đông đảo nhân dân trong vùng và khách thập phương. Cùng với sự phát triển, mở rộng của Thị xã Hưng Yên, Chùa Chuông sẽ được đầu tư, quy hoạch trở thành điểm du lịch văn hóa hấp dẫn du khách về với Hưng Yên

Theo:baohungyen.vn
 
Đền Mẫu

Nằm ven hồ Bán Nguyệt phong cảnh hữu tình, mặt nước trong xanh phẳng lặng, bốn bề cây xanh râm mát, di tích Đền Mẫu - phường Quang Trung - Thị xã Hưng Yên - tỉnh Hưng Yên trở nên hài hoà sinh động mà lại trang nghiêm.

Denmau1.jpg



Đền Mẫu bên bờ Hồ Bán Nguyệt - Thị xã Hưng Yên
Ảnh: Đức Hùng
Đền Mẫu thờ bà Quý Phi họ Dương, người đã tuẫn tiết để giữ lòng chung thuỷ với vua và trung thành với Tổ Quốc. Theo “Đại Nam nhất thống chí” và “Thần tích” thì bà là vợ vua Tống Đế Bính (Trung Quốc). Năm 1279, quân Nguyên Mông xâm lược nước Tống, trước sức mạnh của giặc, vua Tống cùng hoàng tộc xuống thuyền chạy về phương Nam tránh nạn. Tướng nhà Nguyên Mông là Trương Hoằng Phạm cho quân đuổi theo đến Nhai Sơn thì bắt được, vua Tống và một số phi tần không chịu khuất phục đã nhảy xuống biển tự tận. Dân chài cửa Càn Hải vùng Châu Hoan (Nghệ An) thấy bốn xác người phụ nữ, y phục như hậu phi, cung phi trôi trên mặt biển. Họ vớt được 3 xác đem chôn cất, còn xác thứ 4 trôi ngược dòng lên phía Bắc. Truyền rằng xác phụ nữ trôi ngược dòng đó ít ngày sau dạt vào cửa sông vùng Phố Hiến, được dân cư ở đây vớt lên, mai táng chu đáo và lập miếu thờ. Về sau, quan thái giám họ Du đời Tống trong cơn loạn lạc đã lưu lạc tới vùng Xích Đằng - Phố Hiến, một đêm nằm mộng thấy Thái Hậu hiện về và nói: “Chị em ta sau khi nhảy xuống biển, thượng đế khen là trinh tiết, phong cho làm Hải Thần các cửa biển ở Châu Hoan, Sơn Nam đều thuộc chị em ta cai quản. Ông là tôi con của bản triều, nay lưu lạc đất khách quê người, nên đến cửa Càn ở Hoan Châu thăm hỏi 1 lần rồi đến thượng lưu Đằng Giang, hạ lưu Hoàng Giang huyện Kim Động, phủ Khoái Châu, trấn Sơn Nam Thượng mà phụng thờ Quý phi”. Tỉnh mộng, quan thái giám tìm đến hai nơi quả nhiên như lời đã báo mộng. Ông đã cùng nhân dân tu sửa lại miếu, lập làng Hoa Dương để tưởng nhớ đến Quý Phi họ Dương, người Trung Hoa. Khi thái giám mất, dân làng tôn xưng làm Thành Hoàng làng thờ ở đình Hiến.
Đời Vua Trần Anh Tông, niên hiệu Hưng Long thứ 2 (1294), thân chinh đi đánh Chiêm Thành, khi qua đây nằm mộng thấy thần nữ (chỉ Dương Quý Phi) đến xin âm phù giết giặc. Sau khi thắng trận trở về, nhớ tới công lao đó của Quý Phi, một mặt nhà vua cho tôn tạo lại đền, miếu, một mặt cho các bến bãi thu thuế thuyền buôn trích ra một phần cung cấp cho việc phụng thờ. Người dân đi biển đến đây lễ bái cầu xin thuận buồm xuôi gió... đều được như ý. Năm 1990, Đền Mẫu đã được Bộ VHTT công nhận là di tích kiến trúc nghệ thuật.
Theo “Đại Nam nhất thống chí” Đền Mẫu xây dựng vào thời Trần Nhân Tông, niên hiệu Thiệu Bảo nguyên niên (1279). Trải qua các triều đại, Đền đều được trùng tu. Năm Thành Thái thứ 8 (1896), Đền Mẫu được trùng tu lớn có quy mô như ngày nay.
Nghi môn của Đền được xây dựng khá đẹp, kiến trúc kiểu chồng diêm hai tầng tám mái, cửa xây vòm cuốn, có một cửa chính và hai cửa phụ. Trên vòm cuốn có bức đại tự ghi kiểu chữ Triện: “Dương Thiên Hậu - Tống Triều” và bức chữ Hán: “Thiên Hạ mẫu nghi” (Người mẹ sáng suốt trong thiên hạ).
Qua nghi môn là sân đền, giữa sân có cây cổ thụ. Theo truyền thuyết, cây có tuổi gần bảy trăm năm được kết hợp bởi ba cây sanh, đa, si quấn quýt lấy nhau tạo thế chân kiềng vững chắc bao trùm toàn bộ ngôi đền.

Denmau2.jpg



Cây cổ thụ do 3 cây sanh, đa, si quấn quýt lấy nhau, tạo thế chân kiềng vững chắc bao trùm toàn bộ ngôi đền
Ảnh: Thu Hường
Khu nội tự của đền được xây kiểu chữ Quốc gồm: Đại bái, trung từ, hậu cung và hai dãy giải vũ. Toà đại bái với 3 gian, kiến trúc kiểu chồng diêm hai tầng tám mái; các đao mái uốn cong mềm mại kiểu rồng chầu, phượng mớm, lợp ngói vẩy rồng, chính diện đắp lưỡng long chầu nguyệt. Kiến trúc đại bái thượng giá chiêng chồng rường con nhị, hạ kẻ bảy; các con rường, đấu sen, trụ trốn chạm bong kênh hình lá hoá rồng, các bẩy chạm hình đầu rồng. Hai bên đại bái là điện Lưu Ly và cung Quảng Hàn.
Trung từ gồm 3 gian, kiến trúc kiểu chồng rường đấu sen, lộng lẫy với hệ thống câu đối, hoành phi, đồ tế tự, kiệu long đình, kiệu bát cống … sơn son thếp vàng rực rỡ.
Nối với trung từ là 5 gian hậu cung, kiến trúc kiểu chồng rường con nhị, các bức cốn chạm bong kênh hoa lá mềm mại. Dưới ánh sáng mờ ảo của đèn nến, khói hương nhè nhẹ lan toả không gian tĩnh lặng nơi cung cấm như thấy được sự linh thiêng huyền bí chốn thâm cung.
Hằng năm, lễ hội Đền Mẫu diễn ra từ ngày 10 đến 15 tháng 3 âm lịch. Lễ hội xưa được tổ chức rất linh đình, từ ngày 6/3 (ÂL) đã làm lễ chồng kiệu, ngày mồng 10 tổ chức rước kiệu quan thái giám họ Du từ Đình Hiến lên Đền Mẫu, ngày 11 lễ thỉnh kinh sau đó tổ chức rước nước, ngày 12 rước liềm (rước kiệu vòng quanh các phố rồi lại quay về Đền Mẫu), ngày 13 rước kiệu đi du vòng quanh các phố, đến Đình Hiến lại về Đền Mẫu, ngày 15 lễ rước kiệu thánh trả về Đình Hiến và làm lễ rỡ kiệu kết thúc lễ hội.
Ngày nay, lễ hội được tổ chức đơn giản hơn. Ngày 10 tháng 3 âm lịch ruớc kiệu thánh từ Đình Hiến lên Đền Mẫu, ngày 12 tổ chức rước du vòng quanh thị xã và ngày 15 rước kiệu thánh trở về Đình Hiến.
Đền Mẫu - một công trình kiến trúc thuần Việt, một di tích lịch sử văn hoá gần gũi với nhân dân. Đền thờ Quý Phi họ Dương (người Trung Hoa), đây là điểm khác biệt hiếm thấy trong các ngôi đền cổ của người Việt, thể hiện tình đoàn kết hữu nghị của nhân dân 2 nước Việt - Trung

Theo:baohungyen.vn
 
Văn miếu Hưng Yên

Mặt trước Nhà tiền tế - Văn miếu Hưng Yên

Vanmieu1.jpg


Ảnh: Đức Hùng

Theo "Từ điển địa danh văn hóa và thắng cảnh Việt Nam" thì trên cả nước hiện nay chỉ có 6 văn miếu: Văn miếu Quốc Tử Giám, Văn miếu Huế, Văn miếu Hưng Yên, Văn miếu Hải Dương, Văn miếu Bắc Ninh, Văn miếu Đồng Nai. Văn Miếu Hưng Yên còn gọi là Văn miếu Xích Đằng (vì được xây dựng trên đất làng Xích Đằng), nguyên xưa là Văn Miếu của Trấn Sơn Nam (căn cứ vào Khánh, Chuông của di tích), nhưng đến năm 1831, tỉnh Hưng Yên được thành lập thì Văn miếu Hưng Yên thuộc hàng tỉnh. Văn miếu Hưng Yên được khởi dựng từ thế kỷ XVII và được trùng tu, tôn tạo lớn vào năm Kỷ Hợi, niên hiệu Minh Mệnh thứ 20 (1839), đời vua Nguyễn Thánh Tổ (1820 - 1840), trên nền của chùa làng Xích Đằng, xã Nhân Dục, tổng An Tảo, huyện Kim Động xưa, nay là phường Lam Sơn, thị xã Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên. Dấu tích còn lại đến ngày nay là 2 tháp đá: Phương Trượng Tháp và Tịnh Mãn Tháp. Hiện tại Văn miếu đang thờ Đức Khổng Tử, người được suy tôn là "Vạn thế sư biểu", và các chư hiền của nho gia. Cùng thờ với Khổng Tử là Chu Văn An, người thầy giáo, người hiệu trưởng đầu tiên của Trường Quốc Tử Giám. Năm 1992, Văn miếu Hưng Yên được Bộ VHTT xếp hạng là di tích lịch sử.

Ban thờ Chu Văn An tại Văn miếu Hưng Yên

Vanmieu2.jpg


Ảnh: Đức Hùng

Văn miếu có kết cấu kiến trúc kiểu chữ Tam, bao gồm: Tiền tế, Trung từ và Hậu cung. Hệ thống mái của các tòa được làm liên hoàn kiểu "Trùng thiềm điệp ốc". Mặt tiền Văn miếu quay hướng Nam, cổng Nghi môn được xây dựng đồ sộ, bề thế, mang dáng dấp cổng Văn miếu Hà Nội. Phía trong cổng có sân rộng, ở giữa sân là đường thập đạo, hai bên sân có lầu chuông và lầu khánh cùng 2 dãy tả vu, hữu vu. Khu nội tự gồm: Tiền tế, Trung từ và Hậu cung, kiến trúc giống nhau, được làm theo kiểu vì kèo trụ trốn. Toàn bộ khu nội tự Văn miếu tỏa sáng bởi hệ thống đại tự, câu đối, cửa võng và hệ thống kèo cột đều được sơn thếp phủ hoàn kim rất đẹp.

Nơi thờ Đức Khổng Tử tại Văn miếu Hưng Yên

Vanmieu3.jpg


Ảnh: Đức Hùng

Hiện vật quý giá nhất của Văn miếu là 9 tấm bia đá khắc tên tuổi, quê quán, chức vụ 161 vị đỗ đại khoa ở Trấn Sơn Nam thượng ngày xưa (trong đó tỉnh Hưng Yên có 138 vị, tỉnh Thái Bình 23 vị) thuộc các triều đại Trần, Mạc, Lê đến Nguyễn. Học vị cao nhất là Trạng nguyên Tống Trân (người thôn An Cầu, huyện Phù Cừ) đời Trần; Trạng nguyên Nguyễn Kỳ (người xã Bình Dân, huyện Đông An) triều Mạc; Trạng nguyên Dương Phúc Tư (người xã Lạc Đạo, huyện Văn Lâm) triều Lê. Chức vụ cao nhất là tiến sĩ Lê Như Hổ, Quận công triều Mạc. Ngoài ra còn có một số dòng họ đỗ đạt cao như họ Dương ở Lạc Đạo (Văn Lâm); họ Vũ, họ Hoàng ở Ân Thi; họ Lê Hữu ở Liêu Xá (Yên Mỹ)...; một số huyện có nhiều nhà khoa bảng như: Văn Giang, Ân Thi, Yên Mỹ, Tiên Lữ, Kim Động...

Ca Trù là nét văn hóa đặc sắc tại Văn miếu mỗi dịp xuân về

Vanmieu5.jpg


Ảnh: Thu Hường

Văn miếu xưa kia có 2 mùa lễ hội, trọng hội là ngày 10.2 và ngày 10.8 hàng năm. Cứ vào các ngày trọng hội, các vị nho học và quan đầu tỉnh phải đến Văn miếu tế lễ để thể hiện nề nếp nho phong, tôn sư trọng đạo, làm gương cho con cháu, cầu mong sự nghiệp giáo dục ngày càng tiến bộ.

Ngày nay, hằng năm cứ vào ngày đầu xuân tại Văn miếu có tổ chức sinh hoạt văn hóa, đó là tổ chức tế lễ, dâng hương, triển lãm thư pháp, hát ca trù, từng bước khôi phục lại lễ hội xưa. Ngoài ra vào mùa thi, thanh thiếu niên, học sinh về Văn miếu tìm hiểu truyền thống hiếu học của cha ông và thắp nhang cầu mong cho sự học hành ngày càng phát triển.

Du khách nước ngoài tham quan một trong 9 tấm bia đá ghi danh các vị đỗ đại khoa, hiện còn lưu giữ tại Văn miếu Hưng Yên

Vanmieu6.jpg


Ảnh: Thu Hường

Để đáp ứng nhu cầu ngày một cao của con người và cũng là hòa đồng với sự phát triển chung của xã hội. Văn miếu Hưng Yên đang được quy hoạch với quy mô khá hoàn thiện với tổng diện tích gần 6 ha. Năm 2004, tỉnh Hưng Yên đã có chủ trương trùng tu, tôn tạo các hạng mục công trình như vốn có của di tích, được phân thành các khu chức năng khác nhau, như: Văn hóa khuyến học, khu Đền Lạc Long Quân, khu văn hóa, khu Chùa Nguyệt Đường, khu Hồ Văn, Đầm Vạc. Các công trình dần được phục hồi và tôn tạo để Văn miếu Hưng Yên trong tương lai gần sẽ trở thành một trung tâm khuyến học và điểm du lịch tiêu biểu của tỉnh Hưng Yên

Nguồn:baohungyen.vn
 
Đền Kim Đằng

Đền Kim Đằng nằm ở trung tâm thôn Kim Đằng, phường Lam Sơn, thị xã Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên ngày nay. Xưa kia, nơi đây là trang Đằng Man, tổng An Tảo, phủ Khoái Châu, trấn Sơn Nam thượng. Tương truyền, đền được xây dựng trên mảnh đất Đinh Điền chọn làm đại bản doanh với thế "Thanh Long, Bạch Hổ chầu về".
Cuốn "Đại Nam nhất thống chí" có ghi: Tướng quân Đinh Điền quê ở Gia Phương - Gia Viễn - Ninh Bình, là con nuôi của Đinh Công Trứ (thân phụ Đinh Bộ Lĩnh). Từ thuở nhỏ ông đã làm bạn "cờ lau tập trận" của Đinh Bộ Lĩnh, lớn lên đã cùng Nguyễn Bặc, Lu Cơ, Trịnh Tú và Đinh Bộ Lĩnh kết nghĩa anh em. Khi đất nước xảy ra loạn 12 sứ quân, mấy anh em bằng hữu đã theo sứ quân Trần Lãm chiếm giữ vùng Bố Hải (nay thuộc Tiền Hải - Thái Bình). Khi đã trở thành Vạn Thắng Vương, Đinh Bộ Lĩnh giao cho Đinh Điền chỉ huy 10 đạo quân đi thu phục các sứ quân khác. Khi đến trang Đằng Man, thấy địa thế đẹp, ông liền cho dựng đại bản doanh và chọn 3 người họ Phan, họ Phạm và họ Nguyễn ở trang Đằng Man làm gia tướng và chọn người con gái họ Phan tên là Môi Nương làm vợ.

Dẹp xong loạn 12 sứ quân, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi hoàng đế, xưng là Đinh Tiên Hoàng, đặt Quốc hiệu là Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư - Ninh Bình. Đến năm Kỷ Mão (979), Đinh Tiên Hoàng và con trưởng là Đinh Liễn bị kẻ phản tặc Đỗ Thích giết hại, Đinh Điền cùng các quan đại thần tôn Đinh Toàn (khi đó mới 6 tuổi) lên ngôi vua, tôn Dương Vân Nga làm Hoàng Thái Hậu. Khi quân Tống lăm le xâm lược biên giới phí Bắc, đất nước đứng trước họa ngoại xâm, quân sĩ tôn Thập đạo tướng quân Lê Hoàn lên ngôi vua, thay cho Đinh Toàn khi đó còn quá nhỏ. Không chấp nhận việc đó, quan Ngoại giáp Đinh Điền và Định quốc công Nguyễn Bặc đang trấn giữ Châu Ái cùng Phạm Hạp dấy binh, đưa quân từ Thanh Hóa ra đánh Hoa Lư nhưng không thành, Đinh Điền lui quân về trại Đằng Man. Ngày 17.11 (âm lịch) năm Kỷ Mão (979), Đinh Điền và phu nhân mất, nhân dân trại Đằng Man đã lập đền thờ trên nền doanh trại, 3 gia tướng của Đinh Diền cũng được phối thờ tại đây.

Trải qua thời gian, ngôi đền đã được trùng tu nhiều lần. Hiện nay, Đền Kim Đằng còn giữ được nhiều nét kiến trúc thời Hậu Lê và thời Nguyễn. Năm 1997, đền đã được Bộ VHTT xếp hạng là di tích lịch sử. Đền có kiến trúc kiểu chữ đinh, bao gồm 5 gian tiền tế và 3 gian hậu cung. Tòa tiền tế được làm kiểu chồng diêm 2 tầng, 8 mái; các đao mái đắp nổi đầu rồng; trên đường bờ nóc đắp hình lưỡng long chầu nhật, 2 đầu kìm đắp "lưỡng ngư" (2 con cá chép); mái lợp bằng ngói vẩy rồng, phần cổ diêm đắp 4 chữ "Đinh Đại Linh Từ" bằng chữ Hán. Kết cấu các bộ vì kèo kiểu quá giang đơn giản, được nâng đỡ bằng hệ thống cột gỗ lim vững chắc.
Nối tiếp với tiền tế là 3 gian hậu cung lợp ngói mũi. Kết cấu vì kèo kiểu con chồng, đấu sen, trên các con rường được trạm nổi hình hoa lá cách điệu. Gian trung tâm đặt tượng tướng quân Đinh Điền và phu nhân Phan Thị Môi Nương, được tạo tác trong tư thế ngồi tọa thiền... Ngoài ra trong di tích còn lưu giữ một số bức hoành phi, câu đối ca ngợi công đức của thần.

Hàng năm, lễ hội Đền Kim Đằng được tổ chức từ ngày 15 đến ngày 17 tháng 11 âm lịch để tưởng nhớ tới ngày mất của tướng quân Đinh Điền và phu nhân. Trong những ngày diễn ra lễ hội, ngoài tổ chức rước kiệu còn có các trò chơi dân gian truyền thống như: chọi gà, múa lân, hát nói, hát trống quân, múa rối nước... để góp phần dựng xây tình đoàn kết xóm thôn, giáo dục truyền thống yêu nước, truyền thống uống nước nhớ nguồn của dân tộc Việt Nam.

Theo:baohungyen


 
Chùa Nễ Châu

Chùa Nễ Châu nằm trên đường Phố Hiến - xã Hồng Nam - thị xã Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên ngày nay. Xưa kia, nơi đây là khu vực chợ Nễ Châu, địa danh cuối cùng của Phố Hiến hạ - trung tâm thương cảng Phố Hiến thời kỳ phồn thịnh thế kỷ XVI - XVII.

NeChau1.jpg


Chùa Nễ Châu đang được sửa chữa theo dự án bảo tồn, tôn tạo quần thể di tích Phố Hiến giai đoạn II, dự kiến hoàn thành vào năm 2007

Tương truyền, chùa Nễ Châu được khởi dựng từ thời Tiền Lê, quy mô ban đầu còn nhỏ. Khi Lê Hoàn đi qua đây đã cho khởi công xây dựng một ngôi chùa mới trên đất làng Phương Cái (ngày nay là thôn Nễ Châu), thay thế cho ngôi chùa cũ đã đổ nát. Khi Chùa xây xong, dân làng Phương Cái không đủ tiền trả công thợ. Lê Hoàn truyền rằng: “Nếu làng nào đủ tiền trả công thợ thì chùa thuộc về làng đó”. Bấy giờ, dân làng Nễ Châu nhờ đến sự giúp đỡ của gia đình bà Nguyễn Thị Ngọc Thanh nên đã trả được công cho thợ nên chùa thuộc về làng Nễ Châu từ đó. Vì thế dân gian có câu ca rằng:
"Bao giờ Phương Cái có Chùa
Hương Giang có giếng thì Vua lại về"
(Hương Giang là vùng đất nằm cạnh làng Nễ Châu, ngày nay là làng Lương Điền)
Theo truyền thuyết dân gian, sách “Đất Hưng Yên” của Phạm Như Tiên và gia phả họ Nguyễn thì di tích đền và chùa Nễ Châu gắn liền với tên tuổi bà Nguyễn Thị Ngọc Thanh. Bà sinh ngày 15 tháng giêng năm Bính Thân, quê ở Nễ Châu. Khi Lê Hoàn về đóng quân trấn ải ở đây để chống quân Tống xâm lược, thấy bà xinh đẹp đã lấy làm vợ và xây cho một “Ngọc Dinh Thự” ở chợ Nễ Châu. Lê Hoàn còn mua thêm đất, phong cho Nguyễn Thị Ngọc Thanh làm chính nhất phu nhân. Bà đã có công giúp đỡ nghĩa quân cất giấu lương thảo, giặt giũ quần áo... Giặc tan, Lê Hoàn lên ngôi hoàng đế, một phần do không có con, hơn nữa cha mẹ lại già yếu không có người phụng dưỡng, Ngọc Thanh đã xin nhà vua cho ở lại quê hương, Lê Hoàn đồng ý và cử người con thứ 9 là Lê Long Kính (hiệu Trung Quốc đại vương) thay mình trấn giữ vùng này và cũng là để chăm nom Bà.

Ngày 15.8, Nguyễn Thị Ngọc Thanh qua đời, nhà vua thương tiếc đã cho lập đền thờ Bà ngay trước cửa Chùa Nễ Châu để phụng thờ và phong làm “Ngọc Thanh Hoàng hậu”. Ngày 10.9 âm lịch, Lê Long Kính mất, được dân làng Nễ Châu phong làm Thành hoàng làng và cũng được thờ tại Đền cùng với Ngọc Thanh Hoàng hậu.
Trải qua các triều đại, chùa Nễ Châu đều được trùng tu, tu sửa. Lần tu sửa gần đây nhất là vào thời Nguyễn, niên hiệu Bảo Đại nguyên niên (1926). Chùa có kiến trúc kiểu “Nội đinh ngoại quốc” bao gồm các hạng mục: tiền đường, thượng điện, nhà tổ và hai dãy hành lang. Năm 1992, Chùa Nễ Châu đã được Bộ VHTT xếp hạng là di tích kiến trúc nghệ thuật.
Toà tiền đường gồm 7 gian, dài 15m; rộng 5m. Hai bên đầu hồi là hai cột đồng trụ cao 3,5m, trên đỉnh cột đắp hai con nghê quay đầu vào nhau. Mái chùa lợp ngói mũi, chính giữa đường bờ nóc đắp nổi 3 chữ Hán “Thụy Ứng tự” (chùa Thụy Ứng). Toàn bộ hệ thống bẩy hiên được chạm khắc rồng và hoa lá cách điệu. Kết cấu kiến trúc toà tiền đường kiểu vì kèo đơn giản. Trên thượng lương ghi rõ năm trùng tu “Bảo đại nguyên niên (1926)”. Trên xà dọc được trang trí bằng các bức trấn phong chạm khắc hình lưỡng long mềm mại và tinh xảo. Các bức trấn phong đã được đánh giá cao về nghệ thuật điêu khắc, hoa văn trang trí thể hiện nét văn hóa thời Lê.

NeChau2.jpg


Tượng Tuyết Sơn, một hiện vật có giá trị từ thời Lê được thờ tại Chùa Nễ Châu

Nối tiếp toà Tiền đường là toà Tam bảo dài 12m, rộng 5m. Toà Tam bảo có kết cấu kiến trúc kiểu vì kèo đơn giản. Hệ thống tượng thờ tại toà Tam bảo rất đa dạng và phong phú. Trong đó, có giá trị hơn cả là tượng Tuyết Sơn, đây là pho tượng gỗ cổ có niên đại từ thời Lê. Tượng được tạo tác trong tư thế ngồi suy tư, hai tay bó gối với thân hình gầy guộc, trán và chân tay nổi rõ những đường gân. Tượng Tuyết Sơn là hiện thân của Đức Phật Thích Ca giai đoạn tu trên núi Tuyết Sơn. Hiện nay, pho tượng Tuyết Sơn cổ đang được lưu giữ tại Bảo Tàng tỉnh Hưng Yên còn pho Tuyết Sơn ở chùa chỉ là phiên bản phục chế.
Đền thờ bà Nguyễn Thị Ngọc Thanh nằm đối diện chùa Nễ Châu, cũng được trùng tu vào thời Nguyễn, kiến trúc kiểu chữ Đinh bao gồm 3 gian tiền tế và 2 gian hậu cung. Đền có kết cấu kiến trúc kiểu con chồng đấu sen, chạm khắc hoa văn cách điệu, mang phong cách kiến trúc thời Nguyễn.
Hằng năm, chùa Nễ Châu thường tổ chức tế lễ vào các ngày 15 tháng giêng và ngày 15.8 âm lịch để tưởng nhớ ngày sinh và ngày mất của bà Nguyễn Thị Ngọc Thanh. Ngày 10.9 (âm lịch) kỷ niệm ngày mất của Lê Long Kính. Ngoài ra, vào những ngày lễ lớn của nhà Phật như: ngày Phật Đản, lễ Vũ Lan… cũng được tổ chức long trọng tại chùa, thu hút đông đảo nhân dân tham gia.

Theo:baohungyen

 
Đền Mây

Đền Mây thuộc địa phận thôn Đằng Châu - phường Lam Sơn - Thị xã Hưng Yên - tỉnh Hưng Yên. Xưa kia, nơi đây là vùng vạn chài Xích Đằng với bến đò Mây, thuyền bè ra vào buôn bán tấp nập. Đền Mây thờ tướng quân Phạm Phòng Át tức Phạm Bạch Hổ, vị tướng tài ba của nước ta trong thời kỳ đầu của kỷ nguyên độc lập tự chủ (đầu thế kỷ thứ X đến đầu thế kỷ XI).


DTLH31.10.06a.jpg


Cung cấm Đền Mây thờ 3 pho tượng: Phạm Bạch Hổ (bên phải), Phu nhân (bên trái) và Thánh mẫu (ở giữa) Ảnh: Đức Hùng


Theo “Đại Nam nhất thống chí”, Phạm Bạch Hổ sinh ngày 10 tháng Giêng năm Canh Ngọ (910), thân phụ là Phạm Lệnh Công người lộ Nam Sách Giang (nay là Kim Thành- Hải Dương). Lệnh Công có tiệm buôn lớn ở Đằng Châu - Kim Động - Hưng Yên (nay là Xích Đằng - Lam Sơn - Hưng Yên). Tương truyền mẹ ông nằm mộng thấy Sơn Tinh và Hổ trắng mà có mang nên đã đặt tên ông là Bạch Hổ. Lớn lên Bạch Hổ có thân hình vạm vỡ, mạnh mẽ như hổ, thông minh hơn người, văn võ song toàn. Phạm Bạch Hổ từng làm hào trưởng đất Đằng Châu, là tướng tài của Dương Đình Nghệ. Năm Tân Mão 931, ông giúp chủ tướng đánh đuổi Lý Tiến, thứ sử Giao Châu; đánh bại Trần Báo do Đường Minh Tông cử sang cứu viện, rồi xưng tiết độ sứ. Khi Kiều Công Tiễn, một nha tướng của Dương Đình Nghệ giết chết chủ tướng, đoạt chức rồi cầu cứu quân Nam Hán xâm lược nước ta. Phạm Bạch Hổ đã phối hợp với Ngô Quyền đem quân tiêu diệt Kiều Công Tiễn và đánh tan quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng năm Mậu Tuất (938). Khi Ngô Quyền mất, Dương Tam Kha cướp ngôi Vua, Phạm Bạch Hổ cùng Đỗ Cảnh Thạc lật đổ Dương Tam Kha đưa Ngô Xương Văn, con của Ngô Quyền lên ngôi, thời kỳ này được gọi là Hậu Ngô Vương. Năm 965, Hậu Ngô Vương mất, các hào kiệt trong nước nổi lên cát cứ từng vùng. Phạm Bạch Hổ chiếm giữ Đằng Châu và là một trong mười hai sứ quân thời đó. Năm 968 Vạn Thắng vương - Đinh Bộ Lĩnh được sứ quân Trần Lãm giao toàn bộ binh quyền, đã dẹp "Loạn 12 sứ quân". Phạm Bạch Hổ đem quân quy thuận được phong là thân vệ Đại tướng quân. Ngày 16/11 năm Nhâm Thân (972), Phạm Bạch Hổ mất tại quê nhà, thọ 62 tuổi. Đinh Tiên Hoàng đã sắc cho nhân dân lập đền thờ, các triều đại đều phong tặng ông là: “Khai thiên hộ quốc tối linh thần”.
Tương truyền thần rất linh thiêng. Cuốn “Việt điện u linh” khi nói đến thần thổ địa ở Đằng Châu - Hưng Yên có chép: xưa Vua Lê Ngoạ Triều (tức Lê Long Đĩnh) khi chưa lên ngôi, có thực ấp ở Đằng Châu, thường bơi thuyền dạo chơi. Một hôm thuyền đang trên sông bỗng mây kéo đến tối sầm, gió thổi rất mạnh, mưa to sắp đổ xuống, Long Đĩnh tìm nơi trú ẩn, thấy trên bờ sông có đền, mới hỏi người làng: “Đền thờ thần gì”, người làng thưa: “đây là đền thờ thần thổ địa”, Vương hỏi “có thiêng không?” thưa rằng “đây là chỗ dựa của một châu, lễ cầu mưa, cầu tạnh đều rất ứng”. Vương bèn nói to lên rằng: "Nếu thần khiến được mưa gió thì nay thử khiến cho bên này sông tạnh, bên kia sông mưa. Thế mới thật là thiêng!”. Nói xong quả nhiên nửa sông bên kia mưa rất to, nửa sông bên này chỉ có gió mát. Long Đĩnh không bị ướt, lấy làm lạ mới sai tu bổ đền thờ.

DTLH31.10.06b.jpg
Cung đại bái Đền Mây với hệ thống câu đối và bức Trâm thư của
Tiến sĩ Chu Mạnh Trinh Ảnh: Đức Hùng


Trải qua thời gian, Đền Mây đã được trùng tu, tu sửa nhiều lần. Ngày nay, kiến trúc ngôi đền vẫn mang đặc trưng nghệ thuật chạm khắc thời Hậu Lê và thời Nguyễn. Đền được xây dựng kiểu chữ Tam gồm: tiền tế, trung từ và hậu cung. Toà tiền tế với 3 gian được làm kiểu tường hồi bít đốc, mái lợp ngói mũi. Kết cấu các bộ vì kiểu chồng rường giá chiêng con nhị, nâng đỡ mái là hệ thống các hàng cột, chân được kê lên tảng đá vuông. Các con rường được chạm hình hoa xoắn và kê lên đấu vuông thót đáy. Đầu dư chạm thành đầu rồng mềm mại, uyển chuyển. Các bức cốn chạm chủ đề tứ linh, tứ quý. Ngăn giữa hiên và tiền tế là hệ thống cửa bức bàn (thượng song hạ bản). Chính nhờ hệ thống cửa này đã tạo ra hai khoảng không gian tách biệt giữa trong và ngoài. Tiền tế được trang trí bằng hệ thống cửa võng, đại tự, hoành phi, câu đôí. Chính giữa toà tiền tế treo bức đại tự khảm trai có ghi hàng chữ “Thái Bình vương Phủ”. Các gian bên treo các bức hoành phi có ghi: “Phúc dẫn Đằng lưu” (Sông Đằng dẫn phúc); “Anh phi Châu quận” (Bậc anh tài ở quận Châu) và "Bán giang lĩnh tích” (Nửa dòng sông còn in dấu tích). Ngoài ra còn có bức trâm viết bằng chữ Hán do tiến sỹ Chu Mạnh Trinh (quan Án sát tỉnh Hưng Yên) đề năm Mậu Tuất (1888) ca ngợi cảnh đẹp của Đằng Châu và công lao của Phạm Bạch Hổ.
Nối với tiền tế là 5 gian trung từ được làm song song nhưng nền nhà cao hơn. Trung từ có kết cấu kiểu vì giá chiêng, với hệ thống cột gỗ lim vững chắc kê trên chân tảng đá lớn hình quả bồng để nâng đỡ mái. Các bộ vì gian bên trang trí hoạ tiết hoa văn đơn giản, riêng hai bộ vì gian giữa được chạm khắc cầu kỳ hơn. Đầu dư, đầu bẩy, con rường chạm hình đao lửa, hoa lá. Hai bên cột treo đôi câu đối ca ngợi công lao của tướng quân.
"Bá chủ hùng đồ thập nhị sơn hà dư cổ luỹ
Thần cao linh khí bán phân tinh vũ thử tiền giang".
Tạm dịch:
"Anh hùng bá chủ một vùng, non nước phân chia 12 sứ quân
Linh thiêng hiển hiện của thần, khúc sông này nửa phân mưa nắng".
Hậu cung gồm 3 gian, kết cấu vì chồng rường đơn giản, không chạm trổ hoa văn. Trong đền còn lưu giữ 27 pho tượng, hầu hết được tạo tác từ thời Lê, hai cỗ kiệu bát cống và một lư hương đồng rất quý.


DTLH31.10.06c.jpg
Đền Mây đang được trùng tu theo Dự án bảo tồn, tôn tạo quần thể di tích Phố Hiến giai đoạn II, dự kiến hoàn thành
vào năm 2007. Ảnh: Đức Hùng

Hàng năm, lễ hội Đền Mây được tổ chức ở hai thời điểm khác nhau: Tháng Giêng từ ngày mồng 8 đến ngày 16 (âm lịch) là lễ hội kỷ niệm ngày sinh; từ ngày 12 đến ngày 18 tháng 11 (âm lịch) là lễ hội kỷ niệm ngày hoá của tướng quân Phạm Bạch Hổ. Trong lễ hội ngoài tế lễ trước đây còn diễn ra phần hội với nhiều trò chơi truyền thống mang đậm nét văn hoá của cư dân Bắc Bộ như: đấu vật, múa lân, hát trống quân, múa rối nước, đánh cờ… Ngày nay, lễ hội được tổ chức đơn giản hơn, mục đích là tuyên truyền đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước, bài trừ những hủ tục lạc hậu xây dựng đời sống văn hoá mới. Năm 1992, Bộ VHTT đã công nhận Đền Mây là di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật. Để hoà nhập với sự phát triển của Phố Hiến - Hưng Yên, Đền Mây đang được quy hoạch, trùng tu, tôn tạo để bảo đảm phục vụ khách thập phương và nhân dân trong vùng trong các ngày lễ hội.

Theo:baohungyen

 
Đền Tân La

Đền Tân La toạ lạc trên khu đất rộng với những tán cây cổ thụ xum xuê thuộc địa phận thôn Đoàn Thượng - xã Bảo Khê - thị xã Hưng Yên. Nơi đây, cây cối rậm rạp, hầu hết có niên đại hàng trăm năm tuổi, giống như một khu rừng nhỏ nằm giữa vùng đồng bằng Bắc Bộ. Đền thờ Bát Nàn tướng quân Vũ Thị Thục, một vị tướng xuất sắc trong cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng chống lại quân Đông Hán xâm lược nước ta trong thời kỳ Bắc thuộc.


DenTanLa.jpg

Hệ thống đại tự, câu đối sơn son thếp vàng làm cho nội thất Đền Tân La trở nên uy nghi, linh thiêng và rực rỡ
Ảnh: Đức Hùng

Bát Nàn tướng quân tên là Vũ Thị Thục, thân phụ là ông Vũ Công Chất, hào trưởng trang Phượng Lâu; thân mẫu là Bà Hoàng Thị Mầu thuộc châu Bạch Hạc. Gia đình có nghề làm thuốc, thường tới vùng rừng núi hái thuốc và cứu nhân độ thế. Vũ Thị Thục là một người con gái nổi tiếng xinh đẹp, võ nghệ giỏi nhất vùng. Năm Thục Nương 18 tuổi, Thái thú Giao Chỉ lúc đó là Tô Định nghe tiếng tài sắc của Thục Nương đã ép ông Vũ Công Chất phải gả Thục Nương cho hắn, nhưng cha mẹ Thục Nương từ chối vì đã nhận trầu cau ăn hỏi của cha mẹ Phạm Danh Hương, một Hào mục ở Liệp Trang. Tô Định tìm cách giết hại Vũ Công Chất và Phạm Danh Hương, sau đó cho quân lùng bắt Thục Nương. Được nhân dân che chở, Thục Nương đã chạy thoát ra phía sông Hồng cùng một số người thân lên thuyền xuôi vùng Tân La thuộc đạo Sơn Nam (nay là Tân La - xã Bảo Khê - thị xã Hưng Yên). Tại đây, Thục Nương đã chiêu binh mãi mã, huấn luyện quân thủy, bộ, tích trữ lương thảo. Biết tin bà lập căn cứ ở Tân La, Tô Định nhiều lần cho quân tiến đánh nhưng đều thất bại, không dám bén mảng tới căn cứ.
Mùa xuân năm 40 của thế kỷ XX, Hai Bà Trưng chuẩn bị khởi nghĩa ở Mê Linh đã cho sứ giả đem hịch đến vời Thục Nương đưa quân bảo hộ gia nhập đội quân khởi nghĩa do Hai Bà lãnh đạo. Thục Nương được phong là Đại tướng trưởng lĩnh tiền đạo, lập nhiều chiến công nên được phong Đông Nhung Đại tướng quân. Dẹp xong giặc Tô Định, Trưng Trắc xưng vương đóng đô ở Mê Linh và phong cho Vũ Thị Thục là Bát Nàn đại tướng quân Trinh Thục công chúa. Khi Mã Viện đưa quân sang xâm lược, Thục Nương lại sát cánh chiến đấu bên cạnh Hai Bà Trưng ở Lẵng Bạc, Cấm Khê. Khi Hai Bà Trưng tự tận, Vũ Thị Thục rút quân về vùng Tân La, tại đây bà đã chiến đấu ngoan cường... Bát Nàn tướng quân mất ngày 16/3 năm Quý Mão (năm 43). Để ghi nhớ công lao của Bà, nhân dân vùng Tân La đã lập đền thờ.
Trải qua thời gian, Đền Tân La đã được trùng tu, tu sửa nhiều lần. Năm 1992 đã được Bộ VHTT công nhận xếp hạng là di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật. Đền có kiến trúc kiểu chữ Công gồm các hạng mục: tiền tế, ống muống và hậu cung. Các toà đền có kết cấu kiến trúc giống nhau kiểu vì giá chiêng, kèo, quá giang đơn giản. Nội thất đền Tân La được trang trí bằng hệ thống đại tự, câu đối, tượng pháp sơn son thếp vàng lộng lẫy và linh thiêng.
Xưa kia, lễ hội Đền Tân La thường kéo dài từ đầu tháng đến cuối tháng 3 âm lịch. Trong lễ hội có tổ chức rước nước từ sông Hồng về đền, ngoài ra còn có các trò chơi dân gian như: Cờ tướng, kéo co, chọi gà, biểu diễn văn nghệ… thu hút đông đảo nhân dân tham gia. Ngày nay, lễ hội được tổ chức đơn giản hơn, thời gian hội diễn ra ngắn hơn, lễ hội được tổ chức vào các ngày 15, 16, 17 tháng 3 âm lịch, nhưng vẫn bảo đảm nội dung và quy trình của lễ hội cổ truyền.
Nằm trong quần thể di tích Phố Hiến, đền Tân La có một vị trí địa lý quan trọng, là di tích cửa ngõ dẫn vào các điểm di tích trong lòng Phố Hiến. Vì vậy, đền Tân La cần được sự quan tâm đầu tư quy hoạch, trùng tu, tôn tạo để nơi đây sớm trở thành điểm tham quan du lịch văn hoá về nguồn của tỉnh Hưng Yên.

Theo:baohungyen


 
Đền Trần

Đền Trần nằm trên đường Bãi Sậy - phường Quang Trung - thị xã Hưng Yên ngày nay và là trung tâm của Phố Hiến xưa. Tương truyền mảnh đất này trước đây là nơi đóng quân của Hưng Đạo Vương - Trần Quốc Tuấn, thấy rằng đây là nơi hội tụ của 3 dòng sông: sông Hồng, sông Châu Giang và sông Luộc, đoạn trước cửa đền có tên gọi là Phú Lương (tên cổ của sông Hồng) nên ông đã chọn nơi đây làm căn cứ.


Dentran31.8c.jpg
Cổng Tam quan Đền Trần
Ảnh: Đức Hùng

Hưng Đạo Vương - Trần Quốc Tuấn sinh ngày 10 tháng Chạp năm Mậu Tý (1228) trong một gia đình quý tộc người hương Tức Mặc, phủ Thiên Trường, Nam Định (nay là Bảo Lộc- Mỹ Phúc, ngoại thành Nam Định). Cha Trần Quốc Tuấn là An Sinh Vương Trần Liễu, anh ruột Vua Trần Thái Tông, mẹ Trần Quốc Tuấn là Nguyệt Vương Phi. Trần Quốc Tuấn đã hai lần tham gia lãnh đạo (lần thứ hai và ba) quân và dân ta chống lại giặc Nguyên Mông xâm lược. Ông là người văn võ song toàn, tri thức quân sự uyên thâm, kết hợp với tinh thần yêu nước nồng nàn, Ông đã góp công lớn vào việc tổ chức lãnh đạo cuộc kháng chiến thắng lợi, đưa khoa học và nghệ thuật quân sự Việt Nam tiến lên một bước. Trần Hưng Đạo là một anh hùng kiệt xuất của dân tộc, một thiên tài quân sự, một danh nhân văn hoá lớn mà tên tuổi và sự nghiệp của ông sống mãi với lịch sử dân tộc. Ông mất ngày 20/8/1300 (Âm lịch) tại Vương Phú - Vạn Kiếp - Chí Linh - Hải Dương.
Sau khi ông mất, để tưởng nhớ công lao to lớn của ông nhân dân địa phương đã lập đền thờ. Đền Trần được khởi dựng từ đời Trần, ban đầu quy mô nhỏ, trải qua các triều đại đều được trùng tu, tôn tạo. Đến thời Nguyễn được trùng tu với quy mô lớn và kiến trúc như ngày nay. Năm 1992, Đền Trần được Nhà nước xếp hạng là di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật. Đền có kiến trúc kiểu chữ Tam gồm: Tiền tế, trung từ và hậu cung. Từ ngoài vào là cổng nghi môn xây kiểu chồng diêm hai tầng tám mái, cửa vòm cuốn, trên cổ diêm ghi 4 chữ: “Kiếm Khí Đẩu Quang” (tinh thần yêu nước toả sáng); phía dưới cửa cuốn đề: “Trần Đại Vương từ” (Đền Trần Đại Vương).
Toà đại bái gồm 5 gian, kết cấu kiến trúc kiểu vì chồng rường giá chiêng, các con rường được chạm hình đầu rồng cách điệu, gian giữa treo bức đại tự "Thân hiền tại vọng” (Ngưỡng vọng người hiền tài). Nối tiếp đại bái là 5 gian trung từ, kiến trúc vì kèo quá giang đơn giản, bào trơn đóng bén, không có hoa văn. Phía tiếp giáp với hậu cung treo bức đại tự: “Công đức như Thiên” (Công đức của thánh rộng lớn như trời). Giáp với trung từ là ba gian hậu cung, thờ Trần Hưng Đạo và toàn bộ gia thất của ông.


Dentran31.8d.jpg

Ban thờ Hưng Đạo Vương - Trần Quốc Tuấn tại Đền Trần
Ảnh: Đức Hùng

Hàng năm, lễ hội đền Trần được tổ chức vào ngày 20/8 và ngày 8/3 âm lịch, để tưởng nhớ tới ngày mất của ông và ngày chiến thắng quân xâm lược Nguyên Mông. Trước đây, vào lễ hội, mỗi chi giáp phải đóng góp 1 con lợn để cúng tế. Trong ngày hội, các Tiên Chỉ, Phó Lý đều tập trung đông đủ tại Đền làm lễ, cầu mong mưa thuận gió hoà, nhân dân được yên ấm làm ăn. Ngày nay, lễ hội được tổ chức đơn giản hơn, ngoài tổ chức rước kiệu du quanh thị xã còn tổ chức thi bánh dày, bánh chưng, thu hút đông đảo khách thập phương về dự lễ hội.
Đền Trần là di tích tưởng niệm Hưng Đạo Đại Vương - Trần Quốc Tuấn, một anh hùng dân tộc, một danh nhân văn hoá của nhân loại. Đền Trần có ý nghĩa rất lớn với Phố Hiến nói riêng, tỉnh Hưng Yên nói chung. Vì vậy đền sẽ được đầu tư quy hoạch trở thành điểm du lịch văn hoá với mục đích giáo dục thế hệ trẻ hôm nay về truyền thống yêu nước nồng nàn của nhân dân ta từ xa xưa./.
 
Đền Chử Đồng Tử - linh thiêng một tình yêu

1B39FF141F066EC243F91D630B6DB5F3.gif



Truyền thuyết về mối tình giữa nàng công chúa lá ngọc cành vàng với một chàng trai nghèo khó nhưng rất mực hiếu thảo từ lâu đã trở thành thiên tình sử đẹp nhất trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam.

Chử Đồng Tử - Tiên Dung, những con người không tham danh vọng, không màng phú quý vinh hoa, suốt đời chỉ tìm đến với những cái đẹp trong thiên nhiên, khai phá tạo dựng những bãi bồi phù sa đã đi vào cõi bất tử trong tâm linh của người dân đất Việt.
Từ Hà Nội, du khách có thể xuôi dòng sông Hồng chừng 20km là tới bến Bình Minh hoặc có thể đi đường bộ qua cầu Chương Dương rẽ phải, theo đường đê chừng 25km là tới đền Chử Đồng Tử hay đền Đa Hòa ở xã Bình Minh, Khoái Châu, Hưng Yên.


Khách thập phương tới đây không chỉ để đứng trên con đê sông Hồng thưởng ngoạn phong cảnh bình yên của một vùng quê "xanh xanh lũy tre, ngô khoai biêng biếc, con đò sang ngang" hay ngắm nhìn những dải phù sa cát trắng, những ánh nắng lung linh trên những hàng cau… mà còn để được đắm mình giữa chốn Bồng Lai tiên cảnh của đền Đa Hòa và dâng nén nhang tưởng nhớ tới đức thánh Chử Đồng Tử (một trong tứ bất tử của thần linh đất Việt) cùng vị phu nhân xinh đẹp Tiên Dung công chúa (con gái vua Hùng Vương thứ 18) và nàng Tây Sa công chúa.
Đức thánh Chử Đồng Tử và Tiên Dung công chúa được thờ phụng ở nhiều nơi trên địa bàn vùng đồng bằng và trung du Bắc Bộ, chủ yếu là các làng ven sông Hồng và sông Đuống. Nhưng, một trong những nơi thờ tự chính, nổi tiếng sầm uất nhất là đền Đa Hòa cạnh bờ sông Hồng trông thẳng sang bãi Tự Nhiên - nơi đã diễn ra cuộc gặp gỡ và nảy sinh mối tình nên thơ, diễm lệ giữa chàng trai đánh cá nghèo không mảnh khố che thân với nàng công chúa Tiên Dung lá ngọc cành vàng vừa độ 18 trăng tròn.
Đền Đa Hòa hay còn được nhân dân trong vùng gọi là đền Chính vì đây là nơi thờ tự chính của nhân dân tổng Mễ (thuộc huyện Đông An, phủ Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên nay thuộc xã Bình Minh, Khoái Châu và xã Mễ Sở, Văn Giang, Hưng Yên) được xếp hạng di tích lịch sử văn hóa năm 1962. Đây không chỉ là một di tích lưu truyền và lan toả về một thiên tình sử hàng ngàn năm nay mang ý nghĩa nhân văn cao đẹp mà còn có giá trị đặc biệt về nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc thời Nguyễn.



Đền do tiến sĩ Chu Mạnh Trinh (người làng Phú Thị, tổng Mễ Sở, huyện Đông Yên, phủ Khoái Châu, Hưng Yên, nay thuộc Văn Giang, Hưng Yên) đứng ra vận động nhân tài, vật lực của nhân dân tám thôn tổng Mễ cùng thập phương công đức để xây dựng, tôn tạo năm 1894 trên nền một ngôi đền cổ.
Hiện vẫn chưa có tài liệu chính xác nào cho biết ngôi đền cổ này được xây dựng từ thời gian nào, bằng vật liệu gì, qui mô to nhỏ ra sao và điều quan trọng hơn là ngôi đền này thờ ai.
Quang cảnh đền như hiện nay là một kiến trúc quy mô lớn, mặt quay hướng chính Tây, nhìn thẳng sang bãi Tự Nhiên mà kế đó, thuộc địa phận huyện Thường Tín (Hà Tây) có ngôi đền Ngự Dội để ghi đấu nơi Tiên Dung dừng thuyền rồng tắm thuở nào.


Tổng thể kiến trúc đền nằm trên một khu đất cao, rộng, bằng phẳng, hình chữ nhật có tổng diện tích 18.720m2, bao gồm 18 nóc nhà lớn nhỏ. Con số này là sự gởi gắm ý tưởng của người xây dựng nhằm nhắc nhở người đời sau nhớ tới thiên tình sử của nàng Tiên Dung công chúa vừa tròn 18 tuổi, diễn ra vào đời Hùng Vương thứ 18.
Thu hút sự chú ý của du khách hành hương là các pho tượng, đặc biệt là các pho tượng đức thánh Chử Đồng Tử và nhị vị phu nhân đặt ở Hậu Cung. Các pho tượng đều được đúc bằng đồng, mặt tượng được sơn màu da, kẻ mắt và có độ cao ngang bằng nhau. Hiện nay trong đền còn có ba pho tượng như thế này nữa đặt ở cung Đệ Tam.
Trong thời kỳ thực dân Pháp chiếm đóng, chúng đã lấy ba pho tượng bằng đồng quý giá đem đi. Do đó nhân dân địa phương đã tạc ba pho tượng bằng gỗ để thờ. Nhưng do sự đấu tranh kiên quyết của nhân dân địa phương, về sau chúng đã phải trả tượng lại cho đền. Ba pho tượng bằng gỗ kia cũng được giữ lại do đã có một thời gian sống trong tâm linh của dân, đồng thời để ghi dấu một thuở nơi đây từng bị giặc ngoại xâm tàn phá quê hương, phá bỏ đền chùa.



Ngôi đền càng được tôn thêm vẻ đẹp cổ kính, rêu phong với sông nước bao la, cổ thụ bốn mùa xanh tốt. Cây cối nơi đây cũng được chọn lọc để tập trung vào chủ điểm khẳng định sự bất tử của đức thánh Chử Đồng Tử cũng như mối tình tuyệt mỹ của ngài. Xen vào đó là những lời hay, ý đẹp và tình yêu bất tử của con người toát lên qua mỗi lời, mỗi chữ của những bức hoành phi, câu đối của những bậc tao nhân, mặc khách mọi thời. Thật là một chốn Bồng Lai tiên cảnh nơi trần thế.
Hiện nay đền Đa Hòa còn được bảo tồn được nhiều di vật quý hiếm, trong đó đặc biệt phải kể đến đôi lọ Bách Thọ (một trăm chữ thọ không chữ nào giống chữ nào, khắc trên thành lọ bằng gốm), một cổ vật vô giá của dân tộc.



Tại đây người dân địa phương đã bao đời hương khói trong niềm tin tưởng cầu phúc, cầu lộc, sức khỏe, mùa màng tươi tốt cho mình và cho cả đất nước. Vì thế mà:
"Hỡi ai đi ngược về xuôi
Nhớ hội Đa Hòa mồng mười tháng hai"
Từ xưa đã thành thông lệ, cứ ba năm một lần, người dân tổng Mễ xưa lại mở hội hàng Tổng từ mồng 10-15 tháng 2 âm lịch gọi là hội Kỳ Yên (hội cầu mát). Vì thế mà ngày nay đền Đa Hòa hay đền Chử Đồng Tử không chỉ là một nơi thờ cúng tâm linh của nhân dân, mà nó còn là một trong những điểm du lịch tham quan không thể thiếu của những tour du lịch vùng đồng bằng sông Hồng, và đặc biệt là các tour du lịch bằng đường sông cùng với làng gốm Bát Tràng, đền Đại Lộ, đền Dầm hay thương cảng Phố Hiến.
Đức thánh Chử Đồng Tử và Tiên Dung công chúa đã bay về trời nhưng tình yêu của họ vẫn còn mãi với thời gian và bất tử trong tâm linh các thế hệ người dân Việt Nam. Đền Chử Đồng Tử - đền Đa Hòa ở xã Bình Minh và nhân dân nơi đây đã, đang và mãi mãi là một trong những điểm tựa cho sức sống bất tử ấy. Thời gian đi qua, nhưng truyền thống văn hoá dân tộc còn mãi không mờ, tâm linh người Việt vẫn luôn hướng về tổ tiên, hướng về cội nguồn và hướng về "đền Chử Đồng Tử - linh thiêng một tình yêu".


Nguồn tin: TTO
 
Thứ nhất kinh kỳ, thứ nhì Phố Hiến' - Hưng Yên

1D27F8E71F066EC2221962530B6DCFD3.gif



Từ Hà Nội đi theo đường số 5, đến phố Nối, rẽ theo đường 39A qua những cánh đồng ngô lúa, những rặng nhãn um tùm là đến Phố Hiến - Hưng Yên. Từ thế kỷ 13, nơi đây đã là một thương cảng quốc tế.
Nhưng vì sông Hồng ngày càng lùi xa, Phố Hiến nhường dần vị trí thương cảng cho Hải Phòng, mà giữ lại cho mình những giá trị văn hoá lâu đời. Phố Hiến ngày nay còn gìn giữ được một quần thể kiến trúc cổ gồm 60 di tích lịch sử, 100 bia ký và nhiều đền chùa.
Phố Hiến có một đặc sản nổi tiếng cả nước là nhãn lồng (gọi là nhãn lồng vì cây nhãn rất nhiều quả, người ta phải làm lồng bảo vệ cho chùm quả để chim chóc không ăn được). Nhãn lồng cùi dày, vỏ mỏng, hạt nhỏ, ăn ngọt mát như chè đường. Xưa kia nhãn lồng Phố Hiến đã được chọn để tiến vua. Cây nhãn tổ có từ thế kỷ thứ 16, nay vẫn xum xuê cành lá.
Đến thăm thương cảng cổ xưa này, bạn chớ quên vào chợ Phố Hiến, một chợ quê hoàn toàn yên ả như mặt nước hồ bán nguyệt ở trung tâm Phố Hiến.


Nguồn tin: Theo Du Lịch
 
Đền Ủng, ngôi đền thờ tướng quân Phạm Ngũ Lão

Đền Ủng tại làng Phù Ủng, xã Phù Ủng, huyện Ân Thi, thờ tướng quân Phạm Ngũ Lão. Ông là một danh tướng của Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn, có công lớn trong kháng chiến chống quân Nguyên Mông, chống giặc phương Nam và Ai Lao.
Đền được xây dựng trên nền nhà cũ của gia đình ông. Đáng tiếc ngôi đền đã phá hoại trong chiến tranh chỉ còn lại dấu vết nền móng xưa và hai cột đồng trụ ở hai bên. Từ năm 1990, ngôi đền được phục hồi với kiến trúc gồm năm gian tiền bái, ba gian hậu cung.


denUng.jpg



Trong quần thể di tích có lăng Phạm Tiên Công (thân sinh Phạm Ngũ Lão), đền Nhũ Mẫu (mẹ nuôi Phạm Ngũ Lão), đền thờ con gái Phạm Ngũ Lão theo kiến trúc thời Nguyễn. Ngoài ra còn có lăng Vũ Hồng Lượng (quan dưới triều Lê), kiến trúc nghệ thuật điêu khắc đá thời Hậu Lê (thế kỷ 17).
Hội chính đền Ủng tổ chức từ 12-15 tháng Giêng âm lịch, kỷ niệm ngày ra quân của Phạm Ngũ Lão. Trước cách mạng Tháng Tám, triều đình đều cử các quan về tế lễ. Trong ngày lễ có tục rước quận chúa Thủy Tiên là con gái duy nhất của Phạm Ngũ Lão từ phủ chúa về lăng Phạm Tiên Công để trình ông và rước về đền Phạm Ngũ Lão để trình cha. Một đặc sắc ở lễ hội đền Ủng là khi rước, nhân dân chen nhau chui qua gầm kiệu với ý nghĩa thực hiện được những điều mong muốn. Lễ vật trong đám rước có đĩa muối gừng bày tỏ lòng biết ơn của người con hiếu thảo.
Trong lễ hội, làng Phù Ủng thường tổ chức vật cù. Cù hình tròn, làm bằng gỗ vuông sơn đỏ. Sân chơi là một bãi rộng chia làm 2 bên đông và tây, giữa sân kẻ một vạch ngang, chính giữa vạch đào một lỗ đặt quả dầu, hai đầu sân mỗi bên đào một lỗ. Mỗi đội có 8 quân và 1 tổng, đầu chít khăn, đóng khố. Mỗi đội đóng khố một màu khác nhau. Trước khi chơi, hai đội xếp thành hai hàng làm lễ trước cửa đền. Trọng tài cầm quả cầu đặt ở hố giữa sân, phát hiệu lệnh, hai bên giành nhau cướp bỏ vào lỗ của đối phương, bên nào cho vào lỗ của bên kia là thắng cuộc. Tương truyền vật cù là hình thức Phạm Ngũ Lão thường thực hiện để quân sỹ rèn luyện sức khỏe và vui chơi khi xưa.


Thúy Vi
 
Chùa Hương Lãng.

Chùa Hương Lãng có tên chữ là Thạch Quang Tự hay còn gọi là chùa Lạng thuộc thôn Hương Lãng, xã Minh Hải, huyện Văn Lâm. Tương truyền chùa do Thái hậu Ỷ Lan xây dựng từ thế kỷ XI. Chùa có quy mô lớn, gồm nhiều tòa, bố cục kiến trúc kiểu "nội công ngoại quốc". Từ ngoài vào là Tam quan, có ba lối vào, rồi bậc tam cấp dẫn lên một nền phẳng. Từ cấp này lên cấp thứ hai cũng có ba lối lên. Cấp thứ ba là khu chính, bao gồm nhà tăng, nhà hội đồng, phật điện.



huonglang.jpg
huonglang2.jpg

Tượng sư tử đội tòa sen bằng đá
Phần sau của tượng

Chùa Hương Lãng hiện còn lưu giữ nhiều di vật thời Lý, rất đặc sắc và độc đáo. Giá trị nổi bật là tượng sư tử, còn gọi là ông Sấm. Tượng được tạo bằng phiến đá lớn, dài 2m80, rộng 1m50, cao 0m90 dùng làm bệ cho một pho tượng nào đó nay không còn nữa. Hai đầu của phiến đá chạm khắc thành hình đầu và phía sau của con sư tử. Mặt sư tử tạo tác dũng mãnh, mũi to căng tròn, cặp mắt lồi như hai quả trứng, vầng trán cao. Mông sư tử căng tròn, trang trí dày đặc hoa văn xoắn ốc và hoa cúc dây. Chùa có mười đôi tay vịn bằng đá, chạm phượng và chồn, hoa cúc dây; bốn cột đá vuông bốn góc đỡ các xà bằng đá của công trình trước đây, mười con chồn đá đặt ở các bậc thềm. Cạnh đó có nhiều hoạ tiết trang trí như phượng vũ cánh, hoa cúc dây mang nghệ thuật đời Lý cùng một tấm bia đá ghi lại việc trùng tu chùa vào thế kỷ 16.

Tượng sư tử, các bức tay vịn bằng đá tại chùa là những tác phẩm điêu khắc đá vô giá của thời Lý hiện còn lại ở Việt Nam.


Thúy Vi
 

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top