Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch sử Việt Nam
Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam
Đảng cộng sản Việt Nam ra đời và cương lĩnh đầu tiên của Đảng
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="Bút Nghiên" data-source="post: 21639" data-attributes="member: 699"><p><strong>3- Vai trò của Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội </strong></p><p></p><p>Những nǎm trước, các cuộc đấu tranh của công nhân đòi tự do dân chủ, đòi cải thiện đời sống, tuy đã có ý thức giai cấp nhưng vẫn nằm trong phong trào dân tộc nói chung, Công nhân đấu tranh đòi thả nhà cách mạng Phan Bội Châu, để tang nhà chí sĩ Phan Chu Trinh, hay đình công đòi thả Nguyễn An Ninh (1925-1926), thể hiện lập trường tư tưởng của họ chủ yếu là yêu nước, giải phóng dân tộc. Những nǎm 1928-1929, khi Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội thực hiện chủ trương "vô sản hoá" thì phong trào công nhân đã có những bước phát triển rõ rệt. Những cuộc đình công hay chống đi phu đi lính vẫn nhằm vào bọn tư bản thực dân và tay sai của chúng, nhưng đã có tổ chức, có kỷ luật hơn. </p><p></p><p>Phản ánh bước phát triển này, đồng chí Tôn Đức Thắng, một chiến sĩ cách mạng vô sản đã từng kéo cờ phản chiến trên hạm đội của Pháp ở Hắc Hải để bảo vệ Cách mạng tháng Mười Nga, đã viết: Từ chỗ phong trào rời rạc, nhờ ảnh hưởng của cuốn Bản án chế độ thực dân Pháp, báo Người cùng khổ, và mấy tờ Việt Nam hồn, mà bước đâu lan rộng, bước đâu có tổ chức, để đầu nǎm 1927 công nhân đi vào phong trào Thanh niên cách mạng đồng chí Hội một cách sâu rộng. </p><p></p><p>Từ hình thức các hội hữu ái, tương tế, giai cấp công nhân đã tự tổ chức ra công hội. Từ công hội nhà máy Ba Son (1925) đã ra đời các công hội nhà máy xe lửa Trường Thi (Vinh - Nghệ An), công hội nhà máy xi mǎng Hải Phòng, công hội nhà máy dệt Nam Định, công hội các mỏ than Mạo Khê, Hồng Gai v. v.. Ngày 28 tháng 4 nǎm 1929, Tổng công hội Bắc Kỳ được thành lập. Tiếp đó, tháng 10 nǎm 1929, Tổng công hội Nam Kỳ cũng ra đời. </p><p></p><p>Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội cũng hoạt động và phát huy ảnh hưởng mạnh mẽ trong phong trào nông dân và có vai trò quyết định trong việc làm cho phong trào nông dân ngày càng xích lại gần phong trào công nhân. </p><p></p><p>Thực tế lịch sử Việt Nam chứng minh rằng, trong cuộc đấu tranh giành quyền lãnh đạo cách mạng giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản, phần quyết định là giai cấp nào nắm được nông dân. Cương lĩnh của Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội đã đề ra: "Tịch ký và đem về công tất cả ruộng đất của tụi đồn điền nhà chung và quý tộc, vua chúa. Tịch ký và đem về công tất cả ruộng đất của địa chủ trên 100 mẫu. Đất ruộng tịch ký về phân phối cho dân cày cày cấy chung". Khẩu hiệu đấu tranh của Việt Nam thanh niên cách mang đồng chí Hội có nói: "Miễn thuế ruộng nǎm mất mùa" "Đất bồi, đất hoang về dân cày. Phản đối sự cưỡng chiếm những đất ấy", "Thực hành 1/4 lúa ruộng cho địa chủ, đồn điền", "miễn góp lúa ruộng nǎm mất mùa", "Đóng góp tạp dịch bình đẳng, phản đối sự miễn sưu, miễn dịch cho quý tộc và nhà giàu" Trái lại, tất cả các đảng và tổ chức yêu nước khác, kể cả Việt Nam quốc dân Đảng, ngoài chủ trương giải phóng dân tộc đều không có chủ trương đấu tranh cho quyền lợi của công nhân và nông dân. </p><p></p><p>Đánh giá sự trưởng thành của phong trào công nông trong những nǎm 1928-1929, Dự thảo Luận cương chính trị (l0-1930) của Đảng viết: "Vô sản giai cấp Đông Dương tuy chưa đông đúc, nhưng số thợ thuyền càng ngày càng thêm, nhứt là thợ đồn điền. Sự đấu tranh của thợ thuyền càng ngày càng hǎng hái. Dân cày cũng đã tỉnh dậy chống đế quốc và địa chủ rất kịch liệt. Những cuộc bãi công trong nǎm 1928-1929, những cuộc đấu tranh rất dữ dội của thợ thuyền và dân cày trong nǎm nay (1930) đã chứng tỏ rằng, sự đấu tranh của giai cấp ở Đông Dương ngày càng bành trướng. Điều đặc biệt và quan trọng nhất trong phong trào cách mạng ở Đông Dương là sự đấu tranh của quần chúng công nông có tính chất độc lập rõ rệt, chớ không phải là chịu ảnh hưởng quốc gia chủ nghĩa như trước nữa" </p><p></p><p>Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội là tổ chức đại diện cho giai cấp vô sản lúc bấy giờ đã tranh thủ được tầng lớp trí thức tiểu tư sản Việt Nam. </p><p></p><p>Vào cuối nǎm 1929, đầu nǎm 1930, những điều kiện cho sự ra đời một đảng vô sản ở Việt Nam đã chín muồi. </p><p></p><p><strong>4. Ba tổ chức cộng sản ở Việt Nam </strong></p><p></p><p>Vào đầu nǎm 1929, trước sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng, Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội không còn đủ sức lãnh đạo. Trong lúc đó, số lượng cộng sản đoàn trong Thanh niên cách mạng đồng chí Hội ngày thêm nhiều. Cần phải thành lập một Đảng cộng sản để lãnh đạo phong trào, đó là một yêu cầu khách quan và đã có những tiền đề nhất định. </p><p></p><p>Tháng 3 nǎm 1929, những cộng sản đoàn trong Kỳ bộ Thanh niên cách mạng đồng chí Hội Bắc Kỳ gồm các đồng chí: Trần Vǎn Cung, Trịnh Đình Cửu, Nguyễn Đức Cảnh, Ngô Gia Tự, Đỗ Ngọc Du, Nguyễn Phong Sắc, Nguyễn Vần Tuân, Dương Hạc Đính đã họp tại số nhà 5Đ, Hàm Long, Hà Nội, quyết định thành lập chi bộ cộng sản và chủ trương tiến tới thành lập Đảng cộng sản thay thế Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội để lãnh đạo cách mạng. </p><p></p><p>Ngày 1 tháng 5 nǎm 1929, tại Đại hội toàn quốc lần thứ nhất của Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội, kiến nghị của đoàn đại biểu Kỳ bộ Bắc kỳ về việc giải tán Hội để thành lập Đảng cộng sản không được chấp nhận. Đoàn đại biểu Bắc kỳ rút khỏi Đại hội về nước, ra lời kêu gọi công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân ủng hộ chủ trương thành lập Đảng cộng sản. </p><p></p><p>Ngày 17 tháng 6 nǎm 1929, những đảng viên trong chi bộ 5Đ Hàm Long đã họp tại số nhà 316 phố Khâm Thiên, Hà Nội, tuyên bố thành lập Đông Dương cộng sản Đảng, cử ra Ban chấp hành trung ương lâm thời gồm các đồng chí: Trịnh Đình Cửu, Nguyễn Đức Cảnh, Ngô Gia Tự, Trần Vǎn Cung, Nguyễn Phong Sắc, Trần Tư Chính, Nguyên Vǎn Tuân; thông qua Tuyên ngôn và quyết định xuất bản báo Búa Liềm, xúc tiến việc xây dựng tổ chức đảng và các đoàn thể quần chúng. </p><p></p><p>Sau khi Đại hội toàn quốc của Việt Nam thanh niên cách mạng đông chí hội bế mạc, 6 uỷ viên mới được bầu vào Tổng bộ là Hồ Tùng Mậu, Nguyễn Thiệu, Châu Vǎn Liêm, Nguyễn Sĩ Sách, Lê Hồng Sơn, Phạm Vǎn Đồng đã họp bàn việc thành lập Đảng cộng sản, cử ra ban trù bị gồm các đồng chí lãnh đạo Tổng bộ nói trên. Thực hiện chủ trương này, những cộng sản đoàn còn lại trong Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội đã hình thành các chi bộ cộng sản. Ngoài hai chi bộ cộng sản ở Trung Kỳ và Nam Kỳ còn có chi bộ cộng sản người Việt Nam ở Thái Lan và một chi bộ ở Hồng Kông (Trung Quốc). </p><p></p><p>Thượng tuần tháng 8 nǎm 1929, An Nam cộng sản đảng được thành lập tại cǎn phòng số 1, lầu 2 "Phong cảnh khách lâu", ở đường Bônác Philippin Sài Gòn (nay là góc đường Lê Lợi - Nguyễn Trung Trực thành phố Hồ Chí Minh). Hội nghị này đã cử ra Ban lâm thời chỉ đạo của Đảng, gồm các đồng chí Châu Vǎn Liêm (tức Việt), Nguyên Thiệu, Trần Não, Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn, Nguyễn Sĩ Sách do đồng chí Châu Vần Liêm làm bí thư. </p><p></p><p>Sau Đông Dương cộng sản Đảng và An Nam cộng sản đảng, các đảng viên Tân Việt cách mạng đảng chịu ảnh hưởng của Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội đã tiến hành Đại hội thành lập Đông Dương cộng sản liên đoàn vào ngày 1 tháng 1 nǎm 1930, gồm các đồng chí Trần Hữu Chương, Nguyễn Khoa Vǎn (tức Hải Triều, Nguyễn Xuân Thanh, Trần Đại Quả, Ngô Đức Đề, Ngô Đình Mãn, Lê Tiềm, Lê Tốn. Đại hội chưa kết thúc thì các đại biểu đã bị chính quyền Pháp bắt. </p><p></p><p>Do vậy, Đông Dương cộng sản liên đoàn ra đời nhưng chưa có Ban chấp hành trung ương. </p><p></p><p>Đông Dương cộng sản Đảng và An Nam cộng sản Đảng sau khi ra đời đã có sự tranh giành ảnh hưởng, tranh giành quần chúng và công kích lẫn nhau. Đây là những mâu thuẫn trong quá trình phát triển đi lên của phong trào cộng sản Việt Nam. </p><p></p><p>Tình hình ấy phản ánh sự ấu trĩ và khuynh hướng biệt phái, tiểu tư sản trong phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Hai đảng đã nhiều lần trao đổi thư từ để giải quyết những bất đồng nhưng vẫn không thống nhất được. </p><p></p><p>Những người cộng sản và những người yêu nước chân chính đều nhận thấy cần phải sớm khắc phục hiện tượng trên, thành lập một đảng cộng sản thống nhất để lãnh đạo cách mạng Việt Nam tiến lên. </p><p></p><p><strong>III - HỘI NGHỊ THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM - CƯƠNG LĨNH ĐẦU TIÊN CỦA ĐẢNG </strong></p><p><strong></strong></p><p><strong>1- Thống nhất các tổ chức cộng sản </strong></p><p></p><p>Trước tình hình xuất hiện ba tổ chức cộng sản trong một nước. Quốc tế cộng sản đã gửi thư cho những người cộng sản ở Đông Dương nêu rõ: "nhiệm vụ quan trọng hơn hết và tuyệt đối cần kíp của tất cả những người cộng sản Đông Dương là sớm lập một đảng cách mạng của giai cấp vô sản, nghĩa là một đảng cộng sản quần chúng. Đảng ấy phải là một đảng duy nhất và ở Đông Dương chỉ có đảng ấy là tổ chức cộng sản mà thôi". </p><p></p><p>Quốc tế cộng sản đã chỉ thị cho đồng chí Nguyễn ái Quốc chịu trách nhiệm "hợp nhất các phần tử cộng sản chân chính lại, để thành lập một đảng duy nhất". Nhận chỉ thị này, mùa thu nǎm 1929, đồng chí Nguyễn ái Quốc từ Thái Lan trở lại Hương Cảng chuẩn bị kế hoạch thực hiện nhiệm vụ lịch sử trọng đại nói trên. </p><p></p><p>Từ ngày 3 đến 7 tháng 2 nǎm 1930, Hội nghị hợp nhất được tiến hành tại nhà một công nhân ở xóm thợ đường Cửu Long gần Hương Cảng (Trung Quốc). Tham dự Hội nghị có các đồng chí Trịnh Đình Cửu và Nguyên Đức Cảnh, đại biểu của Đông Dương cộng sản đảng; Nguyên Thiệu và Châu Vǎn Liêm, đại biểu của An Nam cộng sản đang. Hội nghị tiến hành dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn ái Quốc, đại biểu của Quốc tế cộng sản. </p><p></p><p>Sau 5 ngày làm việc khẩn trương, các đại biểu đã hoàn toàn nhất trí tán thành ý kiến của đồng chí Nguyễn ái Quốc và thống nhất các tổ chức cộng sản thành một đảng lấy tên là Đảng cộng sản Việt Nam. </p><p></p><p>Hội nghị đã thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng cộng sản Việt Nam. Những vǎn kiện quan trọng này đều do đồng chí Nguyễn ái Quốc dự thảo. Hội nghị còn thông qua Lời kêu gọi của đồng chí Nguyễn ái Quốc thay mặt Quốc tế cộng sản và Đảng cộng sản Việt Nam gửi đến quần chúng công, nông, binh, đồng bào và đồng chí trong cả nước nhân dịp thành lập Đảng. </p><p></p><p>Hội nghị đã nhất trí về việc hợp nhất và tổ chức các đoàn thể quần chúng; thông qua Điều lệ tóm tắt của Công hội, Nông hội, Đoàn thanh niên cộng sản, Hội phụ nữ, Hội cứu tế đỏ, Hội phản đế (tức Mặt trận dân tộc thống nhất chống đế quốc)v.v.. </p><p></p><p>Hội nghị còn quyết định kế hoạch thống nhất các cơ sở Đảng trong cả nước, thể thức cử Ban chấp hành trung ương lâm thời và bàn việc liên hệ để thu nạp Đông Dương cộng sản liên đoàn. Hội nghị cũng nhất trí rằng, khi về nước các đại biểu đêu lấy danh nghĩa thay mặt đại biểu quốc tế (tức là đồng chí Nguyễn ái Quốc) mà tiến hành công việc của Hội nghị hợp nhất. </p><p></p><p>Nói về nỗi vui sướng của ngươi cộng sản trước sự kiện lịch sử này, về sau đồng chí Nguyễn Thiệu, đại biểu của An Nam cộng sản đảng dự Hội nghị hợp nhất đã viết: "Tôi vô cùng cảm ơn đồng chí Vương (tức đồng chí Nguyễn ái Quốc) đã làm cho tôi được thoả lòng. Đảng mới, tên mới, tất cả đều thống nhất theo tinh thần mới. Có thể nói rằng, mỗi người đều được mà chẳng ai mất gì. Đồng chí Vương đã đem lại cho chúng tôi nhiều quá, nhiều gấp mấy lần những điều mà chúng tôi mong ước. Đêm ấy về nhà, chúng tôi không ngủ được vì quá vui mừng </p><p></p><p>Nhờ sự hoạt động tích cực của các đồng chí đại biểu thay mặt đồng chí Nguyễn ái Quốc, chỉ trong một thời gian ngắn, các đảng bộ ở cơ sở đã được hợp nhất. Các tổ chức quần chúng cũng thống nhất theo điều lệ mới. Lâm thời chấp uỷ của Đảng ở các xứ được chỉ định và Ban chấp hành trung ương lâm thời được thành lập. Các đồng chí Trịnh Đình Cửu, Nguyễn Hới, Trần Vân Lan, Nguyễn Phong Sắc, Lê Mao, Phan Hữu Lầu, Hoàng Quốc Việt được các đảng bộ cử vào Ban chấp hành trung ương lâm thời do đồng chí Trịnh Đình Cửu đứng đầu. </p><p></p><p>Đảng bộ Hoa kiều ở Chợ Lớn cũng cử đồng chí Lưu Lập Đạo tham gia Ban chấp hành trung ương lâm thời của Đảng cộng sản Việt Nam. Ngày 24 tháng 2 nǎm 1930, hai đồng chí Châu Vǎn Liêm, Nguyễn Thiệu thay mặt đại biểu quốc tế, các đồng chí Phan Hữu Lầu, Hoàng Quốc việt thay mặt Ban chấp hành trung ương lâm thời cùng với đồng chí Ngô Gia Tự, Bí thư lâm thời chấp uỷ của Đảng bộ Nam Kỳ đã họp và quyết định chấp nhận Đông Dương cộng sản liên đoàn gia nhập Đảng cộng sản Việt Nam. </p><p></p><p>Như vậy, chỉ nửa tháng sau, kể từ ngày Hội nghị hợp nhất bế mạc, ba tổ chức cộng sản ở Đông Dương đã hoàn toàn thống nhất trong một đảng duy nhất - Đảng cộng sản Việt Nam. </p><p></p><p>Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản ở Việt Nam tháng 2 nǎm 1930 có ý nghĩa như Đại hôi thành lập Đảng. Hội nghị đã vạch ra một đường lối cách mạng và đường lối xây dựng Đảng đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với điều kiện một nước thuộc địa, nửa phong kiến. Đường lối đúng đắn đó là điều kiện quan trọng nhất để ba tổ chức cộng sản nhanh chóng thống nhất ý chí và hành động, gánh vác sứ mệnh lịch sử giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội. </p><p></p><p>Đảng cộng sản Việt Nam ra đời với đường lối chiến lược đúng đắn là sự cổ vũ to lớn đối với phong trào cách mạng đang ở thời kỳ phát triển sôi sục. Đường lối của Đảng được công bố trở thành tiếng kèn tập hợp lực lượng quần chúng, chuẩn bị cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. </p><p></p><p>Chính cương lĩnh vắn tắt, Sách lược vắn tắt và Lời kêu gọi được Hội nghị hợp nhất thông qua là Cương lĩnh đầu tiên của Đảng... </p><p></p><p><strong>2- Cương lĩnh đầu tiên của Đảng </strong></p><p></p><p>Chính cương vắn tắt của Đảng nhận định rằng, Việt Nam là một xứ thuộc địa, nửa phong kiến, công nghiệp không phát triển "vì tư bản Pháp hết sức ngǎn trở sức sinh sản, làm cho nghành công nghiệp bản xứ khổng thể mở mang được". </p><p></p><p>Kinh tế nông nghiệp chiếm ưu thế, "nông nghệ ngày một tập trung đã phát sinh ra lắm khủng hoảng, nông dân thất nghiệp nhiều". Tình hình đó đưa đến mâu thuẫn ngày càng kịch liệt giữa một bên là dân tộc ta trong đó có công nhân, nông dân và toàn thể dân tộc với một bên là đế quốc Pháp và tay sai của chúng. Đánh giá hai giai cấp tư sản và địa chủ là những đối tượng cần xoá bỏ, Đảng ta đã có sự phân biệt: "Tư bản bản xứ không có thế lực gì ta không nên nói cho họ đi về phe đế quốc được, chỉ bọn đại địa chủ mới có thế lực và đứng hẳn về phe đế quốc chủ nghĩa". Muốn giải quyết mâu thuẫn đó, nhân dân Việt Nam phải làm "tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản". </p><p></p><p>Đây là một thể loại cách mạng vô sản ở các nước thuộc địa mà sinh thời Mác, Lênin và ngay cả Quốc tế cộng sản cũng chưa nói đến. Sau này, Đang ta hoàn chỉnh tên gọi của thể loại cách mạng này, và được gọi là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên chủ nghĩa xã hội. </p><p></p><p>Mục tiêu chủ yếu lúc này là đánh đổ ách thống trị của đế quốc xâm lược và tay sai của chúng, giành độc lập dân tộc và dân chủ cho nhân dân. Mục đích cuối cùng là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam. </p><p></p><p>Theo tư tưởng của đồng chí Nguyễn ái Quốc thì cuộc cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản bao gồm hai cuộc vận động là cuộc vận động giải phóng dân tộc và cuộc vận động xây dựng đất nước độc lập tự do hạnh phúc, phần lớn coi giai đoạn cách mạng là giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội. Hai cuộc vận động này liên quan mật thiết với nhau, ảnh hưởng và thúc đẩy lẫn nhau, cuộc vận động trước thành công tạo điều kiện cho cuộc vận động sau giành thắng lợi, Vì vậy, giữa hai giai đoạn cách mạng này: giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội không có bức tường ngǎn cách, không phải tiến hành một cuộc cách mạng chính trị lân thứ hai để giải quyết vấn đê chính quyền như cách mạng Nga và cách mạng Trung Quốc. </p><p></p><p>Điều đó chứng tỏ rằng, ngay từ khi ra đời, Đảng ta đã nǎm vững nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, vận dụng sáng tạo kinh nghiệm cách mạng thế giới, thấu suốt con đường phát triển tất yếu của cách mạng Việt Nam, nhận rõ mối quan hệ biện chứng giữa cách mạng dân tộc dân chủ với cách mạng xã hội chủ nghĩa. Cương lĩnh đâu tiên của Đảng là cương lĩnh giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. </p><p></p><p>Nhiệm vụ cách mạng mà Cương lĩnh vạch ra là "đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập tổ chức ra quân đội công nông" thâu hết sản nghiệp lớn... của tư bản đế quốc,..thâu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày nghèo, bỏ sưu thuế cho dân nghèo mở mang công nghiệp và nông nghiệp thi hành luật ngày làm 8 giờ" </p><p></p><p>Các nhiệm vụ đó bao hàm cả nội dung dân tộc dân chủ và nội dung xã hội chủ nghĩa. Song, nổi bật là nhiệm vụ chống đế quốc và tay sai của chúng (đại địa chủ, đại tư sản phản cách mạng và vua quan phong kiến) giành lại độc lập, tự do, dân chủ cho toàn dân tộc. </p><p></p><p>Về lực lượng cách mạng, Cương lĩnh của Đảng chủ trương đoàn kết tất cả các giai cấp cách mạng, các lực lượng tiến bộ và cá nhân yêu nước, tập trung lực lượng đánh đổ kẻ thù chủ yếu của dân tộc là chủ nghĩa đế quốc Pháp và tay sai, mở đường cho cách mạng phát triển đến thắng lợi hoàn toàn. </p><p></p><p>Để bảo đảm vai trò lãnh đạo của đảng tiên phong của giai cấp công nhân, Đảng chủ trương giải quyết hài hoà từng bước quyền lợi của các giai cấp cách mạng dù còn có những mâu thuẫn nhất định về quyền lợi. Vê vấn đê ruộng đất, "xương sống của cách mạng thuộc địa", Đảng chủ trương tiến hành từng bước với những nội dung thích hợp với từng thời kỳ cách mạng. ở giai đoạn giải phóng dân tộc thì quốc hữu hoá toàn bộ đồn điền và đất đai của đế quốc và địa chủ phản cách mạng Việt Nam để chia cho nông dân nghèo, "phải dựa vào hạng dân cày nghèo làm thổ địa cách mạng đánh trúc bọn đại địa chủ và phong kiến" Đối với chủ nghĩa tư bản thì "thâu hết sản nghiệp lớn (như công nghiệp, vận tải, ngân hàng v.v.) của tư bản đế quốc chủ nghĩa Pháp để giao cho chính phủ công nông binh". Còn đối với các tầng lớp "phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ trung lập". Sau khi cách mạng giải phóng dân tộc giành được thắng lợi, chính quyền đã về tay công nông, Đảng sẽ lãnh đạo tiến hành những cải cách nhằm sửa đổi lại những bất công và phân phối lợi nhuận giữa những nhà tư sản và những người vô sản một cách công bằng hơn. </p><p></p><p>Trong khi khẳng định "công nông là gốc cách mạng", Sách lược vắn tắt của Đảng vạch rõ, "phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông Thanh niên, Tân Việt, v.v. để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp" </p><p></p><p>Về nguyên tắc liên minh, Sách lược vắn tắt đã viết: "Trong khi liên lạc với các giai cấp phải rất cẩn thận, không khi nào nhượng một chút lợi ích gì của công nông mà đi vào đường thoả hiệp" </p><p></p><p>Cương lĩnh khẳng định cách mạng Việt Nam phải tiến hành bằng bạo lực cách mạng của quần chúng, để đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, rồi dựng ra chính phủ công nông binh chứ không phải bằng con đường cải lương. </p><p></p><p>Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới, đứng trong mặt trận cách mạng của các dân tộc bị áp bức và giai cấp công nhân thế giới mà đội quân tiên phong của mặt trận này là Liên Xô. Sách lược vắn tắt ghi rõ: "Trong khi tuyên truyền cái khẩu hiệu nước An Nam độc lập, phải đồng tuyên truyền và thực hành liên lạc với bị áp bức dân tộc và vô sản giai cấp thế giới, nhất là vô sản giai cấp Pháp" </p><p></p><p>Cương lĩnh đầu tiên khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đảng "thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng... phải thu phục cho được đại bộ phận dân cày và phải dựa vào hạng dân cày nghèo làm thổ địa cách mạng đánh trúc bọn đại địa chủ và phong kiến", đồng thời phải liên minh với các giai cấp cách mạng và tầng lớp yêu nước khác, đoàn kết họ, tổ chức họ đấu tranh cho giai phóng dân tộc và để đi tới chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. </p><p></p><p>Đảng cộng sản Việt Nam kết nạp đảng viên không những trong công nhân tiên tiến, mà còn kết nạp những người tiên tiến trong nông dân lao động, trí thức cách mạng và trong các tầng lớp khác. Đảng cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp vô sản, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng. Đảng là một khối thống nhất ý chí và hành động. Đảng viên phải "tin theo chủ nghĩa cộng sản, chương trình Đảng và Quốc tế cộng sản, hǎng hái tranh đấu và dám hy sinh, phục tùng mệnh lệnh Đảng và đóng kinh phí, chịu phấn đấu trong một bộ phận Đảng". </p><p></p><p>Trong tôn chỉ của mình, Đảng chỉ rõ phải "lãnh đạo quần chúng lao khổ làm giai cấp tranh đấu để tiêu trừ tư bản đế quốc chủ nghĩa, làm cho thực hiện xã hội cộng sản". </p><p></p><p>Do sớm nhận thức được sự thống nhất giữa giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội trong cách mạng vô sản ở nước thuộc địa, coi trọng độc lập tự chủ, tự lực tự cường của từng quốc gia, Hội nghị hợp nhất chủ trương thành lập Đảng cộng sản Việt Nam; đồng thời có kế hoạch giúp những người cách mạng ở Lào và ở Campuchia sáng lập ra đảng tiên phong của dân tộc mình. Sau ngày Đảng cộng sản Việt Nam thành lập, tháng 4 nǎm 1930, một số chi bộ cộng sản đầu tiên của giai cấp vô sản và nhân dân lao động Lào đã ra đời ở Viên Chǎn, Thà Khẹt, Bò Neng. Đầu nǎm 1930, một số nhóm cộng sản ở Campuchia được thành lập ở Phnômpênh và ở Côngpôngchàm. Chi bộ cộng sản đâu tiên ở Campuchia được thành lập ở trường trung học Xixôvát (Phnômpênh).</p><p></p><p>( Sưu tầm)</p></blockquote><p></p>
[QUOTE="Bút Nghiên, post: 21639, member: 699"] [B]3- Vai trò của Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội [/B] Những nǎm trước, các cuộc đấu tranh của công nhân đòi tự do dân chủ, đòi cải thiện đời sống, tuy đã có ý thức giai cấp nhưng vẫn nằm trong phong trào dân tộc nói chung, Công nhân đấu tranh đòi thả nhà cách mạng Phan Bội Châu, để tang nhà chí sĩ Phan Chu Trinh, hay đình công đòi thả Nguyễn An Ninh (1925-1926), thể hiện lập trường tư tưởng của họ chủ yếu là yêu nước, giải phóng dân tộc. Những nǎm 1928-1929, khi Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội thực hiện chủ trương "vô sản hoá" thì phong trào công nhân đã có những bước phát triển rõ rệt. Những cuộc đình công hay chống đi phu đi lính vẫn nhằm vào bọn tư bản thực dân và tay sai của chúng, nhưng đã có tổ chức, có kỷ luật hơn. Phản ánh bước phát triển này, đồng chí Tôn Đức Thắng, một chiến sĩ cách mạng vô sản đã từng kéo cờ phản chiến trên hạm đội của Pháp ở Hắc Hải để bảo vệ Cách mạng tháng Mười Nga, đã viết: Từ chỗ phong trào rời rạc, nhờ ảnh hưởng của cuốn Bản án chế độ thực dân Pháp, báo Người cùng khổ, và mấy tờ Việt Nam hồn, mà bước đâu lan rộng, bước đâu có tổ chức, để đầu nǎm 1927 công nhân đi vào phong trào Thanh niên cách mạng đồng chí Hội một cách sâu rộng. Từ hình thức các hội hữu ái, tương tế, giai cấp công nhân đã tự tổ chức ra công hội. Từ công hội nhà máy Ba Son (1925) đã ra đời các công hội nhà máy xe lửa Trường Thi (Vinh - Nghệ An), công hội nhà máy xi mǎng Hải Phòng, công hội nhà máy dệt Nam Định, công hội các mỏ than Mạo Khê, Hồng Gai v. v.. Ngày 28 tháng 4 nǎm 1929, Tổng công hội Bắc Kỳ được thành lập. Tiếp đó, tháng 10 nǎm 1929, Tổng công hội Nam Kỳ cũng ra đời. Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội cũng hoạt động và phát huy ảnh hưởng mạnh mẽ trong phong trào nông dân và có vai trò quyết định trong việc làm cho phong trào nông dân ngày càng xích lại gần phong trào công nhân. Thực tế lịch sử Việt Nam chứng minh rằng, trong cuộc đấu tranh giành quyền lãnh đạo cách mạng giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản, phần quyết định là giai cấp nào nắm được nông dân. Cương lĩnh của Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội đã đề ra: "Tịch ký và đem về công tất cả ruộng đất của tụi đồn điền nhà chung và quý tộc, vua chúa. Tịch ký và đem về công tất cả ruộng đất của địa chủ trên 100 mẫu. Đất ruộng tịch ký về phân phối cho dân cày cày cấy chung". Khẩu hiệu đấu tranh của Việt Nam thanh niên cách mang đồng chí Hội có nói: "Miễn thuế ruộng nǎm mất mùa" "Đất bồi, đất hoang về dân cày. Phản đối sự cưỡng chiếm những đất ấy", "Thực hành 1/4 lúa ruộng cho địa chủ, đồn điền", "miễn góp lúa ruộng nǎm mất mùa", "Đóng góp tạp dịch bình đẳng, phản đối sự miễn sưu, miễn dịch cho quý tộc và nhà giàu" Trái lại, tất cả các đảng và tổ chức yêu nước khác, kể cả Việt Nam quốc dân Đảng, ngoài chủ trương giải phóng dân tộc đều không có chủ trương đấu tranh cho quyền lợi của công nhân và nông dân. Đánh giá sự trưởng thành của phong trào công nông trong những nǎm 1928-1929, Dự thảo Luận cương chính trị (l0-1930) của Đảng viết: "Vô sản giai cấp Đông Dương tuy chưa đông đúc, nhưng số thợ thuyền càng ngày càng thêm, nhứt là thợ đồn điền. Sự đấu tranh của thợ thuyền càng ngày càng hǎng hái. Dân cày cũng đã tỉnh dậy chống đế quốc và địa chủ rất kịch liệt. Những cuộc bãi công trong nǎm 1928-1929, những cuộc đấu tranh rất dữ dội của thợ thuyền và dân cày trong nǎm nay (1930) đã chứng tỏ rằng, sự đấu tranh của giai cấp ở Đông Dương ngày càng bành trướng. Điều đặc biệt và quan trọng nhất trong phong trào cách mạng ở Đông Dương là sự đấu tranh của quần chúng công nông có tính chất độc lập rõ rệt, chớ không phải là chịu ảnh hưởng quốc gia chủ nghĩa như trước nữa" Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội là tổ chức đại diện cho giai cấp vô sản lúc bấy giờ đã tranh thủ được tầng lớp trí thức tiểu tư sản Việt Nam. Vào cuối nǎm 1929, đầu nǎm 1930, những điều kiện cho sự ra đời một đảng vô sản ở Việt Nam đã chín muồi. [B]4. Ba tổ chức cộng sản ở Việt Nam [/B] Vào đầu nǎm 1929, trước sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng, Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội không còn đủ sức lãnh đạo. Trong lúc đó, số lượng cộng sản đoàn trong Thanh niên cách mạng đồng chí Hội ngày thêm nhiều. Cần phải thành lập một Đảng cộng sản để lãnh đạo phong trào, đó là một yêu cầu khách quan và đã có những tiền đề nhất định. Tháng 3 nǎm 1929, những cộng sản đoàn trong Kỳ bộ Thanh niên cách mạng đồng chí Hội Bắc Kỳ gồm các đồng chí: Trần Vǎn Cung, Trịnh Đình Cửu, Nguyễn Đức Cảnh, Ngô Gia Tự, Đỗ Ngọc Du, Nguyễn Phong Sắc, Nguyễn Vần Tuân, Dương Hạc Đính đã họp tại số nhà 5Đ, Hàm Long, Hà Nội, quyết định thành lập chi bộ cộng sản và chủ trương tiến tới thành lập Đảng cộng sản thay thế Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội để lãnh đạo cách mạng. Ngày 1 tháng 5 nǎm 1929, tại Đại hội toàn quốc lần thứ nhất của Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội, kiến nghị của đoàn đại biểu Kỳ bộ Bắc kỳ về việc giải tán Hội để thành lập Đảng cộng sản không được chấp nhận. Đoàn đại biểu Bắc kỳ rút khỏi Đại hội về nước, ra lời kêu gọi công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân ủng hộ chủ trương thành lập Đảng cộng sản. Ngày 17 tháng 6 nǎm 1929, những đảng viên trong chi bộ 5Đ Hàm Long đã họp tại số nhà 316 phố Khâm Thiên, Hà Nội, tuyên bố thành lập Đông Dương cộng sản Đảng, cử ra Ban chấp hành trung ương lâm thời gồm các đồng chí: Trịnh Đình Cửu, Nguyễn Đức Cảnh, Ngô Gia Tự, Trần Vǎn Cung, Nguyễn Phong Sắc, Trần Tư Chính, Nguyên Vǎn Tuân; thông qua Tuyên ngôn và quyết định xuất bản báo Búa Liềm, xúc tiến việc xây dựng tổ chức đảng và các đoàn thể quần chúng. Sau khi Đại hội toàn quốc của Việt Nam thanh niên cách mạng đông chí hội bế mạc, 6 uỷ viên mới được bầu vào Tổng bộ là Hồ Tùng Mậu, Nguyễn Thiệu, Châu Vǎn Liêm, Nguyễn Sĩ Sách, Lê Hồng Sơn, Phạm Vǎn Đồng đã họp bàn việc thành lập Đảng cộng sản, cử ra ban trù bị gồm các đồng chí lãnh đạo Tổng bộ nói trên. Thực hiện chủ trương này, những cộng sản đoàn còn lại trong Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội đã hình thành các chi bộ cộng sản. Ngoài hai chi bộ cộng sản ở Trung Kỳ và Nam Kỳ còn có chi bộ cộng sản người Việt Nam ở Thái Lan và một chi bộ ở Hồng Kông (Trung Quốc). Thượng tuần tháng 8 nǎm 1929, An Nam cộng sản đảng được thành lập tại cǎn phòng số 1, lầu 2 "Phong cảnh khách lâu", ở đường Bônác Philippin Sài Gòn (nay là góc đường Lê Lợi - Nguyễn Trung Trực thành phố Hồ Chí Minh). Hội nghị này đã cử ra Ban lâm thời chỉ đạo của Đảng, gồm các đồng chí Châu Vǎn Liêm (tức Việt), Nguyên Thiệu, Trần Não, Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn, Nguyễn Sĩ Sách do đồng chí Châu Vần Liêm làm bí thư. Sau Đông Dương cộng sản Đảng và An Nam cộng sản đảng, các đảng viên Tân Việt cách mạng đảng chịu ảnh hưởng của Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội đã tiến hành Đại hội thành lập Đông Dương cộng sản liên đoàn vào ngày 1 tháng 1 nǎm 1930, gồm các đồng chí Trần Hữu Chương, Nguyễn Khoa Vǎn (tức Hải Triều, Nguyễn Xuân Thanh, Trần Đại Quả, Ngô Đức Đề, Ngô Đình Mãn, Lê Tiềm, Lê Tốn. Đại hội chưa kết thúc thì các đại biểu đã bị chính quyền Pháp bắt. Do vậy, Đông Dương cộng sản liên đoàn ra đời nhưng chưa có Ban chấp hành trung ương. Đông Dương cộng sản Đảng và An Nam cộng sản Đảng sau khi ra đời đã có sự tranh giành ảnh hưởng, tranh giành quần chúng và công kích lẫn nhau. Đây là những mâu thuẫn trong quá trình phát triển đi lên của phong trào cộng sản Việt Nam. Tình hình ấy phản ánh sự ấu trĩ và khuynh hướng biệt phái, tiểu tư sản trong phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Hai đảng đã nhiều lần trao đổi thư từ để giải quyết những bất đồng nhưng vẫn không thống nhất được. Những người cộng sản và những người yêu nước chân chính đều nhận thấy cần phải sớm khắc phục hiện tượng trên, thành lập một đảng cộng sản thống nhất để lãnh đạo cách mạng Việt Nam tiến lên. [B]III - HỘI NGHỊ THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM - CƯƠNG LĨNH ĐẦU TIÊN CỦA ĐẢNG 1- Thống nhất các tổ chức cộng sản [/B] Trước tình hình xuất hiện ba tổ chức cộng sản trong một nước. Quốc tế cộng sản đã gửi thư cho những người cộng sản ở Đông Dương nêu rõ: "nhiệm vụ quan trọng hơn hết và tuyệt đối cần kíp của tất cả những người cộng sản Đông Dương là sớm lập một đảng cách mạng của giai cấp vô sản, nghĩa là một đảng cộng sản quần chúng. Đảng ấy phải là một đảng duy nhất và ở Đông Dương chỉ có đảng ấy là tổ chức cộng sản mà thôi". Quốc tế cộng sản đã chỉ thị cho đồng chí Nguyễn ái Quốc chịu trách nhiệm "hợp nhất các phần tử cộng sản chân chính lại, để thành lập một đảng duy nhất". Nhận chỉ thị này, mùa thu nǎm 1929, đồng chí Nguyễn ái Quốc từ Thái Lan trở lại Hương Cảng chuẩn bị kế hoạch thực hiện nhiệm vụ lịch sử trọng đại nói trên. Từ ngày 3 đến 7 tháng 2 nǎm 1930, Hội nghị hợp nhất được tiến hành tại nhà một công nhân ở xóm thợ đường Cửu Long gần Hương Cảng (Trung Quốc). Tham dự Hội nghị có các đồng chí Trịnh Đình Cửu và Nguyên Đức Cảnh, đại biểu của Đông Dương cộng sản đảng; Nguyên Thiệu và Châu Vǎn Liêm, đại biểu của An Nam cộng sản đang. Hội nghị tiến hành dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn ái Quốc, đại biểu của Quốc tế cộng sản. Sau 5 ngày làm việc khẩn trương, các đại biểu đã hoàn toàn nhất trí tán thành ý kiến của đồng chí Nguyễn ái Quốc và thống nhất các tổ chức cộng sản thành một đảng lấy tên là Đảng cộng sản Việt Nam. Hội nghị đã thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng cộng sản Việt Nam. Những vǎn kiện quan trọng này đều do đồng chí Nguyễn ái Quốc dự thảo. Hội nghị còn thông qua Lời kêu gọi của đồng chí Nguyễn ái Quốc thay mặt Quốc tế cộng sản và Đảng cộng sản Việt Nam gửi đến quần chúng công, nông, binh, đồng bào và đồng chí trong cả nước nhân dịp thành lập Đảng. Hội nghị đã nhất trí về việc hợp nhất và tổ chức các đoàn thể quần chúng; thông qua Điều lệ tóm tắt của Công hội, Nông hội, Đoàn thanh niên cộng sản, Hội phụ nữ, Hội cứu tế đỏ, Hội phản đế (tức Mặt trận dân tộc thống nhất chống đế quốc)v.v.. Hội nghị còn quyết định kế hoạch thống nhất các cơ sở Đảng trong cả nước, thể thức cử Ban chấp hành trung ương lâm thời và bàn việc liên hệ để thu nạp Đông Dương cộng sản liên đoàn. Hội nghị cũng nhất trí rằng, khi về nước các đại biểu đêu lấy danh nghĩa thay mặt đại biểu quốc tế (tức là đồng chí Nguyễn ái Quốc) mà tiến hành công việc của Hội nghị hợp nhất. Nói về nỗi vui sướng của ngươi cộng sản trước sự kiện lịch sử này, về sau đồng chí Nguyễn Thiệu, đại biểu của An Nam cộng sản đảng dự Hội nghị hợp nhất đã viết: "Tôi vô cùng cảm ơn đồng chí Vương (tức đồng chí Nguyễn ái Quốc) đã làm cho tôi được thoả lòng. Đảng mới, tên mới, tất cả đều thống nhất theo tinh thần mới. Có thể nói rằng, mỗi người đều được mà chẳng ai mất gì. Đồng chí Vương đã đem lại cho chúng tôi nhiều quá, nhiều gấp mấy lần những điều mà chúng tôi mong ước. Đêm ấy về nhà, chúng tôi không ngủ được vì quá vui mừng Nhờ sự hoạt động tích cực của các đồng chí đại biểu thay mặt đồng chí Nguyễn ái Quốc, chỉ trong một thời gian ngắn, các đảng bộ ở cơ sở đã được hợp nhất. Các tổ chức quần chúng cũng thống nhất theo điều lệ mới. Lâm thời chấp uỷ của Đảng ở các xứ được chỉ định và Ban chấp hành trung ương lâm thời được thành lập. Các đồng chí Trịnh Đình Cửu, Nguyễn Hới, Trần Vân Lan, Nguyễn Phong Sắc, Lê Mao, Phan Hữu Lầu, Hoàng Quốc Việt được các đảng bộ cử vào Ban chấp hành trung ương lâm thời do đồng chí Trịnh Đình Cửu đứng đầu. Đảng bộ Hoa kiều ở Chợ Lớn cũng cử đồng chí Lưu Lập Đạo tham gia Ban chấp hành trung ương lâm thời của Đảng cộng sản Việt Nam. Ngày 24 tháng 2 nǎm 1930, hai đồng chí Châu Vǎn Liêm, Nguyễn Thiệu thay mặt đại biểu quốc tế, các đồng chí Phan Hữu Lầu, Hoàng Quốc việt thay mặt Ban chấp hành trung ương lâm thời cùng với đồng chí Ngô Gia Tự, Bí thư lâm thời chấp uỷ của Đảng bộ Nam Kỳ đã họp và quyết định chấp nhận Đông Dương cộng sản liên đoàn gia nhập Đảng cộng sản Việt Nam. Như vậy, chỉ nửa tháng sau, kể từ ngày Hội nghị hợp nhất bế mạc, ba tổ chức cộng sản ở Đông Dương đã hoàn toàn thống nhất trong một đảng duy nhất - Đảng cộng sản Việt Nam. Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản ở Việt Nam tháng 2 nǎm 1930 có ý nghĩa như Đại hôi thành lập Đảng. Hội nghị đã vạch ra một đường lối cách mạng và đường lối xây dựng Đảng đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với điều kiện một nước thuộc địa, nửa phong kiến. Đường lối đúng đắn đó là điều kiện quan trọng nhất để ba tổ chức cộng sản nhanh chóng thống nhất ý chí và hành động, gánh vác sứ mệnh lịch sử giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội. Đảng cộng sản Việt Nam ra đời với đường lối chiến lược đúng đắn là sự cổ vũ to lớn đối với phong trào cách mạng đang ở thời kỳ phát triển sôi sục. Đường lối của Đảng được công bố trở thành tiếng kèn tập hợp lực lượng quần chúng, chuẩn bị cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Chính cương lĩnh vắn tắt, Sách lược vắn tắt và Lời kêu gọi được Hội nghị hợp nhất thông qua là Cương lĩnh đầu tiên của Đảng... [B]2- Cương lĩnh đầu tiên của Đảng [/B] Chính cương vắn tắt của Đảng nhận định rằng, Việt Nam là một xứ thuộc địa, nửa phong kiến, công nghiệp không phát triển "vì tư bản Pháp hết sức ngǎn trở sức sinh sản, làm cho nghành công nghiệp bản xứ khổng thể mở mang được". Kinh tế nông nghiệp chiếm ưu thế, "nông nghệ ngày một tập trung đã phát sinh ra lắm khủng hoảng, nông dân thất nghiệp nhiều". Tình hình đó đưa đến mâu thuẫn ngày càng kịch liệt giữa một bên là dân tộc ta trong đó có công nhân, nông dân và toàn thể dân tộc với một bên là đế quốc Pháp và tay sai của chúng. Đánh giá hai giai cấp tư sản và địa chủ là những đối tượng cần xoá bỏ, Đảng ta đã có sự phân biệt: "Tư bản bản xứ không có thế lực gì ta không nên nói cho họ đi về phe đế quốc được, chỉ bọn đại địa chủ mới có thế lực và đứng hẳn về phe đế quốc chủ nghĩa". Muốn giải quyết mâu thuẫn đó, nhân dân Việt Nam phải làm "tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản". Đây là một thể loại cách mạng vô sản ở các nước thuộc địa mà sinh thời Mác, Lênin và ngay cả Quốc tế cộng sản cũng chưa nói đến. Sau này, Đang ta hoàn chỉnh tên gọi của thể loại cách mạng này, và được gọi là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên chủ nghĩa xã hội. Mục tiêu chủ yếu lúc này là đánh đổ ách thống trị của đế quốc xâm lược và tay sai của chúng, giành độc lập dân tộc và dân chủ cho nhân dân. Mục đích cuối cùng là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam. Theo tư tưởng của đồng chí Nguyễn ái Quốc thì cuộc cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản bao gồm hai cuộc vận động là cuộc vận động giải phóng dân tộc và cuộc vận động xây dựng đất nước độc lập tự do hạnh phúc, phần lớn coi giai đoạn cách mạng là giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội. Hai cuộc vận động này liên quan mật thiết với nhau, ảnh hưởng và thúc đẩy lẫn nhau, cuộc vận động trước thành công tạo điều kiện cho cuộc vận động sau giành thắng lợi, Vì vậy, giữa hai giai đoạn cách mạng này: giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội không có bức tường ngǎn cách, không phải tiến hành một cuộc cách mạng chính trị lân thứ hai để giải quyết vấn đê chính quyền như cách mạng Nga và cách mạng Trung Quốc. Điều đó chứng tỏ rằng, ngay từ khi ra đời, Đảng ta đã nǎm vững nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, vận dụng sáng tạo kinh nghiệm cách mạng thế giới, thấu suốt con đường phát triển tất yếu của cách mạng Việt Nam, nhận rõ mối quan hệ biện chứng giữa cách mạng dân tộc dân chủ với cách mạng xã hội chủ nghĩa. Cương lĩnh đâu tiên của Đảng là cương lĩnh giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ cách mạng mà Cương lĩnh vạch ra là "đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập tổ chức ra quân đội công nông" thâu hết sản nghiệp lớn... của tư bản đế quốc,..thâu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày nghèo, bỏ sưu thuế cho dân nghèo mở mang công nghiệp và nông nghiệp thi hành luật ngày làm 8 giờ" Các nhiệm vụ đó bao hàm cả nội dung dân tộc dân chủ và nội dung xã hội chủ nghĩa. Song, nổi bật là nhiệm vụ chống đế quốc và tay sai của chúng (đại địa chủ, đại tư sản phản cách mạng và vua quan phong kiến) giành lại độc lập, tự do, dân chủ cho toàn dân tộc. Về lực lượng cách mạng, Cương lĩnh của Đảng chủ trương đoàn kết tất cả các giai cấp cách mạng, các lực lượng tiến bộ và cá nhân yêu nước, tập trung lực lượng đánh đổ kẻ thù chủ yếu của dân tộc là chủ nghĩa đế quốc Pháp và tay sai, mở đường cho cách mạng phát triển đến thắng lợi hoàn toàn. Để bảo đảm vai trò lãnh đạo của đảng tiên phong của giai cấp công nhân, Đảng chủ trương giải quyết hài hoà từng bước quyền lợi của các giai cấp cách mạng dù còn có những mâu thuẫn nhất định về quyền lợi. Vê vấn đê ruộng đất, "xương sống của cách mạng thuộc địa", Đảng chủ trương tiến hành từng bước với những nội dung thích hợp với từng thời kỳ cách mạng. ở giai đoạn giải phóng dân tộc thì quốc hữu hoá toàn bộ đồn điền và đất đai của đế quốc và địa chủ phản cách mạng Việt Nam để chia cho nông dân nghèo, "phải dựa vào hạng dân cày nghèo làm thổ địa cách mạng đánh trúc bọn đại địa chủ và phong kiến" Đối với chủ nghĩa tư bản thì "thâu hết sản nghiệp lớn (như công nghiệp, vận tải, ngân hàng v.v.) của tư bản đế quốc chủ nghĩa Pháp để giao cho chính phủ công nông binh". Còn đối với các tầng lớp "phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ trung lập". Sau khi cách mạng giải phóng dân tộc giành được thắng lợi, chính quyền đã về tay công nông, Đảng sẽ lãnh đạo tiến hành những cải cách nhằm sửa đổi lại những bất công và phân phối lợi nhuận giữa những nhà tư sản và những người vô sản một cách công bằng hơn. Trong khi khẳng định "công nông là gốc cách mạng", Sách lược vắn tắt của Đảng vạch rõ, "phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông Thanh niên, Tân Việt, v.v. để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp" Về nguyên tắc liên minh, Sách lược vắn tắt đã viết: "Trong khi liên lạc với các giai cấp phải rất cẩn thận, không khi nào nhượng một chút lợi ích gì của công nông mà đi vào đường thoả hiệp" Cương lĩnh khẳng định cách mạng Việt Nam phải tiến hành bằng bạo lực cách mạng của quần chúng, để đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, rồi dựng ra chính phủ công nông binh chứ không phải bằng con đường cải lương. Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới, đứng trong mặt trận cách mạng của các dân tộc bị áp bức và giai cấp công nhân thế giới mà đội quân tiên phong của mặt trận này là Liên Xô. Sách lược vắn tắt ghi rõ: "Trong khi tuyên truyền cái khẩu hiệu nước An Nam độc lập, phải đồng tuyên truyền và thực hành liên lạc với bị áp bức dân tộc và vô sản giai cấp thế giới, nhất là vô sản giai cấp Pháp" Cương lĩnh đầu tiên khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đảng "thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng... phải thu phục cho được đại bộ phận dân cày và phải dựa vào hạng dân cày nghèo làm thổ địa cách mạng đánh trúc bọn đại địa chủ và phong kiến", đồng thời phải liên minh với các giai cấp cách mạng và tầng lớp yêu nước khác, đoàn kết họ, tổ chức họ đấu tranh cho giai phóng dân tộc và để đi tới chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Đảng cộng sản Việt Nam kết nạp đảng viên không những trong công nhân tiên tiến, mà còn kết nạp những người tiên tiến trong nông dân lao động, trí thức cách mạng và trong các tầng lớp khác. Đảng cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp vô sản, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng. Đảng là một khối thống nhất ý chí và hành động. Đảng viên phải "tin theo chủ nghĩa cộng sản, chương trình Đảng và Quốc tế cộng sản, hǎng hái tranh đấu và dám hy sinh, phục tùng mệnh lệnh Đảng và đóng kinh phí, chịu phấn đấu trong một bộ phận Đảng". Trong tôn chỉ của mình, Đảng chỉ rõ phải "lãnh đạo quần chúng lao khổ làm giai cấp tranh đấu để tiêu trừ tư bản đế quốc chủ nghĩa, làm cho thực hiện xã hội cộng sản". Do sớm nhận thức được sự thống nhất giữa giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội trong cách mạng vô sản ở nước thuộc địa, coi trọng độc lập tự chủ, tự lực tự cường của từng quốc gia, Hội nghị hợp nhất chủ trương thành lập Đảng cộng sản Việt Nam; đồng thời có kế hoạch giúp những người cách mạng ở Lào và ở Campuchia sáng lập ra đảng tiên phong của dân tộc mình. Sau ngày Đảng cộng sản Việt Nam thành lập, tháng 4 nǎm 1930, một số chi bộ cộng sản đầu tiên của giai cấp vô sản và nhân dân lao động Lào đã ra đời ở Viên Chǎn, Thà Khẹt, Bò Neng. Đầu nǎm 1930, một số nhóm cộng sản ở Campuchia được thành lập ở Phnômpênh và ở Côngpôngchàm. Chi bộ cộng sản đâu tiên ở Campuchia được thành lập ở trường trung học Xixôvát (Phnômpênh). ( Sưu tầm) [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch sử Việt Nam
Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam
Đảng cộng sản Việt Nam ra đời và cương lĩnh đầu tiên của Đảng
Top