Hỏi Dại Khôn

Gió vẫn cuốn đi tuốt tuột, mây vẫn bay không ngừng, thời gian như phi hoa lạc diệp...Hai mươi lăm năm mất tin tưởng.#, rồi một ngày ngẫu nhiên gặp laị bạn bè qua cái thể giới ảo này; bao buồn vui lẫn lộn vu vơ, những suy nghĩ mơ hồ...nhưng rồi cũng từ cái thế giới ảo này tôi lại nhận tin cậu đã ra đi về miền phương ngoại.

Vẫn biết sanh-tử là chuyện thường tình nhưng làm sao lòng không khỏi đau thương đây? Càng đau thương hơn khi biết mẹ cậu vẫn nhớ và nhắn tin tôi nhưng không biết tôi ở phương trời nào! Không biết để lệ nó rơi có nhẹ nhõm hơn không? Lòng đau thương sao khi tôi biết rằng không bao giờ còn gặp laị cậu nữa. Tôi và cậu có tính giống nhau, có nhiều nét tương đồng.


Tôi và cậu là những kẻ lẹt đẹt, hậu đậu không cạnh tranh và không có khả năng cạnh tranh với thế cục này! Khi tôi có những bất tương ưng trong cuộc đời thì tôi quay về học Phật. Cậu bất tương ưng thì chìm trong men rượu. Ngày tháng vẫn đều đều trôi qua. Tôi biết cậu, muốn về thăm cậu nhưng thế cuộc này đâu thể muốn là được, khi mình không còn tự tại. Cậu thì hoàn toàn không biết tôi ở phương trời nào.

giờ thì chắc cậu biết rồi chứ? Đã bỏ đi các thân tứ đại ngũ uẩn giả hợp này thì còn gì để hệ lụy! Có một điều tôi không dám nói hay nghĩ đến là: Cậu liên hồi trong men rượu vì thế khi ra đi không biết ra sao? Tôi thầm mong dư phước trong tiền kiếp sẽ dẫn dắt cậu về miền phương ngoại nào đấy! Miền phương ngoại là cái khái niệm mà khi sống cậu sẽ không hiểu và đa số trần gian cũng không hiểu.

Rồi từ đó gia đình cậu suy vi! Cố quận mình đầy những nghiệt ngã nhiễu nhương. Cậu chán đời tìm vào men rượu. cậu muốn tìm quên nhưng làm sao quên; tỉnh laị sau những cơn say thì lòng càng trống trải, cô đơn và càng buồn thêm và kết cục cậu ra đi sớm vì men rượu. men rượu nó phá huỷ cả thân xác và ý thức cậu. Tôi chơi thân với cậu, tôi tình thật với cậu...

Ở phương trời này tôi vẫn thường lang thang một mình, tôi đi vào tự nhiên nghe gió hát cây ca. Ngày xưa đi học , đọc sách những chuyện bạn bè tri kỷ như Lưu Bình - Dương Lễ hay Bá Nha - Tử Kỳ... những tưởng là chuyện văn chương; cho đến tận tuần rồi tôi xem một bộ phim về cái tình thiên sơn vạn thủy đầy thương tâm... Vẫn còn nghĩ ấy là chuyện văn chương. vậy mà giờ đây biết tin cậu ra đi thì tôi mới thấy cái tình là thật!

Cậu đi rồi nhưng hình bóng vẫn còn trong tâm tôi. Tôi xưa nay vẫn sống tốt giờ tôi càng phải sống tốt hơn nữa. Tôi phải cầm hơn làm lợi cho người cho vật, những gì tôi làm được đều hồi hướng cho cậu. Tôi phải sống tốt hơn nữa cho tất hữu tình chúng sanh. Cậu sẽ không phải hổ hang về tôi mà ngược laị cậu sẽ tự hào về tôi.

Hai mươi lăm năm qua rồi, cậu đã ra đi; hai mươi lăm năm tiếp nữa không biết trong số bạn bè, người thân ai còn ai mất đây? Tôi chỉ biết kiên cố là rồi ai cũng sẽ như cậu thôi! Vô thường là thế nhưng vô thường đến làm sao mà không khỏi đau thương. Người không phải vật vô tri. Ngồi gõ bồn mà ca như Trang Châu ư? Mấy ai đủ bản lãnh này?

Tôi vẫn lang thang ở cái vùng ngoại phương của mình. Nhiều lúc tôi cũng không biết mình mong gì, đi tìm cái gì...

Tôi vẫn lang thang trong cuộc thế; ý nghĩa của thế cục này là gì? Tôi vẫn tự hỏi, tôi cũng như tất cả mọi người đang trên đường về, về cái nơi mà ta đã ra. Dòng sanh - tử vẫn tíu tít vô tận ... Giá mà được như các bậc A La Hán thì sao nhỉ? Liệu mình có còn gặp laị trong đời nữa không? Liệu có còn trăn trở những nỗi đau tình đời! Thế nào thì thế, cậu đi rồi, tôi vẫn phải nối đi cho hết con đường đời!

Dù thế nào đi nữa cậu vẫn mãi là bạn của tôi!

Trích nguồn :
https://lamdepkhoemoingay.blogspot.com/2017/05/thu-gui-nguoi-ban-da-khuat.html
 
Vào thời đức Phật, một ngoại đạo đến hỏi Tỳ kheo Samid (tu được ba năm) rằng:

- Khi một người tạo ra thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp, thì họ sẽ nhận được cảm thọ gì? (Muốn nói đến cái quả mà người đó nhận được sau hành vi hay nghĩ suy ấy).


Tôn giả Samid trả lời:

- Này hiền giả, khi một người tạo ra thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp thì họ sẽ nhận được cảm thọ đau khổ.

Ngoại đạo Pota nghe xong đứng dậy ra đi. Không tán thán cũng không phản đối.

Sau khi ngoại đạo Pota đi rồi, tôn giả Samid đến chỗ Tôn giả Anan biểu thị lại cuộc hội thoại giữa mình với Pota. Tôn giả Anan nói:

- Này hiền giả. Đây là đề tài cần phải trình lại với đức Thế Tôn. Hãy đến chỗ đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn chỉ dạy thế nào, chúng ta sẽ y đó mà thọ trì.

Sau khi nghe bộc lộ câu chuyện, đức Thế Tôn nói với tôn giả Anan:

- Câu hỏi đáng lý phải được phân tách rõ ràng cho du sĩ ngoại đạo Pota thì lại được giải đáp một cách phiến diện. Này Anan! Ta biết nếu Samid mở miệng đề cập đến vấn đề gì thì đều đề cập một cách không như lý. Này Anan!

Câu hỏi của Pota thật sự khởi thủy từ ba cảm thọ. Câu đáp ấy lẽ ra phải được trả lời như vầy: “Này hiền giả Pota, nếu ai tạo khẩu nghiệp, thân nghiệp, ý nghiệp có khả năng đưa đến lạc thọ, người ấy sẽ nhận được lạc thọ. Nếu ai tạo khẩu nghiệp, thân nghiệp, ý nghiệp có khả năng đưa đến khổ thọ, người ấy sẽ nhận được khổ thọ.

Nếu ai tạo khẩu nghiệp, thân nghiệp và ý nghiệp có khả năng đưa đến cảm thọ không lạc không khổ, người ấy sẽ nhận được cảm thọ không lạc không khổ”. Nếu giải đáp như thế là Samid đã giải đáp một cách chân chánh cho du sĩ ngoại đạo Pota. Những du sĩ ngoại đạo yếu kém sẽ hiểu rộng về nghiệp nhờ sự lý giải phân tách của Như Lai.

Tôn giả Anan thưa:

- Bạch Thế Tôn! Nay đã đến thời. Xin Thế Tôn phân biệt rộng về nghiệp. Sau khi nghe Thế Tôn phân tích, chư Tỳ kheo sẽ thọ trì…

Đức Thế Tôn trả lời:

- Hãy lắng tai và khéo tác ý, ta sẽ nói. Tôn giả Anan thưa:
- Thưa vâng, Bạch Thế Tôn.

Đức Thế Tôn bắt đầu nói:

- Này Anan có 4 loại người sau tồn tại ở thiên hạ.(Nghĩa là có 4 trường hợp như thế xảy ra ở trần gian này, là thực tiễn mà đức Thế Tôn nhìn thấy)

1/ Có người sát sinh, lấy của không cho v.v… sau khi thân hoại mạng chung sinh vào cõi dữ.

2/ Có người sát sinh, lấy của không cho v.v… sau khi thân hoại mạng chung sinh vào cõi lành.

3/ Có người tự sát sinh, trường đoản cú lấy của không cho v.v… sau khi thân hoại mạng chung, sinh vào cõi lành.

4/ Có người tự sát sinh, lấy của không cho v.v… sau khi thân hoại mạng chung sinh vào cõi dữ.


Trích nguồn : https://truonghaitinlamtrangda.blogspot.com/2017/05/mot-cau-chuyen-ve-nghiep.html
 
HỎI: Thưa Đức Thánh Thiện, cháu thấy ưa khi cháu biết ngài là vị lãnh tụ của Tây Tạng vào lúc tuổi thiếu niên như vậy. Xin ngài cho biết thông điệp của ngài đối với đời của chúng cháu về lòng ân cần đàng hoàng trong xã hội hiện tại.
ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA: Tôi chỉ muốn nói với cháu rằng, các cháu thật sự là thế hệ mới của thế kỷ 21 này. 11 tuổi? Nên tôi nghĩ cháu sinh ra vào lúc bắt đầu của thế kỷ này. đời của tôi thuộc vào thế kỷ trước. Thế kỷ ấy đã qua rồi. Nên chúng ta đã nói lời chào tạm biệt, bye bye.

Thế nào đi nữa, tôi nghĩ thế hệ của tôi thuộc thế kỷ đã qua, đã cống hiến nhiều cho thế giới, nhưng cũng gây ra nhiều rắc rối cho nhân loại. Tôi muốn nói với quý vị một điều. Thế kỷ trước đã có nhiều thành quả kỳ diệu, nhưng cũng là thế kỷ của những cuộc tắm máu. vì thế, thế kỷ 21, một cách căn bản, logic, đừng có những cuộc tắm máu nữa. Trong khi ấy, rắc rối vẫn ở đấy. Những ý kiến khác nhau, những giải pháp khác nhau.

Nên chúng ta phải tạo ra những phương pháp thực tiễn để giải quyết những rắc rối. Nên tôi muốn cống hiến, tôi muốn nói với cháu, thế hệ trẻ nên xây dựng thế kỷ này, nên là thế kỷ của hội thoại. Không nên ở trong thái độ lạnh nhạt. Phải dự, phải năng động. Nhưng phương pháp không nên là sức mạnh, không nên dùng sức mạnh.

Hãy chuyện trò với nhau, thấu hiểu nhau về những vấn đề chúng ta quan tâm. Chúng ta cùng san sẻ một thế giới. Sự quan hoài của tôi cũng là sự quan tâm của họ. Đấy là thực tế. Hãy hội thoại. Hòa hiệp, hòa giải. Đấy là những gì tôi muốn nói với cháu. Rồi thì, cũng là chúng ta phải cảm nhận một sự cố gắng vẹn tròn cho đối thoại, chống lại chiến tranh.

Do vậy, đấy là quan điểm chủ đạo, đấy là thái độ chủ yếu, chí nguyện nội tại, sự giải giới nội tại phải gặp gỡ sự giải trừ quân bị ngoại tại. Không phải chỉ qua đêm. Từng bước một. Đầu tiên tôi nghĩ phải hủy bỏ vũ khí nguyên tử. Một số cuộc thương thảo đã xả ra thật tốt đẹp. Và từng bước một, rút cục đi đến một nền hòa bình cho thế giới.

Thế nên, đấy là những gì tôi muốn nói với cháu. Rồi thì kinh nghiệm cá nhân chủ nghĩa của tôi, khi tôi ở vào tuổi của cháu, tôi không xăm lắm với việc học tập, cỡ tuổi cháu. Ngay cả ngày nay, đôi khi tôi cảm thấy hối hận.

Việc tốt nhất là học tập, học cho giỏi. Hồi ấy tôi không để ý lắm, nên hiện tôi ăn năn. Thời gian đã mất không bao giờ trở lại. Mất thì đã mất. Đấy là những gì tôi muốn chia sẻ với cháu. Rồi thì tôi nghĩ ở vào tuổi của cháu, cũng thiên nhiên khi có nhiều sự tranh đấu, đánh đấm với bạn bè. một tẹo tranh đua cũng tốt thôi. Nhưng không phải là những cảm nhận ăn sâu trong tình cảm, không phải là những vụ tranh đấu lâu dài. Rõ chứ.

HỎI: Thưa Đức Thánh Thiện, ngài nói rằng chết không phải là điều gì đấy đáng sợ hãi, giống như sự thay đổi xống áo và như vậy là có điều gì hơn thế nữa chứ?


ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA: giờ, điều ấy tôi nghĩ có những sự khác nhau. Những người có tín ngưỡng và những người không tín ngưỡng. Những người tín ngưỡng vô thần và những người tín ngưỡng hữu thần. Sau khi chết, sau đời sống này, theo người Ki Tô Giáo, sau khi chết, đợi chờ, một thời kì nào đó, trong... hậu sự, điều trung thực thật sự ấy như thế nào, tôi không biết.

Nhưng rút cuộc sau đó, dưới sự phán xét rút cuộc, thì sẽ đi xuống địa ngục hay lên thiên đường. Điều đó tùy thuộc đời sống của cháu như thế nào. Cuộc sống của cháu phải đầy đủ ý nghĩa. Đầy đủ ý nghĩa có tức thị nếu có thể thì hãy phục vụ người khác. Nhiều anh chị em Ki Tô Giáo, hy sinh hay cống hiến đời sống của họ để phục vụ người khác. Tôi nghĩ Ki Tô Giáo, sự cống hiến lớn nhất của Ki Tô Giáo là vấn đề giáo dục, trên toàn thế giới.

thỉnh thoảng có sự đổi đạo, và điều đó thỉnh thoảng lại gây ra rối rắm. Nhưng về mặt khác đấy là sự cống hiến khôn cùng. Nên những người đã quá cống hiến đời sống của họ cho người khác, 100% sẽ lên thiên đường, thiên đàng vĩnh cửu. Rồi thì đối với người tín ngưỡng vô thần, có đời sống đấu với đời sống, đời này tiếp theo đời khác.

Trích nguồn : https://truonghaitinvaphatphap.blog...lat-ma-noi-chuyen-voi-thieu-nien-11-tuoi.html
 
Từ nhỏ cho đến khi tôi gặp được duyên lành có dịp tìm hiểu Phật Pháp, ít khi tôi suy nghĩ đến cuộc sống tâm linh về mặt đạo do tôi thấy tôn giáo vừa mê tín vừa mù quáng và cực đoan.

Lắm lúc tôi có suy tư về đời sống ý thức đứng trên bình diện triết học, và tôi rất thích dùng lý trí để suy luận và tìm hiểu. Chính do vậy mà tôi cứ nghĩ đạo nặng phần mê tín dị đoan, và tôi không ưa mê tín tí nào cả. Thú thật thì tôi vừa sợ và vừa ghét mê tín chính vì lý do là mình không hiểu được và không giảng nghĩa được những hiện tượng huyền bí.

Rồi tôi đọc được lịch sử Đức Thích Ca và biết là Ngài xoành xoạch nhắc Phật tử là đừng bao giờ vội tin những lời dạy của Ngài vì kính trọng sùng bái Ngài mà hãy dùng lý trí tìm hiểu cặn kẽ xem kỹ giáo lý do Ngài truyền dạy đúng hay sai trước khi ưng ý và đem ứng dụng cho đời mình.

Đừng tin một cách mù quáng. Tuyệt quá! Trên thế gian này, ngòai Phật giáo, tôi chưa được biết có tôn giáo nào khác khuyến khích hay cho phép giáo đồ nghi vấn lý giải các giáo điều của họ trước khi tin.

Không còn tin mù quáng nữa. Không còn quyền năng linh thiên huyền bí nữa. Con người đã được phóng thích khỏi vòng kiểm tỏa của sợ hãi mê tín. Đức Thích Ca đã khai mở thời đại lý trí cho nhân loại cả hơn 2500 năm trước ở Đông phương.

Tôi rất đỗi mừng khi biết đến luật nhân quả hay luân hồi giảng giải nghĩa vụ của con người. Đây quả thật mới là công lý vạn năng của vũ trụ - ai làm nấy chịu; gieo quả nào hái quả nấy. Và nhờ vào lý trí và bổn phận, con người đứng trên mọi sinh vật có quyền hưởng được tự do.


Thú thật tôi phải xác nhận sự thực khá khiêm nhượng là tự do của con người không bát ngát cho mấy; chúng ta chỉ có tự do tuyển lựa mà thôi còn những tự do khác đều có rất nhiều giới hạn; và ngay tự do tuyển lựa cũng bị giới hạn của thời kì.

Sự tự do lựa chọn của chúng ta chỉ hiện hữu giữa ngưỡng cửa thời kì chật hẹp nhất của tác nhân và phản ứng; nhưng cái sự tuyển lựa chớp nhoáng trong tích tắc đó tạo nên quờ mọi khác biệt giữa con người và những gì còn lại trong vũ trụ. Bởi lẽ đó quyền tự do của con người là một đặc ân quá lớn so với thân phận bé nhỏ của ta đối với sự vĩ đại minh mông của vạn vật.

Tôi thấy tôi được giải phóng ra khỏi sự kiểm soát ngột ngạt của sợ hãi nằm trong những gì mình không biết. Tôi tìm thấy địa vị duy nhất của thân phận làm người của mình trên trần thế này trên cơ bản của lý trí, nghĩa vụ và tự do. Tôi tìm ra được địa bàn đạo đức chỉ dẫn cho tôi biết, như nhà hiền triết Socrates đã nói ngày xưa, "làm sao sống cho phải" trong những khi mình không biết lối nào đi cho đúng đạo làm người.

Tôi xin hết dạ thành kính lạy tạ ơn Đức Thế Tôn vì trí óc của Ngài, và tôi xin hết lòng thành kính nghe theo lời dạy dỗ của Đức Thế Tôn về:
- Ba sự thật vô thường, khổ và vô ngã để thoát khỏi thù hận, tham vọng và vô minh;
- Bốn tâm từ bi hỷ xả để được hạnh phúc cho mình và cho mọi người;
- Năm giới để sống đời đạo đức cho tâm mình được bình an.


Trích nguồn : https://phatphattrongtam.blogspot.com/2017/05/vi-sao-toi-theo-phat.html

Xem thêm : Tự hỏi
 
Để tạo sự đồng nhất của một tổ chức, người ta thường đòi hỏi các thành viên phải mặc áo quần đồng phục.

Tùy theo mục đích của tổ chức, đồng phục cũng được tuyển lựa để biểu lộ tinh thần của tổ chức đó. Gia Đình Phật Tử Việt Nam cũng không ngoại lệ, và màu lam được chọn lọc cho màu áo của tổ chức.

Màu Lam của Gia Đình Phật Tử với những ý nghĩa sau:

1. đồng đẳng: Tổ chức GĐPT gồm đủ mọi thành phần, từ một em bé lên năm đến một cụ già bảy tám mươi tuổi; từ một người cần lao thuộc cấp đến những người học rộng tài cao; từ một em học trò vỡ lòng đến một vị giáo sư kinh nghiệm. thảy đều đến với nhau trong ý thức đồng đẳng, chia sẻ từ cái vui đến cái khổ mà không bao giờ tị nạnh hơn thua cao thấp.

2. Hòa đồng: Màu lam là màu hòa hợp với thiên nhiên và màu sắc. Màu lam có thể đứng chung với bất cứ màu nào mà không quá trổi hoặc chìm đắm. Nếu một màu sặc sỡ như đen hoặc đỏ, thì màu lam là một màu nhu hòa. Nếu một buổi trời nắng chang chang, màu lam là một màu dịu mát. Nếu một buổi sáng mùa đông lạnh lẽo, thì màu lam là màu mang theo hơi ấm. quờ quạng đó là mục đích của Tổ Chức là luôn đem vui cứu khổ đến cho muôn loài.

3. Tinh tấn và nhẫn: Màu lam là một màu dễ cảm mến. Người mặc áo màu lam vào mình cũng chẳng thể nóng nảy, hoặc u buồn mà phải xoành xoạch nín nhịn và tinh tấn trên đường tu học và giúp ích mọi loài.

Màu lam là một màu dễ dơ nhưng khó thấy, tả cho một tinh thần của Phật Giáo. Phật tánh hay ma tánh cũng tại tâm ta. Nếu chúng ta vẫn mãi chạy theo tham dục thì Phật tánh cứ mãi che khuất. Nếu chúng ta biết xa dần dục vọng thì Phật tánh lại ngày một tăng trưởng trong tâm chúng ta.

Chiếc áo Lam của tổ chức mang một ý nghĩa thật cao quý. Chúng ta nên gắng giữ gìn chiếc áo cũng như gìn giữ thân tâm của chúng ta phải luôn trong lành. Không làm hện ố nó. Có như vậy mới xứng đáng là một đoàn sinh của Tổ Chức.

Trích nguồn : https://truonghaitinphatphap.blogspot.com/2017/05/y-nghia-mau-lam.html

Xem thêm : Tuôn
 
Hoàng hôn về, đem theo một ít u buồn vơ vẩn. Theo gió nam, chim nhạn bay từng đàn lẻ tẻ, đàn chim nhạn bay về trong khói sương chiều ảm đạm cánh mỏi chưa tìm được chỗ trú trong một ngày gió bạt mưa ngàn. Mưa đã tạnh, gió đã yên, những lá rụng đầy đường đang than vãn với ánh dương tà còn sót lại. Cảnh tượng đượm màu hoang tàn và thảm.




Ngồi bên song cửa, nàng Liên Hoa bâng khuâng nhìn trời với một mối u buồn vô cùng. Ðôi mắt nàng chạm phải cảnh tượng thê lương của buổi chiều vàng, cũng như lòng nàng chạm phải một cảnh đời oan nghiệt.

Vâng, cảnh đời oan trái quá! bao lăm là phỉnh nịnh và bao nhiêu là dối gạt! Lòng nàng còn tươi thắm được không, khi đã bị gió mây u sầu che. Lòng người sâu độc và phũ phàng. Sắc nước hương trời mà làm chi, lâu đài vàng bạc có giá trị gì, khi lòng người phụ bạc! Ngón đàn tuyệt diệu của nàng không còn khơi gợi được những mảnh tình vỡ lẽ. Người mà nàng chắc chắn sẽ ngàn năm sum hợp, thì nay đã ghét bỏ nàng.

Ðã bao nhiêu lần như thế, và cũng đã bao nhiêu lần những buổi chiều vàng tan tác về trên cảnh vật. tình ái trời đất! tình ái thương chỉ là giảo quyệt tạm. tình ái là gì? Nếu không phải là những cánh nhạn bay qua, chỉ để lại trên mặt hồ, trên trái tim nàng, những u buồn thất vọng? tình mong manh quá! Trái tim nàng dường như thắt lại. Ðời còn có nghĩa gì với một kiếp hồng nhan bạc phận như nàng?

Cảnh vật đã nhuộm màu u tối. Ðêm xuống giữa cảnh vật và xuống giữa tâm hồn nàng. Nàng cảm thấy đơn côi trống vắng. Nàng mến tiếc thời xưa, thời mà nàng còn bé bỏng, sống trong tình thương không giới hạn của mẹ nàng. Tình mẹ thương con, nàng thấy rõ là một tình ái chân thật, bền vững. Ôi, mẹ nàng còn đâu nữa để yên ủi nàng trong phút đớn đau này. Tìm đâu ra tình thương cao cả và thắm thiết như tình mẹ yêu con.

Nhưng mắt nàng vừa chạm phải một ánh sáng xa xăm. Ừ, trăng đã lên ánh sáng dịu hiền đã lan tràn trên cảnh vật. Nàng cố tìm trong trí tưởng và chắc rằng một tình thương bát ngát như ánh trăng phúc hậu vẫn còn có ở đời này. Ðâu đó, người ta ca ngợi tình thương. Phải rồi, tình thương của bậc giác ngộ ra đời, thấm nhuần muôn vật. Mắt nàng sáng lên, như nhìn thấy ngôi sao cứu tinh hiện lên ở chân mây rực rỡ.

Người đang gieo tình thương cao rộng mênh mông, chính là bực giác ngộ, là Phật đà. Tình thương nhân thế phong phanh, nhưng tình bác ái của đạo vàng vẫn trường cửu và bát ngát cao rộng. Nụ cười thế nhân mỏng mảnh quá, nhưng nụ cười Ðức Phật còn mãi hiền hậu với tất thảy mọi loài. Nụ cười ấy có một cái gì giống với nụ cười mẹ yêu con khẩn thiết. Nàng thấy rõ: trú địa an tịnh là dưới ánh đạo vàng mà Ðức Phật còn đang tra quanh Ngài.

Nàng sẽ đến dưới tình thương Ðức Phật. Tìm được nơi nương dựa cho tâm hồn, nàng thấy lòng nàng êm tịnh. tương lai, nàng sẽ đến với tình thương cao cả của Ngài, và như đứa con thơ, nàng sẽ được an lành dưới nụ cười êm dịu của người mẹ hiền.

Sáng hôm sau, trời mới tinh sương, Liên Hoa đã vội phát xuất. Ðường về Cấp Cô Ðộc không xa nhưng nàng muốn đến nơi trước giờ ngọ nắng nung người. Nàng đi với một niềm tin cẩn ở Lòng Từ Bi không bến hạn của Ðức Thế Tôn. màng tang lên cao, trời đã bắt đầu nóng nực. Nàng Liên Hoa đi nhanh hơn để mau tới đích. Ðược hơn một nửa đường, thì mồ hôi đã thấm ướt áo nàng. Ghé vào một bóng cây to che rợp một hồ sen nước trong như gương, nàng ngồi nghỉ, nước hồ trong quá, nàng đứng lên lại gần vuốt mớ tóc lại để rửa mặt.

Trích nguồn : https://songvuivasongkhoe.blogspot.com/2017/05/tinh-thuong.html

Xem thêm : Sáng bình yên
 
Hạnh phúc hay khổ cực là vấn đề cảm thọ, và cảm thọ tùy thuộc đốn vào tâm ta, người và ngoại cảnh chỉ là phụ thuộc. Do đó trong truyện Kiều có câu: “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.” bình thường, suốt ngày ta sống phần lớn với cảm thọ trung tính tức thị không vui không khổ. Khi gặp nghịch cảnh không toại ý là khổ thọ, khi gặp cảnh thuận, thỏa lòng, là lạc thọ. Nhưng sự phân biệt này rất chủ quan, có thể đổi thay tùy thực chất và trình độ tu tập của mỗi người. Có người thực chất ít tham sân, nhiều trí óc, nên dù gặp hoàn cảnh ngang trái, đau khổ đến mấy cũng giữ được tâm hồn bình thản, an vui. Nhưng cũng có người nặng dục vọng, không biết đủ, thì không cảnh ngộ nào làm cho họ vừa lòng.


Trong kinh Di Giáo Phật dạy, người biết đủ dù nằm trên đất cũng thấy sung sướng, người không biết đủ thì dù ở trên trời cũng không vừa ý. Phật dạy ba loại cảm thọ hàng ngày là khổ, vui, và trung tính đều có thể làm cái nhân cho con người tăng trưởng vô minh nếu không tu tập. Gặp thuận cảnh sung sướng dễ sinh tham, gặp nghịch cảnh đau khổ dễ sinh cuồng nộ thù oán, còn khi không vui không khổ thì con người sinh ra lừ thừ chây lười. nên muốn sống an vui ta phải chuyển các cảm giác này theo chiều hướng thuận lợi cho một đời sống an vui.

1. Chuyển hóa lạc thọ thành pháp tu

thường nhật, khi gặp vận may, đời lên hương, ta dễ mất chính niệm, không tự cảnh giác, nên dễ tạo ra lỗi lầm. Hàng ngày ta thấy nhan nhản những mẩu tin các cô cậu con nhà giàu ăn chơi bị sa lưới luật pháp vì gia nhập băng đảng hút xách, trộm cướp. Sự may mắn nếu không được trí óc soi sáng thường đưa đến tai họa. thành thử, Phật dạy gặp thuận cảnh cần tu thân, nghĩa là nên biết đủ để không sa đọa.

2. Chuyển hóa cảm thọ trung tính nên lạc thọ:

Trong 24 giờ mỗi ngày, ta sống với cảm thọ trung tính nhiều nhất. Nếu không chuyển hóa nó thành lạc thọ, thì nó sẽ tự biến thành khổ thọ, hoặc đời ta trở thành đáng chán khôn cùng. Muốn phát động năng lượng lạc thọ, ta nên nghĩ đến những điều may mắn của mình trong ngày nay: được làm người, được nghe Phật pháp, được nghe giáo lý đại thừa, thân còn đang khỏe mạnh, cảm quan đầy đủ, có trí tuệ để hiểu ý nghĩa vi diệu, được gặp thầy lành bạn tốt trên đường tu. Phật dạy tự tâm ta vốn thuần khiết như hư không, chẳng thể nào nhiễm ô được.

Khi ấy tâm ta tràn đầy bi mẫn, và ta cảm thấy cần phải làm cái gì có ý nghĩa, vì sớm muộn gì cũng có ngày ta phải đối diện với cái chết, như người đang ở trước mặt ta. Trước cảnh thống khổ chết chóc, ta càng thấy rõ cuộc đời thực vô nghĩa nếu không tu tập. Nhờ thấy vô thường, khổ, ta còn thấy được vô ngã hay tánh Không, và phát sinh lạc thọ nhờ cái thấy đúng. Như thế nào? Như thể khi ta đang đánh một ván cờ sắp thua, bỗng một trận gió thổi bay cả thảy những quân cờ, không còn phân định được ai thắng ai bại. Cái thấy về tánh Không cũng thế, làm tâm ta giải tán được mọi xúc cảm mâu thuẫn như thiện ác, được mất, thành phàm…

3. Chuyển khổ thọ thành an vui:

Khổ thọ hay những cảnh ngộ khó chịu, trái ý, nói chung gồm hai loại: có thể sửa đổi và không thể sửa đổi. Những khổ do phiền não, tham giận dữ và nghiệp - những lề thói xấu - thuộc loại có thể sửa đổi, còn những khổ do nghiệp báo như bệnh tật tai nạn chết chóc, những định nghiệp chẳng thể tránh, thuộc loại chẳng thể sửa đổi. Nguyên tắc chung là, cái gì có thể đổi bỏ, ta nên đổi bỏ để được an vui. Cái gì không thể đổi bỏ được, ta nên vui vẻ chịu đựng, hân hoan đón nhận như đón một người nhà, rồi dần dần ta sẽ thấy nó quý giá thực. sao nhiêu người sau một tai nạn, đối diện với một bệnh nan y, mới bắt đầu tỉnh ngộ cuộc đời giả trá, bắt đầu buông xả và cảm thấy nhẹ nhõm?

Trích nguồn : Chuyển hóa cảm thọ

Xem thêm : Tập thiền và chạy bộ
 
Đã ba năm bỏ triều cống, vua Chiêm lại còn cho quân quậy phá phương Nam. Thánh Tông bèn thân hành cầm quân thảo phạt, việc triều chính ỷ cho Nguyên Phi. Đã ba tháng ròng mà không hạ được thành, vua buồn bực trong lòng lắm, đứng ngồi không yên có ý muốn lui binh. Chế Củ biết quân Đại Việt nản lòng nên càng giữ thế thủ không ra đánh nhau, chiêu dụ quân binh:

“Chúng ta có thành lũy vững vàng, quân Nam đã suy kiệt rồi, cứ giữ vững thế này thì chúng phải rút lui thôi. Kẻ nào tự ý xuất quân sẽ dùng quân lệnh nghiêm trị!”

Thánh Tông không biết làm sao đành hạ lệnh lui binh. Khi quân kéo về đến châu Cư Liên thì gặp sứ thần mang tấu chương từ Thăng Long đến. Vua bèn mở ra xem thì thấy tâu rằng:

“… Nguyên Phi hết dạ phò vua, giữ an nội trị từ trong cung cho đến ngoại triều, vỗ an đảng nghịch, huấn tập cung nhân… đều rất thuận thảo, kiếm một lòng quy phục… Nguyên Phi sớm hôm cầu Phật-Bồ Tát gia hộ đại vương chinh phục Chiêm Thành xong đặng khải hoàn…”

Đọc xong tấu chương Thánh Tông ngồi thừ ra một lát rồi đứng lên cảm than:

“Nguyên Phi là đàn bà mà xử việc nước giỏi như vậy, dễ thường ta thân nam nhi mà để thua phụ nữ sao?”

Nói xong hiệu triệu ba quân, cho người tuyên đọc tấu chương rồi đốc thúc quay trở lại quyết hạ thành cho bằng được. Lòng ba quân cũng hứng khởi và phấn chấn lên vì thẹn thua chí phụ nữ. Chế Củ không ngờ quân Nam quay trở lại bất thần không kịp chỉnh đốn quân nên thành bị hạ dễ dàng. Thánh Tông bắt sống ba vạn tù binh và cả toàn gia Chế Củ mang về Thăng Long. Vua chia tù binh cho các Vương và quan trong triều. Ngài Lý tăng lục cũng được cấp nô bộc từ số tội phạm này. Ngài tăng lục này uyên thâm văn chương, thâm sâu Phật pháp và còn là một tay thi bá có tiếng của đế kinh. Một hôm ngài viết một đoản khúc thiền thi:

“Bách niên nhất sát-na bách tính tại Sa-Bà

Vạn pháp ư nhất niệm Tâm động nhập Phật-ma”

Bài thơ còn dở dang ngài để đấy đi vào nội có việc đến khi về thì thấy ai sửa câu cuối thành:

“Tâm lưu xuất Phật–ma” Bèn cả giận quát:
“Kẻ nào cả gan dám sửa thơ ta?”




Đám nô bộc sợ xanh mặt, riêng có một gã luống tuổi quỳ xuống thưa:

“Thưa chủ nhân kẻ nô bộc này có tội, vì thấy ngài viết câu cuối không hợp lẽ. Phật hay ma cũng từ một tâm mà ra, không từ ngoài vào! cho nên dám mạo phạm sửa laị, mong chủ nhân lượng thứ.”

Ngài tăng lục vô cùng kinh ngạc:

“Ngươi cũng biết chữ, biết Phật pháp sao?”
Y lại đáp:
“Thưa chủ nhân, nô bộc tôi cũng biết chút chút.”

Tăng lục lại gạn hỏi và đưa ra nhiều thử thách nhưng y đều đáp phân minh lưu loát. chung cục y thú vị rằng:

“Tôi vốn là người Phương Bắc, thụ giáo thầy ở Triết Giang được ban cho pháp danh Thảo Đường. Mấy năm trước sang Chiêm Thành hoằng pháp rồi binh đao tao loạn nên bị bắt làm tù binh cùng với quân Chiêm chứ thật tôi không phải người Chiêm.”

Ngài tăng lục lập tức cho thay quần áo, tắm gội rồi bảo:
“Ngày mai tôi sẽ đưa ông vào triều ra mắt hoàng thượng.”

Y quỳ tạ ơn, vị tăng lục đỡ y dậy bảo:

“Chúng tôi đều là người mộ Phật, việc ông bị bắt làm tù binh là ngoài ý muốn. Tôi hy vọng bệ hạ sẽ lưu dụng ông.”

Hôm sau tăng lục dẫn y vào triều kiến vua:

“Tâu đại vương, nhân trước kia đại vương ban cho một số nô bộc không ngờ trong ấy lại có một kẻ vốn là tăng nhân đức phương Bắc. Y tri thức thâm uyên, tường Phật điển, thi tứ phong lưu… quả tình là ngọc lẩn trong cát đá. Nay thần dẫn y vào mong hoàng thượng kiểm tra lưu dụng kẻo phí uổng người tài.”

Thánh Tông cũng ngạc nhiên không kém bèn vời y lên thềm rồi gieo rắc y. Y đáp rất thành thực lại bộc lộ kiến văn nhẵn của mình. Vua thử vấn pháp thì y đáp như lý như pháp… Thánh Tông khôn cùng hoan hỷ sanh lòng yêu mến. Vua nói:

“Trẫm thật không ngờ ngài lẫn trong đám nô bộc, âu cũng là nhân duyên gì đây. Trẫm trị quốc thương dân như con đẻ. Trẫm một lòng sùng đạo, hộ pháp hộ tăng. Hôm nay ngài lại đến đây trẫm xin bái ngài làm thầy mong ngài đừng từ chối.”

Trích nguồn : https://phatphapvecuocsong.blogspot.com/2017/06/tu-no-boc-thanh-quoc-su.html

Xem thêm : Thắng bại trong đời
 
nguyên cớ sa bẫy

Trong cuộc sống, chúng ta cũng gặp nhiều chiếc bẫy đủ hình thù kích tấc và thô tế khác nhau mà chỉ vì tham lấn lướt, thiếu chánh niệm, không thấy hết những hiểm nguy tiềm tàng bên trong hoặc chỉ nhìn thấy lợi trước mắt, mà trong kinh Đức Phật gọi là “tham đắm, mê loạn, phóng dật” mà chúng ta dễ dàng sa bẫy để rồi hành động theo “ý lực của người thợ săn bẫy mồi”

cuộc đời này đầy dẫy những cạm bẫy mà chỉ cần phóng tâm lơ đễnh một tẹo, chúng ta sẽ sa hầm rớt hố liền thôi. Có nhiều cái bẫy chờ chực, chỉ cần lóa mắt với những lợi lạc trước mắt, mê mẩn trong thể lâng lâng với những lời ngọt nhạt bùi tai, thiếu chánh niệm quán sát để nhìn thấy thực chất của vấn đề và không làm chủ được tâm tham là tự rước họa vào thân.

Người giăng bẫy bao giờ cũng biết cách để những chiếc bẫy được ngụy trang khéo léo mà nếu không sắc bén, thiếu khôn ngoan, non kinh nghiệm và kém trong phán đoán, chúng ta dễ dàng trở nên nạn nhân chỉ vì cái tham làm hạn chế tầm nhìn. Một khi tâm bị “cận thị” và “loạn thị” mà vạn vật không tỏ rõ mà nhập nhòa trong tham dục, lý trí không đủ sáng để thấy thực chất thật của các pháp thì sập bẫy là điều dễ hiểu, chỉ còn là vấn đề thời gian mà thôi.

Người chẳng khác khỉ: tự chui vào bẫy

Tôi đọc câu chuyện về chiếc bẫy khỉ này trong cuốn “Transforming the Mind, Healing the World” của Joseph Goldstein lâu lắm rồi. Từ đó, rất nhiều lần, hình ảnh con khỉ mắc nạn luôn ở trong tâm trí tôi. Tôi nghĩ đến cảnh huống tương tự của con người, khi bản thân tôi hoặc những người tôi quen biết phải trả giá với nắm thức ăn của tài, sắc, danh, thực và thùy trong tay, loay hoay mãi mà tay vẫn mắc trong trái dừa mà người ngoài cuộc thấy ngu si đến vô lý.

Ta cười khi một con khỉ mắc tay vào trái dừa chỉ vì miếng ăn, cố hết sức bình sinh để rút tay ra mà không chịu buông tay để bảo toàn mạng sống. Càng cố sức vùng vẫy để được tự do mà không muốn bỏ miếng thức ăn trên tay trong khi người thợ săn đang đi đến gần, con khỉ phải trả giá bằng cả mạng sống của mình. Con khỉ bị nạn chỉ vì nó mong đạt được điều muốn là miếng thức ăn quyến rũ mời gọi ở bên trong, chứ bản thân trái dừa không được thiết kế là cái bẫy mà hễ ai động đến là bị mắc nạn cả.

Nguy cơ ‘mất’ nhiều thứ của những người này đang được bàn dân trần gian đưa lên bàn cân mổ xẻ và trở thành ‘câu chuyện trước khi vào ca’ ở hồ hết các cơ quan, công sở. Chắc nạn nhân trong cuộc cảm thấy đớn đau và khổ tâm lắm, nhưng khi thấm thía nỗi ê chề do lòng tham câu dắt, mọi sự ân hận đã quá muộn màng và cánh cửa cuộc thế của người ấy coi như đã khép chặt lại với bao mất mát chẳng thể lường đến được!

Với những gì tôi vừa miêu tả về chiếc bẫy khỉ và cách khỉ mắc nạn, với tâm lý thường tình ở con người là “việc người thì sáng, việc mình thì quáng,” ta có thể dễ dàng mai mỉa chê cười khỉ kém sáng dạ. Nếu đối mặt trong tình huống đó, ta nghĩ mình dễ dàng buông nắm thức ăn để được an toàn tính mạng. Thế nhưng, mặc dù con người sáng dạ hơn khỉ nhiều, chúng ta cũng không khá hơn là mấy!

Đứng trước sự cám dỗ của tiền tài, danh vọng, những thứ quá quyến rũ, cuộn mà những tưởng không cần đổ giọt mồ hôi nào, ta cũng có thể sở hữu dễ dàng thì tội gì mà không… thò tay vô! Mấy ai chế ngự được tâm mình trước một món ăn bốc mùi thơm ngon hấp dẫn và hấp dẫn như thế. rốt cục, chúng ta cũng bị mắc bẫy như con khỉ nọ, như đàn nai kia, nhưng ở chừng độ vi tế hơn vì thế cuộc là một hàm số phức hợp với nhiều loại thèm muốn khi các căn xúc tiếp với trần cảnh duyệt các mối quan hệ xã hội chằng chịt phức tạp hơn mà thôi.

Trích nguồn : https://phatphapvedoisong.blogspot.com/2017/06/bai-hoc-tu-chiec-bay-moi.html

Xem thêm : Hạnh nguyện anh Quảng Phước
 
Có một con cá vàng bơi trong một bình nước, và bạn hỏi cá: bạn có biết bạn cần nước để sống không? Con cá trả lời rằng, nước là gì?

Nếu có thể nhìn thấy thế giới này bằng con mắt thật sự thanh thoả trắng trong vốn liếng thuộc về con trẻ của mình, thì có lẽ rất nhiều người sẽ phải giật mình thảng thốt khi nhìn thấy sự thật, vì họ đang chìm đắm trong màn sương móc ma thuật vây quanh mình và thế giới của mình.

Nhưng tất những gì xảy ra để xảy ra, đều có nguyên nhân của nó, cho sự hiện hữu và tồn tại, những bài học cho sự phát triển của con người. Bài viết này được sinh ra bởi tôi có cảm giác mình cần phải viết nó về những cái nhìn của tôi, cũng bởi những cái không cái có của vũ trụ này, dương thế này và với những người bạn thân yêu của tôi đã từng bên tôi qua mọi hành trình. Một ly trà cho những người bạn đã quen và chưa quen trên thực tiễn.

Bóng tối xuất hiện như thế nào?

Qua những lời nguyền, bùa chú và những phép thuật đen tối…

Nhưng chúng cũng xuất hiện trong đời sống thông thường của bạn từ những thứ thường nhật nhất .

Con người, phần đông sống trong một môi trường mà họ bị phụ thuộc vào vật chất cũng như những phản ứng xung quanh mình. Một môi trường cho ta nhiều bài học, một từng lớp tận dụng mọi sức mạnh để điều khiển và chiếm hữu con người. Qua mọi hình thức của cuộc sống từ tấm áo với những hình thù trên áo xống bạn đang mặc, chính trị, đài, báo, mạng từng lớp, … , thậm chí ngay cả thẻ chứng mình thư của bạn. Tất cả nhiều những thứ ấy được tạo ra ẩn chứa bóng tối và hiềm khích đợi cơ hội bước vào thân thể bạn khi bạn lãng quên nó.

Bóng tối còn được sinh ra từ tham vọng cá nhân chủ nghĩa, hay tập thể, những ý định, chủ ý, vô tình cũng như cố tình, từ lời than thở không ngừng, lời bỉ báng, dèm pha, lời tùy tiện chửi rủa nhau, lời tranh cãi xúc phạm cũng như nhằm hạ thấp người khác, v.v… và v.v… Ngay cả những người nói nhiều hàng giờ về đủ mọi thứ trên đời, hòng chỉ để lấp thời gian cũng tao điều kiện cho bóng tối lớn mạnh. hết thảy những thứ ấy rút đi năng lượng sống và ánh sáng của bạn. Bạn hãy tránh xa những con người ấy khi họ như thế. Vì lúc đó những người ấy đang biến bản thân thành những kẻ hút dòng máu năng lượng chảy trong bạn. Khi họ làm xong những việc ấy với bạn, họ sẽ thấy bản thân họ thật sung sức, vì đó là thức ăn của họ, nhưng bạn thì sẽ suy sụp tinh dịch cũng như thể lực.

cơ thể con người là món quà quí giá của nhân gian này mà chỉ có con người mới có thể có được nó. Nhưng khi tâm hồn bạn không ở trong nó từng chốc lát hiện tại, mà cứ vẩn vơ lơ lửng ở đâu đó, trong những suy tưởng về dĩ vãng hay tương lai, thì khi đó tiềm thức vắng mặt. Khi tâm thức vắng mặt bạn không ở trong mình thì cũng có tức là trong thân bạn lúc đó sẽ có nhiều khoảng trống, và cũng theo đúng luật của vũ trụ này, khi ấy nhiều thứ sẽ muốn chiếm lĩnh khoảng trống ấy lấp đầy nó trong bạn và bóng tối là thường là thần thế mạnh mẽ và nhanh nhất cướp đoạt những mảng trống ấy. Thế là trong bạn sẽ xảy ra những xung đột không thể tránh nổi, hấp thu và thậm chí đi theo bóng tối. Khi bạn sống trong một thế giới ảo mộng thì những mảng tối sẽ có rất nhiều dịp lớn mạnh để điều khiển bạn.

Khi bạn chưa tỉnh thức, bóng tối có thể bước vào bạn rất dễ dàng tỉ dụ như khi bạn đi ăn ở nhà hàng nào đó, người đầu bếp có chuyện buồn bực ở nhà, khi nấu ăn ông văng những buồn bực ấy ra quanh mình và cố nhiên vào cả những món đồ ông nấu, và thế là khi ăn bạn đã ăn cả những năng lượng không tốt lành của ông đầu bếp nọ. Khi về nhà bạn kinh ngạc thấy mình đau bụng, hay trong người thật khó chịu, cáu giận vô cớ…

Trích nguồn : https://phatphapcuocsongdieuky.blogspot.com/2017/06/suc-manh-cua-bong-toi.html

Xem thêm : Giữa thiên nhiên
 
Từ vụ Đại Bùng nổ (Big Bang) đến kỷ nguyên gọi là “Bùng nổ thông báo” (the Information Explosion) cách nhau khoảng 15 tỉ năm.

Vũ trụ theo lý thuyết Big Bang đã theo thời kì giãn nở, bành trướng không cùng tận. Ngày nay chúng ta thấy sự bùng nổ thông báo cũng trong tiến trình khuếch trương, mở mang, không giới hạn. Nhưng thế giới loài người trên hành tinh nầy, chỉ là một hạt bụi nhỏ trong hàng tỉ tỉ định tinh và hành tinh trong vô kể thiên hà…
Nghiệm về thời kì và không gian vô tận cùng của vũ trụ để thấy thân phận còm của địa cầu, và của lịch sử văn minh loài người (kể từ khi bắt đầu đời sống nông nghiệp, và có chữ viết—sớm nhất là từ 5000 năm cho đến 8000 năm trước công nguyên).

Thử nhìn lại từ thuở phôi thai của ký họa, ký tự, văn tự cho đến thời đại “bùng nổ thông tin” Ngày nay, văn học thế giới đã từng nhiều lần canh tân, canh tân qua những trào lưu hiện đại, hậu hiện đại, (và chuẩn bị cho) hậu-hậu đương đại… đã tiến đến mức nào? Và phải chăng vì “thông báo” bùng nổ, tràn lan, “quá tải” (information overload) đã giết chết văn chương và nghiễm nhiên chiếm lĩnh các văn đàn, thi đàn, diễn đàn liên mạng?

Chính vì thông tin quá tải mà người ta chỉ đọc vội vàng, qua quýt những gì quyến rũ, “nóng sốt,” chẳng còn thì giờ đâu mà nhẩn nha đọc thơ, đọc truyện, thưởng thức văn chương thi phú. thông tin bùng nổ rất bổ ích cho việc “truyền thông” tự do và chân thực tin tưởng.# của mọi nhà nước, châu lục, và đồng thời cũng rất có hại cho những chính quyền độc tài, toàn trị, gia đình trị; rất hữu dụng cho người chịu khó học hỏi, cầu tiến, và rất hại cho kẻ lười nhác tư duy, điên cuồng bảo vệ niềm tin và lề thói tôn thờ lãnh tụ của mình.

tiếng nói thực ra chỉ là bóng dáng của sự thực. ngôn ngữ được dùng để nói về sự thực, hướng dẫn tầm nã sự thật. Chức năng của ngôn ngữ là tìm cách đặt tên, gọi tên sự thật, nên muôn thuở tiếng nói chỉ là tượng trưng của sự thực chứ không phải sự thật. Nhưng không có tiếng nói, người ta cũng chẳng thể nào tiếp cận được sự thực.

vì thế, tiếng nói một thời hầu như chỉ được dùng bởi những đầu óc uyên bác: nhà hiền triết, nhà đạo, nhà tiếng nói, nhà “phù thủy ngôn ngữ,” nhà văn, nhà thơ… như là những mật ngôn thiêng có thể chạm đến những tầng trời cao ngất, những chìa khóa vạn năng có thể mở vào các cảnh giới nội tâm sâu thẳm. hiện tại, hầu như tất thảy mọi người đều được quyền đồng đẳng dùng ngôn ngữ của mình trên một màng lưới trùm khắp cõi trần thế phức tạp, nhầy nhụa.

Giữa tiếng nói và sự thật là một lớp cách ly sâu dầy, nay lại phủ thêm nhiều lớp sương móc từ tính cách thật/giả, chân thực/ngoa ngụy, sang cả/nghèo mạt… Có những sự thật bị giấu kín từ lâu, nay phơi bày hiển nhiên khiến người ta ngỡ ngàng, kinh ngạc, xúc động; nhưng phơi bày nhiều quá và lặp đi lặp lại quá nhiều lần đến độ những gì tốt đẹp nhất hay tệ hại nhất cũng trở thành phổ thông, thường ngày, thì nhận thức và xúc cảm của con người sẽ trở thành trơ lì, vô cảm. Từ cảnh giới liên mạng nầy, những gì huyễn ảo trở thành rất thật, những gì chân thực trở nên rất ảo. Người ta phải thật minh mẫn và tinh tế mới có thể nhìn xuyên thấu những lớp sương móc dầy đặc của tiếng nói, văn tự, ký hiệu… để nhận chân được sự thực của đời sống.

ngôn ngữ cõi tục giờ như thế. Những dối trá thì được nhà cầm quyền tụng ca, bắt người dân phải tin là thật, trong khi sự thực có chứng cứ rõ rệt khi được báo động lên mạng, không đúng ý và chủ trương của lãnh đạo thì bị cho là tin giả, tìm cách bôi xóa, ngăn chặn, kết tội phản động, phản quốc. Thống khổ nhãn tiền đã không được nói đến cặn kẽ, không tìm ra được những phương lược giải quyết, dù chỉ tương đối trên bề mặt hiện tượng; trong khi những từ ngữ trừu tượng như văn minh, văn hóa, độc lập, tự do, hạnh phúc thì càng trừu tượng xa vời hơn bao giờ. Giá trị nội tại của các từ ngữ nầy đã bị đục ruỗng và trống hoác bên trong, không còn gợi lên chút gì để mà can hệ.

Trích nguồn : https://phatphaphuuduyen.blogspot.com/2017/06/ngon-ngu-va-su-that.html

Xem thêm : Lục bát không đề
 
Trắng đen, phải quấy, đúng sai, chỉ là hai thực tiễn của cùng một vấn đề chỉ duy có hợp với Không - Thời hay không mà thôi.

Người trí biết cái lý ấy mà tới lui, xuất xứ phải thời thì thành nhân vậy. Trong sách Nam Hoa Kinh của ngài Trang Tử có câu chuyện rằng:

Một hôm Trang Tử cùng đồ đệ ngoạn du ở một vùng đồi núi. Khi đến bìa rừng thấy có nhóm tiều phu ngồi nghỉ mát dưới gốc cây cổ thụ. Thầy Trang Tử hỏi nhóm tiều phu:

- Cây to thế này không đốn thế còn phải đi đâu?

Cả bọn cùng đáp:

- Cây này vô dụng không ai đốn làm gì nên nó mới thọ đến chừng ấy.


Thầy Trang Tử lặng thinh đưa môn đệ đến thăm một người bạn trên đường về. Được thầy ghé thăm, người bạn khôn cùng mừng rỡ, sai gia nô bắt chim quý làm thịt đãi khách.

gia nhân thưa:


- Xin ngài dạy cho bắt loại chim biết gáy hay không biết gáy?

- Nên bắt loại không biết gáy.


Nghe vậy một môn đệ kính cẩn bước lên thưa cùng thầy:


- Cây đại thọ vì vô dụng mà sống lâu, còn chim vô ích thì phải bỏ mình. Lý của đất trời mà mâu thuẫn thế sao?


Thầy ôn tồn bảo:

- Các ngươi hãy lắng nghe: Khôn cũng chết, dại cũng chết,
chỉ có biết là sống. Sông có khúc, người có lúc. Biết ở đây là biết lúc nào cần phải làm gì, khi nào cần tỏ ra khôn lanh, khi nào cần tỏ ra dại khờ, có vậy mới xứng đáng là bậc Đại Nhân.


Lưu Bị ngày xưa lúc còn ở với Tào Tháo, Bị thường lo tưới hoa trồng kiểng để che mắt Tháo. Một hôm Tháo đem việc anh hùng trong nhân gian bàn luận cùng Bị. Tháo Kết luận: “Nếu có anh hùng thì thời này ngoài Tháo và Bị ra không còn ai nữa.” Nhân trời có sấm, Bị buông tay cho chén rượu bể tan tành. Tháo hỏi nguyên nhân. Bị thưa vì nghe tiếng sấm nên giật thột. Tháo cho Bị không có đảm lược anh kiệt nên bỏ đi.

Quan Vân Trường, Trương Phi giận lắm, trách Bị là anh đã làm nhụt khí tiết anh em. Bị ôn tồn: “Các em không thấu được lẽ huyền vi trong hành động của anh đâu, đừng giận.” Chính thế mà Bị hưng được nghiệp đế. Kẻ thức thời thì hành động không trái lẽ. Hạnh phúc thành công nằm trong tay họ vậy.

Trích nguồn : https://phatphaptamtinh.blogspot.com/2017/06/dai-khon.html

Xem thêm :

Anh chàng bốn vợ

Ném sỏi xuống giếng
 
Cuối tuần qua, tôi đã phải dành ra một buổi để dọn đi mớ cây Primrose – mà tự vị dịch là hoa anh thảo – mọc lòa xòa trên rẻo sân nhỏ bé phía trước nhà. Loại bông Mexican Prim-rose cao không hơn hai gang tay này, với màu hoa phơn phớt tím hồng và cánh lá phong thanh, thân cành ẻo lả dễ rập rờn lay động theo những đợt gió đầu xuân, từng làm dịu mắt bao khách qua đường cách đây hơn tháng, nay đã đến hồi lụi tàn. Cây thì vẫn còn đó nhưng không cho bông nữa, cành lá bắt đầu khô nám, đứng tả tơi lổm xổm trông thật khổ.

Tay không ngừng bứt bỏ mấy thân cây nhỏ bé, đầu óc tôi không khỏi lan man nghĩ thầm, ta đâu cần đợi qua bốn mùa xuân hạ thu đông mới thấy được sự hoại diệt trong tự nhiên. Và mảnh vườn của chúng tôi cũng vậy, đâu cần phải qua hơn một đời chủ mới thấy sự bãi bể nương dâu. Sẵn trớn, tôi triền miên lội ngược dòng thời gian, nhớ lại từng sự kiện xảy ra trong khuôn vườn nhà với một tí buồn buồn xăm của cái thú hồi tưởng chuyện qua.

Nhớ lại quãng thời gian mới dọn tới đây mà… thương ông xã tôi hết sức! Lúc đó, vì lần đầu tiên mới có nhà riêng, lại là người mê cây cối bông hoa, tôi đã “hành” đấng ông chồng của mình không ít. Với bệnh ham muốn trồng thật nhiều bông hoa cây cỏ đủ loại, đi đâu tôi cũng để ý tới cây cối hoa kiểng và bằng mọi cách (bắt ông xã) “rước” chúng về nhà cho bằng được, từ tậu mua cho đến hỏi xin.

“Anh ơi, mình phải có một giàn bông giấy cho giống bên nhà… Anh ơi, mình phải có một bụi trúc cho có vẻ Đông Phương… Mình phải có một đôi chậu trầu bà để treo như ở nhà em hồi trước… Mình phải có một chậu hoa quỳnh để ngắm hoa nở giữa đêm chớ hoa ở nhà người ta sao mà ngắm được… Mấy nhánh hoa lau phất phơ này đẹp quá, mình phải tìm mua để trồng một bụi, cũng có lý lắm hả anh…”

bao lăm câu “mình phải có…” là bấy nhiêu lần ông xã tôi phải khệ nệ khuân vác mang về, hì hục đào lỗ, trộn phân, trồng xuống, để rồi mười lần hết bảy là phải dời bứng cây đi chỗ khác (có khi dời gốc tới hai ba bận) vì sau khi trồng xong mới thấy, vì lý do này hay lý do khác, cây không hợp với địa thế đã chọn. Thật ra không phải lúc nào “người hùng” của tôi cũng vui vẻ ga lăng như vậy đâu mà có nhẽ do… nghiệp, nếu lý giải chuyện đời theo lăng kính nhà Phật. Bởi sau mỗi lần giận nhau thì chàng hay “bình thường hóa bang giao” bằng những câu “offer” quá hẫp dẫn đối với tôi như, “Em muốn trồng cây cỏ lau đó ở đâu?” hay “Em muốn đổi cây bông này qua chậu nào?” hoặc “Chiều nay em muốn đi Home Depot hay nursery nào?”

“Được lời như cởi tấm lòng,” tôi làm sao đành lòng từ khước (vả chăng giận nhau cũng đâu có vui gì). Thế là “dân số” của cây cối trong vườn cứ theo đà đó mà tăng trưởng. Chưa kể cả hai vợ chồng tôi mỗi người đều có một “chứng bệnh” riêng đối với cây. Ông xã tôi thì mắc bệnh “phù suy” về đủ mọi bình diện ngay cả với cây cối. Vì động lòng trắc ẩn, cây nào èo uột khó nuôi lại được ông ấy ra sức cứu chữa chứ không vất bỏ bao giờ. Thậm chí chàng còn “adopt” mấy chậu cây héo xào ở nurse-ry được chủ vườn (khôn ngoan) cắm lên một tấm bảng rất khổ thân “Please, take me home!” Còn tôi thì bụi cây gốc cỏ nào có dọc đến kỷ niệm thì phải tìm cách giữ lại cho đến cùng. ngoại giả, tôi còn bệnh “dị đoan” nữa. Cây nào mà tôi tin là đem lại điều may mắn cho gia đình thì phải được đặc biệt chăm chút để chúng luôn khỏe mạnh tốt tươi hay ít ra là không yểu mệnh.

Trích nguồn : https://phatphaplamdepdoi.blogspot.com/2017/06/tam-biet-anh-thao.html

Xem thêm :

Thương trẻ bụi đời ở quê nhà

Mộng tàn canh
 
Lúc tôi còn trẻ, có một kẻ cướp tên gọi là Kappa, chuyên cướp giựt tiền của người đi đường. Anh ta có biệt tài về cướp bóc. Mỗi khi trông thấy một người nào trên đường, anh ta có thể biết đúng số tiền người ấy mang theo, không bao giờ sai một tóc tơ. Đấy quả là một tên cướp gớm ghê. tuy vậy một hôm anh ta bị tóm, và ở tù dài hạn trong nhà lao ở Osaka.


Nhiều năm trôi qua, và vì anh ta là một tên trộm tài danh, nên được cái lợi thay vì bị hành hình, anh ta được làm người điềm chỉ cho cảnh sát. Một thời gian sau, anh ta lại còn được giải phóng. Khi được tự do, anh học nghề tạc tượng Phật, và lại trở thành một nhà chuyên môn tạc tượng Phật, lập nghiệp ở Osaka. Hoàn toàn đổi bỏ tâm lý tệ ác ngày trước, anh ta chú tâm vào việc tu hành để giải thoát, và vào những ngày cuối đời anh chuyên thực hiện pháp môn niệm Phật.

Vậy, ngay một tên cướp khét tiếng như Kappa một khi đã sửa đổi cũng thành người thánh thiện. Ở đây các bạn có thể tìm thấy một người nào ăn cướp bởi cái nghiệp của họ sâu dày và lỗi đã quá nặng? trộm cướp chính là nghiệp, trộm cướp chính là tội lỗi. Nếu không có sự ăn cướp thì cái tội và cái nghiệp ăn cướp chẳng thể có.


Bạn có trộm cướp hay không là tùy thuộc vào dạng tâm của bạn trong ngày nay, chứ không phải vào cái nghiệp của bạn trong kí vãng. Và điều tôi đang nói đây không chỉ hệ trọng đến việc trộm cướp, mà nói chung ắt những si mê nhầm nhỡ đều như thế cả. Bạn có đắm say hay không đắm say là tùy thuộc vào thể ngày nay của tâm bạn. Khi si thì bạn là một chúng sinh, khi không say đắm thì bạn là Phật. Không có con đường tắt đặc biệt nào để thành Phật ngoài con đường này. Có phải vậy không? Thế thì mọi người hãy thực chứng điều này một cách rốt ráo.

Trích nguồn : https://phatphapvatuyduyen.blogspot.com/2017/06/kappa.html

xem thêm :

Nửa khuya thức giấc

Mưa và hoa bưởi
 
Đạo Phật đã có mặt trên giang san ta gần 2000 năm lịch sử. Trải qua bao cuộc thăng trầm, Phật giáo vẫn luôn luôn hiện hữu như một thực tế đồng hành với dòng chảy tiến về phía trước của dân tộc Việt Nam. Làm sao Phật giáo có được cái khả năng dung nhiếp và thích nghi tài tình như thế? Phải chăng đó là nét đẹp, là nếp sống văn minh từng tiềm tàng nơi chốn thiền môn?


Vì chuông chùa không phải là thứ chuông bình thường mà là hồng chung hay đại hồng chung, tức thị loại chuông lớn. Vì tiếng kêu của nó vang khắp pháp giới, thậm chí ở những cõi địa ngục xa xôi đen tối nhất cũng có thể nghe được. Do đó, nhà chùa không gọi một cách sỗ sàng trịch thượng là đánh chuông, mà là thỉnh chuông, tức là người làm nhiệm vụ ấy phải có thái độ trân trọng, cung kính, ăn mặc tươm tất, đến bên chuông cầm dùi thức chuông, mời tiếng chuông ấy bay theo không gian khắp đến mọi nhà để đánh thức những ai đang còn chìm trong cơn chiêm bao

Cũng như chuông, đối với trống chúng ta cũng phải có thái độ kính cẩn, vì đó là trống pháp (pháp cổ) chứ chẳng phải loại trống thông thường; và tiếng ấy được gọi là tiếng trống Bát nhã. Bởi lẽ, nó có khả năng làm cho người nghe phát huy được trí óc của chính mình. Thế nên ngày xưa, một số ngôi chùa thường có lệ đánh trống vào mỗi buổi ban mai, gọi là Chuyển trống, như câu thơ trên đã biểu thị.

Đức tính từ bi đã vậy, nhưng đức tính trí tuệ hay Bát nhã cũng là một đức tính rất phổ quát, và cách áp dụng nó cũng thiên hình vạn trạng. Khi nói đến trống, đến thuyền, thì gọi là trống Bát nhã, thuyền Bát nhã; nhưng khi nói về đuốc, người ta gọi là đuốc tuệ :


Thắp đuốc tuệ trên đường mê đen tối
Dong thuyền từ trong bể khổ trầm luân.
Và thỉnh thoảng nó cũng được gọi là kiếm trí óc:
Buông lửa giác ngộ, đốt hoại thảy rừng tà ngày trước
Cầm kiếm trí tuệ, quét cho xong tính thức thuở nay.


Trích nguồn : https://phatphapvatamsu.blogspot.com/2017/06/van-minh-cua-thien.html

Xem thêm : Lục bát hai câu
 
Xưa có một đoàn ca kịch vừa đi du lịch khắp nơi, vừa kiếm ăn bằng lối diễn tuồng. Trong các vở tuồng, đặc sắc nhất là vở tuồng “Quỉ La Sát” vừa rùng rợn lại vừa hích.

Chiều hôm nọ, đóng tuồng Quỉ La Sát hay quá rất được công chúng hoan nghênh. Ðóng xong đoàn ca kịch thu xếp đồ đoàn để qua tỉnh khác. Có kẻ vì quá yêu chuộng, nài cầu ở lại bằng cách dọa dẫm: “Các ông ở lại đây sáng rồi hãy đi. hiện đã chiều mà phải đi qua một cánh rừng rậm, trong rừng nhiều Quỷ La Sát lắm, nhất là lỡ ra đêm xuống mà chưa ra khỏi rừng.” Mấy chàng kịch sĩ cười phì: “Chúng tôi đây vốn đã là Quỉ La Sát, còn sợ La Sát nào nữa!”



Thế rồi cả bọn đồng sửa soạn cất bước vượt rừng. Nhưng chưa ra khỏi rừng thì trời đã tối hẳn. Cả bọn đồng ý nghỉ lại trong rừng, mai sáng họ sẽ đi. Họ đi bẻ cành khô, hốt lá về đốt lửa lên, rồi trải tạm những tấm màn phông để ngủ, cắt phiên ngồi canh lửa, rồi thì vì mỏi mệt đồng lăn ra mê mết.

Nửa đêm độ vào canh một, sương xuống nhiều quá, trời lạnh chàng gác lửa run lẩy bẩy, bèn mở rương lấy tạm một bộ đồ diễn kịch khoác vào người rồi ngồi gật gù bên đống lửa hồng. Bộ đồ kia lại là bộ đồ Quỉ La Sát. Có tiếng chim kêu, một người nằm ngủ vụt thức, ngoái cổ lên nhìn xem lửa còn cháy và người bạn canh lửa còn đó không. Nhưng kinh sợ biết bao! Người bạn canh lửa đâu chả thấy, chỉ thấy có một con Quỉ La Sát ngồi gật gù bên đống lửa. Lông gáy dựng ngược, hoảng lên, anh chàng chồm dậy vừa chạy vừa la: “Quỉ La Sát! Quỉ La Sát!” Bọn người thức dậy mắt nhắm mắt mở, nghe kêu tưởng là có quỷ thực, cũng la lên và bỏ chạy theo người trước, không kịp nghĩ suy.


Anh chàng gác lửa thiu thiu, nghe tiếng kêu tỉnh dậy, thấy bọn kia chạy hết thì cũng tưởng rằng có quỷ thực, bèn cấp mang cả bộ áo La Sát mà chạy theo. Bọn trước chạy được một khoảng khá xa ngoái lui trông thấy “hắn” theo sau, càng sợ, càng chạy; anh chàng gác lửa thấy bọn trước chạy vùn vụt như tên thì tưởng đâu quỉ đã kề sau lưng mình rồi, nên lại thế đuổi. Bọn trước thấy “hắn” đuổi gấp, lại càng hoảng hốt cứ thế chạy cho đến mệt nhoài, đuối sức, trầy da chảy máu, rút cuộc hết hơi nằm lăn ra, đến khi biết rõ, vơ đều bị thương, đớn đau khắp mình…

Con người vì thành kiến sai lạc, vì vô minh che lấp nên đua nhau chạy theo mộng ảo thiên hạ và mua chuốc lấy bao nhiêu là đau đớn khổ nhục.


Trích nguồn : https://tamhonphatphap.blogspot.com/2017/06/quy-la-sat.html

Xem thêm : Ngọc trong đá
 
Sau đây là một số thương ghét, có thể do “bản chất” hay “bản tính” của con người và rất “thiên nhiên”. Tự nhiên theo nghĩa nó biểu lộ liền mà không cần lý trí can thiệp:

1) Ghét bỏ cái gì xấu xí. Thương quý cái gì đẹp đẽ. Đàn ông, nữ giới đẹp đẽ là nguồn mê đắm lớn nhất của kiếp người. Con cái trong nhà, đứa xấu xí nhiều khi bị hất hủi. Cây trái thật ngon, nhưng trông bề ngoài xấu xí nhiều khi cũng không được ưa thích.

2) Ghét bỏ cái gì héo tàn. Trân trọng với cái gì tốt tươi. Hoa tươi trưng lên bàn thờ nhưng khi héo rồi thì quăng vào thùng rác không thương tiếc.

3) Ghét sợ cái gì nhọn sắc. Thích cái gì tròn trịa. thành ra trong Phật Giáo hay dùng chữ “viên” để chỉ sự hoàn hảo như: viên dung, viên mãn, viên giác.

4) Ghét màu sắc chói lọi. Thích màu sắc dịu dàng. Màu sắc chói lọi làm chóa mắt người ta. Con bò thấy màu đỏ (màu máu) là lao vào húc.

5) Ghét thói điểm trang lòe loẹt. Thích lối trang điểm trang nhã. Trong hội họa, môn phái sử dụng màu sắc của hoa rừng, thú rừng gọi là trường phái Dã Thú.

6) Ghét cái gì bề bộn. Thương cái gì ngăn nắp. Một thị thành dù văn minh như thế nào đi nữa mà đường phố nluộm thuộm, ngổn ngang, vẽ bậy lên tường thì cũng bị cười chê.

7) Ghét sợ cái gì bầy hầy. Thích cái gì lành lặn. Vào siêu thị, nhìn một đống thịt bầy hầy, người ta sợ. Nhưng cũng thịt đó, nếu được cắt và miêu tả khéo léo thì người ta lại thích.

8) Không ưa cái gì lệch lạc, lệch lạc. Thích cái gì vuông vức nên người ta nói “Mẹ tròn con vuông” là để chỉ chuyện bình an, tốt lành. Một món đồ dù rất tốt nhưng nếu bị sai lệch đi một tẹo, người ta cũng sẽ từ chối. Chiếc xe mới tinh, bị đụng móp một chút cũng mất giá trị.

9) Ghét sợ cái gì mờ ám. Ưa thích cái gì sáng sủa. Địa ngục thì khuất tất. Cung trời thì ranh. Khi tham gia đám tang, người ta mặc xống áo màu đen. Nhưng hiện nay các chiến binh Hồi Giáo lại dùng màu đen làm tượng trưng cho ngọn cờ của mình. Màu đen đang là màu ưa thích của thế kỷ, nhất là ở Trung Đông và Hoa Kỳ.

10) Ghét cái gì tàn tệ. Kính trọng cái gì an lành.

11) Ghét cái gì ngông cuồng. Thích cái gì vừa vừa phai phải.

12) Ghét chiến tranh. chuộng hòa bình. Nhưng có rất nhiều người hay nhà nước thích chiến tranh, rất thích chém giết mà người ta gọi đó là “diều hâu”, hiếu chiến, trong Phật Giáo gọi là quỷ thần A Tu La.

13) Ghét lời nói dữ dằn. Thích lời nói ôn hòa.

14) Ghét thói kiêu căng. Ưa lời khiêm tốn.

15) Ghét và khinh miệt lối sống ích kỷ. tôn trọng sự vị tha.

16) Ghét lời nói mai mỉa. Thích lời nói ý tứ.

17) Ghét lời nói bịa đặt. Thương mến người “Có sao nói vậy”.

18) Ghét thù lời nói cay độc. Thích, ưa lời nói hiền hòa.

19) Ghét, khinh lời nói đâm thọc. Kính trọng lời nói ngay thẳng.
20) Ghét khinh lời nói chia rẽ. Kính trọng lời nói đoàn kết. Nhưng trên thế giới này cũng có rất nhiều người thích lời nói

chia rẽ, phổ thông lời nói chia rẽ, khích động hận thù.

21) Ghét điều gian dối. Ưa điều chân thật.

22) Ghét thói lưu manh, lừa đảo. Quý, thích sự thực thà.

23) Ghét thói côn đồ. Ưa kẻ đôn hậu.

24) Ghét tham quan ô. Kính trọng, quý mến, có khi lập miếu thờ các vị quan liêm chính.

25) Ghét thù bạo chúa. Kính trọng vua hiền đức, có khi lập đền thờ.

26) Ghét bọn xu nịnh. Mến kẻ trung thần.

27) Ghét kẻ phản quốc. Yêu người ái quốc.

28) Ghét kẻ hại người. Quý kẻ cứu người.

29) Ghét kẻ phá hoại. Yêu người xây dựng.

30) Ghét kẻ tà dâm. Thương người đoan chính.

31) Ghét kẻ phản bội. Thương người trung tín.

32) Ghét kẻ phá giới. Kính người trì giới.

33) Khinh kẻ xuống tóc mà còn bon chen thế tục. Kính người đạo hạnh.

34) Ghét kẻ lố lăng. Thương người mẫu mực.

35) Ghét kẻ trọc phú. Quý kẻ thương người.

36) Ghét kẻ ăn chơi. Thương người cần kiệm.

37) Khinh kẻ ăn bám. Quý người tự lập.

38) Khinh kẻ chây lười. Quý người chăm chỉ.

39) Ghét kẻ khinh người. Thương người khiêm tốn.

40) Ghét thói mánh mung. Yêu mến thật thà.

41) Ghét thói gian tà. Ưa người ngay thẳng.

42) Khinh ghét lối làm việc vô lương tâm. Kính trọng kẻ làm việc có lương tâm.

43) Ghét lối làm việc vô trách nhiệm. Thương người làm việc thận trọng.

44) Ghét thói tự thị, tự cho mình là “lãnh đạo”, “number one”, “số một” hay “ông nội” người ta. Quý kẻ biết điều.

45) Và còn cả ngàn vạn thứ thương-ghét khác nữa, không sao kể hết.

Trích nguồn : https://baihocdedoi.blogspot.com/2017/05/su-thuong-ghet-cua-con-nguoi.html
 

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top