Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch sử Việt Nam
Lịch Sử Địa Phương
Cuốn tiểu sử "Ho Chi Minh: A life" của William.J. Duiker
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="Thandieu2" data-source="post: 19456" data-attributes="member: 1323"><p><strong> <span style="font-size: 15px">6. Nghệ Tĩnh đỏ</span></strong> </p><p> </p><p> </p><p>Đảng cộng sản Việt nam ra đời, thỏa mãn ước mơ của Quốc khi rời quê hương cách đây 21 năm, tìm một con đường để giải phóng đất nước. Cùng với cuộc đại khủng hoảng đang diễn ra ở thế giới tư bản, phong trào cách mạng ở Đông dương có vẻ như minh chứng cho dự báo của QTCS về ngày huy hoàng sắp đến của cách mạng thế giới. Tuy nhiên, với Quốc, có nhiều câu hỏi cần phải trả lời. Liệu đảng mới sẽ thuộc đảng bộ sắp được thành lập tại Singapore hay sẽ báo cáo trực tiếp cho văn phòng FEB tại Thượng Hải? Liệu Quốc sẽ tiếp tục đóng vai trò đại diện của QTCS hay sẽ trực tiếp lãnh đạo Đảng? Nếu lãnh đạo thì sẽ đóng ở đâu vì nếu Quốc về Đông dương, sẽ bị bắt và xử ngay. </p><p> </p><p>Ngày 13/2, bất chấp cái lạnh, Quốc đi Thượng hải để liên lạc với Hilaire Noulens tại trụ sở của FEB trong một biệt thự châu Âu trên phố Nam kinh náo nhiệt. Gặp Noulens không phải là việc dễ. Ngày 18, Quốc viết thư cho Nou, giọng rất bức xúc: </p><p><em>Tôi phải gặp đồng chí ngay, bởi vì </em></p><p><em>1/ báo cáo này đã viết 2 ngày vẫn chưa đến được tay đc; </em></p><p><em>2/ Mọi việc có thể giải quyết trong 1 giờ mà tôi đã ở đây 5 ngày rồi; </em></p><p><em>3/ tôi buộc phải ngồi không trong khi công việc chỗ khác đang chờ. </em></p><p> </p><p>Trong bức thư, Quốc cũng kiên quyết phản đối quan điểm của QTCS về việc thành lập các đảng khu vực, bỏ qua yếu tố dân tộc. Quốc không đồng ý để VCP thuộc đảng bộ Đông Nam A, cho rằng Việt nam cần phải có một đảng độc lập, báo cáo cho FEB qua văn phòng Hồng kông. Có vẻ như cuối cùng Quốc cũng gặp được Nou và thuyết phục Nou đồng ý với quan điểm của mình, vì sau đó vài ngày Quốc báo cáo với Dalburo ở Moscow. Nhưng vẫn còn một vài khúc mắc: </p><p><em>Tôi không rõ vai trò của mình. Tôi là thành viên Đảng CS Pháp hay Việt nam. Khi chưa có lệnh mới, tôi sẽ tiếp tục làm việc với VCP. Nhưng dưới danh nghĩa nào? Tôi không thể về Đông dương vì đã có bản án tử hình vắng mặt. Liệu vai trò của tôi với QTCS đã chấm dứt? Nếu không, tôi có thể liên lạc với văn phòng địa phương được không? Rất mong Ban chấp hành xem xét nhanh. </em></p><p> </p><p>Trước khi rời Thượng hải, Quốc gặp Nguyễn Lương Bằng, một tay chân cũ từ thời ở Quảng đông. Quốc dặn Bằng tìm cách tuyên truyền, thu phục gần 4000 lính Việt nam hiện đang đóng trong khu nhượng địa Pháp. Quốc còn nhấn mạnh việc giữ vững quan hệ với Đảng CS Trung Quốc. Sau đó Quốc về Hongkong thành lập văn phòng phía Nam của FEB, đợi lệnh mới. Văn phòng này được đặt trong một ngôi nhà 2 tầng ở đảo HongKong, dưới danh nghĩa một hãng buôn. Quốc thuê một căn hộ gần sân bay ở Cửu long, hoạt động với tên gọi nhà báo Vương. Văn phòng có trách nhiệm liên lạc với các đảng ở Đông Nam Á: Thái, Sing và Việt nam </p><p> </p><p>Cuối tháng 3, Quốc đi tour trong khu vực với nhiệm vụ khôi phục tổ chức ở Nam Dương. Tại Thái lan, Quốc qua Udon Thani, thông báo về việc thành lập VCP. Theo lời của Hoàng Văn Hoan, Quốc kêu gọi các thành viên của Hội tham gia tích cực vào các hoạt động của đảng CS Thái sắp được thành lập. Để trấn an tâm lý bất ổn vì không được tham gia trực tiếp vào giải phóng VietNam, Quốc khuyên nên tổ chức Hội thành văn phòng tỉnh của VCP. Cuối thàng 4, Quốc quay trở về Băng Cốc chủ tọa hội nghị thành lập đảng CS Thái, bầu ban chấp hành lâm thời với 1 đại biểu Việt nam từ Udon Thani. Sau đó Quốc đi Malaya và Sing, dự hội nghị đảng Nam Dương, cải tổ thành đảng CS Malayan. Cả hai đảng mới đều báo cáo cho FEB qua văn phòng HongKong. Quốc quay về HongKong giữa tháng 5 </p><p> </p><p>*****************</p><p> </p><p>* FEB - Cục Viễn đông</p><p>* CCP - Đảng CS Trung Quốc</p><p>* VCP - Đảng cộng sản Việt Nam .</p><p> </p><p> </p><p>Trong khi Quốc bận rộn “đỡ đẻ” cho các đảng mới, tình hình Việt nam nhanh chóng trở nên căng thẳng. Đầu tiên là cuộc khởi nghĩa của Vietnam Quốc Dân Đảng vào đầu tháng 2. Bỏ qua những nguyên tắc của Lenin về việc vận động quần chúng, xây dựng cơ sở, Vietnam Quốc Dân Đảng dựa vào một lớp các nhà cách mạng tinh túy, dự kiến sử dụng khởi nghĩa vũ trang để lật đổ Pháp, với sự hậu thuẫn của các binh sĩ phản chiến. Quân đội viễn chinh Pháp, do Toàn quyền Ly Myre thành lập từ năm 1879, có khoảng 30,000 quân, với khoảng 2/3 là dân địa phương. Đội quân này được chia thành 31 tiểu đoàn do các sĩ quan Pháp chỉ huy. Ngoài ra còn khoảng 15,000 dân quân do hạ sĩ quan Pháp chỉ huy. Đa phần lính Việt nam là do các chức sắc trong làng bắt đi, chẳng có cảm tình gì với Pháp. Đến cuối những năm 20, tâm lý ghét Pháp trong binh sĩ dâng cao, là mảnh đất màu mỡ để gieo tinh thần dân tộc chủ nghĩa. Từ năm 1929, Quốc Dân Đảng đã bắt đầu tàng trữ vũ khí tại nhiều địa điểm trên cả nước. Đáng tiếc là Pháp đã phát hiện và tiêu hủy phần lớn. Sau đó vấn đề thêm căng thẳng. Một chủ đồn điền Pháp bị ám sát trên đường phố Hà nội khi vừa bước ra cửa nhà người tình. Chính quyền nghi ngờ Quốc Dân Đảng đứng đằng sau, lập tức vây bắt hàng trăm lãnh đạo đảng và những người ủng hộ. Lo ngại trước nguy cơ bị tiêu diệt,Quốc Dân Đảng quyết định ra tay nhanh. Lúc đó, họ đã có khoảng 1000 cơ sở trong các trại lính ở Bắc bộ. Đầu tháng 2, cuộc binh biến nổ ra ở một số đồn ở trung du Bắc bộ, quan trọng nhất là ở Yên bái. Kế hoạch đầu độc các sĩ quan Pháp bị một tên chỉ điểm tuồn cho Pháp. Viên chỉ huy trại lính đã đề phòng và khi cuộc bạo động nổ ra vào giữa đêm, quân Pháp đã được chuẩn bị. Đến đầu giờ sáng thì Pháp đã kiểm soát được tình hình. Cuộc nổi dậy ở một số địa điểm khác cũng nhanh chóng bị dập tắt. Rất nhiều lãnh đạo bị bắt. Ngày 17/6, 13 kẻ cầm đầu bị xử tử tại Yên bái. </p><p> </p><p>Cuộc khởi nghĩa đã thất bại ngay từ đầu về nguyên tắc, khi không có những biện pháp kích động dân chúng tham gia, cũng không có phương án “tẩu vi” khi gặp sự cố. Liên lạc cũng bị cắt đứt ở phút cuối, dẫn đến sự thiếu đồng bộ trong hành động. Quan trọng hơn nữa là cuộc khởi nghĩa không được sự ủng hộ của dân chúng trong toàn quốc. Các lãnh đạo thoát chết chạy trốn sang Trung quốc và bị phân rã thành 2 nhánh: một nhánh vẫn trung thành với chủ trương khởi nghĩa vũ trang, nhánh kia thì nghiêng về cải cách hòa hoãn. </p><p> </p><p>Trên thực tế thì tình hình Đông dương đang chứa đựng nhiều dấu hiệu bất ổn. Đầu tiên là trong giới học trò. Mặc dù số lượng học sinh liên tục tăng (đầu năm 1930, cả nước có 7000 trường công với gần 340,000 học sinh), bất mãn vẫn không ngừng gia tăng do thiếu điều kiện học lên. Chỉ có khoảng 5000 học sinh ở cấp trung học và khoảng 500 được vào học tại đại học duy nhất ở Hà nội. Việc làm sau khi học xong càng không có, lương thì thấp hơn hẳn các đồng cấp châu Âu, làm tăng thêm tinh thần chống sự thống trị của ngoại quốc. Khi phong trào học sinh tạm lắng xuống cuối những năm 20, đến lượt công nhân nổi dậy. Công nghiệp phát triển mạnh kể từ sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, nhưng chỉ có giới chủ được hưởng lợi. Cuối những năm 20, giai cấp công nhân Việt nam có 200,000 người, trong đó đã có 50,000 làm việc trong các khu mỏ ở miền Đông bắc. Tình cảnh của công nhân làm việc tại các đồn điền chè và cao su ở Tây nguyên và dọc biên giới Campuchia, hết sức khốn khổ: </p><p> </p><p><em>Tất cả đều phải dậy từ 4h sáng mà nhiều người vẫn chưa kịp ăn sáng. Kẻng tập trung lúc 5h và không ai được muộn. 20 phút tập trung là một cực hình vì bọn chủ tìm mọi cớ để đánh đập, chửi bới. Sau đó tất cả phải ra đồn điền, mỗi người phải cạo mủ từ khoảng 280 đến 350 gốc. Ai không đủ tiêu chuẩn sẽ bị đánh, nếu không có tiền nộp chuộc. Chiều về, phải phục dịch chủ, dọn dẹp nhà cửa. Cuộc sống đúng là: “con không biết mặt cha, chó không biết mặt chủ”. </em></p><p> </p><p> </p><p>Thực tế châu Âu cho thấy điều kiện trong xã hội tiền công nghiệp không bao giờ dễ chịu. Việt nam cũng không phải là ngoại lệ. Công nhân các “nhà hàng mồ hôi” ở Nam định, Hải phòng, hầm mỏ Quảng ninh hay các đồn điền miền Nam đều cùng khổ như nhau. Việc tuyển dụng cũng không hẳn là tự nguyện. Các băng nhóm tội phạm nhiều khi rình bắt người trên đường rồi tống thẳng đến các nhà máy. Một số nông dân không đủ tiền nộp tô cho địa chủ trốn ra thành phố. Nhưng cũng chẳng hơn gì. Đồng lương thì chết đói. Bạo lực tràn lan. Charles Dickens mà còn sống hẳn sẽ rất hiểu cuộc sống này. </p><p> </p><p>Rồi cuộc đại khủng hoảng xảy ra. Tư bản Pháp bỏ chạy. Hơn một nửa số nhân viên phải ra đường. Có người chạy về quê cuống quít tìm đường sống. Nhiều người biểu tình phản đối. Bãi công nổ ra tràn lan. Có trường hợp là do Tân Việt hoặc Thanh niên Hội xúi giục, nhưng đa số là tự phát. Tháng ba/1930, công nhân đồn điền Phú riềng nổi loạn. Vài tuần sau đến lượt nhà máy dệt Nam định, rồi Diêm Bến thủy. Pháp thẳng tay dẹp loạn. Đã có nngười chết, nhiều người bị thương. Tình hình đặc biệt nghiêm trọng ở Vinh. Rất nhiều công nhân có nguồn gốc từ những địa phương lân cận, dẫn đến sự bất mãn cao độ ở nông thôn. Hàng ngàn nông dân Thanh chương đã tràn vào đập phá đồn điền và treo cờ đỏ búa liềm. Lính lê dương Pháp đàn áp giết hàng chục người. </p><p> </p><p>Từ cuối năm 1929, Đông Dương CS Đảng đã cử một đảng viên kỳ cựu của mình là Nguyễn Phong Sắc về nằm vùng ở nhà máy Diêm Bến thủy. Vài tuần ngay sau Hội nghị thành lập tháng 2/1930, Tỉnh ủy Nghệ an rồi các chi bộ địa phương liên tiếp được thành lập và hầu như hoạt động tự do vì Pháp không để ý, còn quan lại địa phương thì sợ. Các cán bộ địa phương tự chủ hoạt động mà không cần bất cứ sự lãnh đạo nào từ TƯ, tiếp tục thổi ngọn lửa cách mạng. </p><p> </p><p>Đến đầu tháng 9, tình hình bắt đầu vượt khỏi tầm kiểm soát. Nông dân các huyện dọc sông Cả nổi dậy cướp chính quyền, tổ chức theo kiểu Liên xô thành các Xô-viết, chủ yếu là từ thành phần nông dân nghèo. Chính quyền mới lập tức xóa bỏ các loại sưu thuế, lấy lại ruộng đất từ tay địa chủ để chia cho dân nghèo. Công nhân Bến thủy và học sinh Huế đồng loạt biểu tình ủng hộ. Lo sợ, Pháp lập tức tăng cường quân lê dương để hỗ trợ quân triều đình. Ngày 12/9 khi hàng ngàn người từ Yên Xuyên đổ về Vinh để chiếm trụ sở ngân hàng Đông dương, máy bay Pháp đã ném bom thẳng vào đoàn người. Con đường từ Yên xuyên về Vinh đẫm máu và xác người. </p><p> </p><p>Trong lúc Nghệ Tĩnh đang bạo loạn, Đảng bộ địa phương đang bối rối không biết phải hành động thế nào, tại Hongkong, những lãnh đạo cao cấp ráo riết chuẩn bị cho Hội nghị toàn thể trung ương lần thứ nhất. Cuối tháng 9, đoàn Nam bộ đến nơi nhưng chẳng thấy dấu hiệu gì của đoàn Bắc và Trung bộ. Được sự đồng ý của Quốc, anh em định bỏ về, thì thật may mắn có mấy đại biểu của Bắc kỳ đến từ Hải phòng ngay trước giờ lên đường. Tất cả quyết định vẫn tiếp tục hội nghị. Quốc và Trần Phú đi Thượng hải để tư vấn với Noulens. Đầu tháng 10, Phú quay về. Quốc ở lại thêm vài ngày rồi trở về HongKong trên một con tàu Mỹ. </p><p> </p><p>Ngày 20/10, Hội nghị khai mạc tại một căn hộ nhỏ ở phố Khai Y, đảo HongKong. Nhờ trời, đến lúc này, đại biểu 3 miền đều có mặt, trừ một đại biểu đã đến được HongKong nhưng lại bị lạc vì không tìm được địa điểm <img src="https://lichsuvn.info/forum/images/smilies/24.gif" alt="" class="fr-fic fr-dii fr-draggable " data-size="" style="" />. Quốc vừa là chủ tịch vừa là đại diện của QTCS. Trong số đại biểu, có một thiếu nữ da nâu, hấp dẫn. Đó chính là Nguyễn Thị Minh Khai, được cử sang giúp cho Quốc tại Văn phòng miền Nam từ tháng 4/1930. Chủ đề chủ yếu của Hội nghị là thảo luận cương lĩnh chính trị chính thức thay thế đề cương tạm thời do Quốc soạn thảo tại Hội nghị thống nhất hồi tháng 2. Đề cương của Quốc thừa hưởng từ cương lĩnh của Thanh niên Hội nên hiển nhiên là có một số điểm không trùng với quan điểm chính thống của Matxcova tại thời điểm này, tỷ như vai trò chính thống của giai cấp công nhân hoặc kế hoạch cách mạng 2 giai đoạn của Lênin. Đa số các đại biểu đã chấp nhận quan điểm của Matxcova, thay thế cho những “khiếm khuyết” của đề cương tạm thời của Quốc. Ngày 9/12, Ban chấp hành TƯ mới ra thông tư (chắc là do Phú thảo), đả kích quan điểm mặt trận thống nhất bao gồm cả những phần tử tư sản của hội nghị tháng 2. Thông tư cũng phê phán chủ trương hợp nhất bình đẳng, cho rằng lẽ ra phải chọn những thành phần ưu tú nhất của mỗi phái. </p><p> </p><p>Cương lĩnh chính trị mới đề nghị thành lập mặt trận phản đế, do công nhân lãnh đạo, kết hợp với bần nông và trung nông. Mặt trận không cấm các phần tử tư sản, nhưng cương lĩnh cảnh báo, phải hết sức cẩn thận với bọn này. Đảng có thể hợp tác với các đảng dân tộc khác, nhưng phải chống lại quan điểm “dân tộc hẹp hòi” của các đảng này, và tiêu diệt ảnh hưởng của chúng đến quần chúng. Cương lĩnh cũng đề xuất khai trừ những phần tử chủ trương khủng bố, ám sát, coi thường quần chúng. Chủ trương này chắc chắn được sự ủng hộ của Quốc, vì ông đã phát biểu tương tự khi nhận xét cuộc khởi nghĩa Yên bái. Một kết quả nữa của hội nghị tháng 10 là việc <strong><em>đổi tên đảng từ đảng cộng sản Việt nam thành đảng cộng sản Đông dương do sức ép của Liên xô</em></strong>. Rõ ràng là Matxcova cho rằng chữ “Việt nam” quá “dân tộc chủ nghĩa” không phù hợp với “cách mạng thế giới”. QTCS cũng đang kêu gọi những nước nhỏ thành lập những đảng khu vực. </p><p> </p><p> </p><p>Tình hình bạo loạn ở miền Trung cũng đã gây chú ý. Đến lúc đó gần như mọi sự ngã ngũ, cuộc nổi dậy chỉ diễn ra lẻ tẻ ở vài huyện. Nông dân, công nhân, tầng lớp thị dân, thậm chí cả dân nghèo miền Bắc cũng tỏ thái độ thờ ơ, không nổi dậy hưởng ứng. Nghị quyết hội nghị kêu gọi các lãnh đạo địa phương tìm mọi cách để mở rộng phạm vi ảnh hưởng trong cả nước, và chỉ thị không được manh động, sử dụng bạo lực mù quáng. Một thông điệp gửi riêng cho đảng bộ Nghệ tĩnh nêu rõ: </p><p> </p><p><em>Nếu quần chúng đứng lên tự phát, đảng đương nhiên phải lãnh đạo. Trường hợp này, có bằng chứng cho thấy đảng bộ địa phương đã chủ động “giật dây”, và đấy là một sai lầm chết người:</em></p><p><em>1/ Tình hình cách mạng và nhận thức quần chúng chưa chín muồi ở nhiều địa phương.</em></p><p><em>2/ Tại một số xã, phong trào mạnh thì lại quá thiếu vũ khí. </em></p><p> </p><p>Hội nghị đã bầu Ban chấp hành TƯ và Ban thường vụ gồm Trần Phú, Nguyễn Trọng Nghĩa và Nguyễn Phong Sắc (mặc dù ông này không dự). Trần Phú còn được bầu làm Tổng bí thư. Quốc tiếp tục là đại diện cho QTCS. Ban đầu Ban thường vụ định đóng ở Hải phòng, nhưng sau chyển vào Sài gòn do lý do an ninh. Quốc không thể không biết rằng những quyết định của Hội nghị lần này đã mâu thuẫn rõ ràng và thậm chí trắng trợn với những tư tưởng và phong cách lãnh đạo của mình. Nhiều chỉ trích hoàn toàn không có cơ sở. Từ thời lãnh đạo Thanh niên Hội, Quốc đã cố gắng nâng cao trình độ nhận thức tư tưởng của các thành viên. Bây giờ khi các thành viên trẻ hơn cáo buộc về tội yếu kém về tư tưởng, chắc Quốc rất đau. <strong><em>Trên thực tế, quan điểm mới của QTCS không những không phù hợp với Quốc mà còn là bước lùi so với những tư tưởng của Lenin đầu những năm 20</em></strong>. Quốc đã chấp nhận tất cả với một thái độ nhã nhặn: <em>“lắng nghe và tôn trọng ý kiến người khác”</em> và viết báo cáo gửi cho Noulens sau khi hội nghị kết thúc. </p><p> </p><p>Vào cuối thu và mùa đông năm 1930-1931, Pháp tăng cường đàn áp. Biểu tình bị dập tắt ngay lập tức, quân đội tràn vào chiếm đóng những làng xã ủng hộ biểu tình. Đảng bộ các tỉnh miền Trung báo cáo tinh thần dân chúng xuống thấp. Những phần tử tích cực cuống quýt quay sang các biện pháp như ám sát hoặc khủng bố để trấn áp dân chúng. Pháp càng đàn áp dữ hơn. Ban thường vụ cũng lúng túng, chỉ thị: <em>”chúng ta không có máy bay,không có quân đội để ứng cứu. Nhưng tuyệt đối không được hoảng loạn</em>”. Tại Hongkong, Quốc cũng hết sức cố gắng để lôi kéo sự chú ý của thế giới. Trong báo cáo gửi cho Moscow, Quốc nói suốt ngày gõ cửa các đồng chí ở văn phòng FEB tại Thượng hải, để kêu gọi các đảng khác ủng hộ phong trào tại Việt nam. Trong một bài báo viết năm 1931, có tên “Nghệ Tĩnh đỏ”, Quốc ca ngợi sự kết hợp của công nhân với nông dân và kết luận, cuộc nổi dậy xứng đáng được tô màu “đỏ”. </p><p> </p><p>Quốc cũng hết sức băn khoăn về khả năng của mình có thể tham gia tích cực vào việc lãnh đạo phong trào. Mâu thuẫn với Trần Phú ngày càng căng thẳng. Phú thẳng cánh chỉ trích quan điểm “dân tộc” của Quốc, phản bội lại những tư tưởng của QTCS. Phú cũng không dấu diếm tham vọng kiểm soát đảng trong tương lai. Trong một lá thư gửi Quốc tháng Giêng năm 1931, Phú kêu ca về sự mất liên lạc với văn phòng FEB tại Thượng hải và cho rằng Quốc chính là thủ phạm. Phú viết, nếu Quốc không thể đảm bảo được liên lạc, thì văn phòng ở Hongkong có vai trò gì? Mặc dù rất khó chịu với giọng điệu “bề trên” của Phú, Quốc vẫn tìm cách bắt liên lạc với Thượng hải và thúc giục Noulens nhanh chóng có những chỉ thị cho phong trào ở Việt nam.</p><p> </p><p>*********************</p><p>FEB - Cục Viễn đông </p><p> </p><p> </p><p>Đầu tháng 3, Joseph Ducroux, điệp vụ của QTCS dưới tên gọi Serge Lefranc đến HongKong để gặp Quốc trong chuyến đi thị sát khu vực. Quốc và Lefranc quen nhau từ đầu những năm 1920 khi cùng tham gia Liên đoàn cộng sản trẻ tại Paris. Lefranc cho rằng sử dụng Quốc chỉ với mục đích liên lạc và phiên dịch thì quá phí và đề nghị chuyển Quốc về văn phòng Thượng hải, trực tiếp chỉ đạo Đông dương. Hai tuần sau, Lefranc đến Sài gòn. Ngày 23, Ngô Đức Trí, thành viên Ban thường vụ mới, từng gặp Lefranc khi học tại trường Stalin, gặp Lefranc tại khách sạn Sài gòn Palace. Ngày hôm sau, Lefranc gặp 2 thành viên còn lại tại nhà Phú, chuyển tiền và hứa Noulens sẽ sớm gặp ban lãnh đạo Đảng CS Đông Dương. Lefranc cũng thông báo việc chuyển Quốc về Thượng hải. Sau khi gửi bưu thiếp cho Quốc, Lefranc rời Sài gòn ngày 27. </p><p> </p><p>Cảnh sát Pháp bắt đầu thành công trong việc truy quét, bắt bớ những phần tử cộng sản đầu sỏ, từ đó tra khảo ra những đầu mối khác. Nội bộ phong trào bắt đầu có hiện tượng rối loạn, nghi kỵ lẫn nhau. Thậm chí khi Nguyễn Đức Cảnh bị bắt năm 1929, đảng bộ miền Trung đã quyết định ám sát ông này trong nhà tù để khỏi khai lung tung. Cuối tháng 3/1931, Trần Phú triệu tập hội nghị trung ương lần thứ hai tại Sài Gòn.Không rõ là hội nghị bàn về vấn đề gì nhưng thấy nghị quyết dũng cảm tuyên bố nhờ tình hình thế giới </p><p>thuận lợi và những cố gắng của đảng, phong trào vẫn phát triển mạnh mẽ. Hội nghị cũng thừa nhận những vấn đề nghiêm trọng đang tồn tại. Vai trò lãnh đạo của đảng tại Bắc kỳ rất yếu, do tư tưởng “tiểu tư sản” bị thừa hưởng từ Thanh niên Hội, không thâm nhập được vào giai cấp nông dân và công nhân. Vài ngày sau hội nghị, cảnh sát bất thình lình ập vào ngôi nhà Ban thường vụ đang họp kín với đại diện các địa phương ở Nam bộ. Tất cả đều bị bắt, trừ Trần Phú đúng lúc đó đang ra vườn đi vệ sinh nên đã kịp thoát ra cổng sau. Trong tù, Ngô Đức Trí không chịu được tra tấn đã khai ra tuốt tuột. Đến ngày 17/4, trong ban lãnh đạo đảng, chỉ còn Trần Phú tự do. </p><p> </p><p>Cùng ngày, Phú viết thư cho văn phòng FEB - Cục Viễn đông , buộc tội những đảng viên nòng cốt Bắc kỳ và Trung kỳ, vẫn bị ảnh hưởng của giới lãnh đạo cũ, chống đối lại đường lối mới, dẫn đến thảm họa hiện tại. Tuy nhiên Phú vẫn lạc quan thông báo, hiện tại đảng đã có tới 2400 đảng viên so với 1500 hồi tháng 10; hơn 63000 nông dân đã tham gia cách mạng, so với chỉ có 2800 mùa thu năm trước. Đảng sẽ phát triển và cần tiền, Phú kết luận. Trước đó vài ngày, Noulens đã viết thư phê phán Quốc ở HongKong không cung cấp đầy đủ các thông tin về tình hình ở Đông dương, chẳng hạn tại sao lãnh đạo bị bắt và trong hoàn cảnh nào? Để FEB có thể rút ra những kinh nghiệm và bài học. Noulens cho rằng việc chuyển Quốc về Thượng hải tại thời điểm này là không hiện thực và cần chuẩn bị kỹ lưỡng hơn nữa. Ngày 20/4, Quốc viết cho Ban thường vụ ở Sài gòn, chuyển tải những yêu cầu của Noulens. Ngày 24/4 Quốc viết cho Phú, kêu ca về vai trò của mình chẳng khác gì “hộp thư”, và sẵn sàng làm nhiệm vụ khác. Trong mọi trường hợp Quốc nhấn mạnh vai trò của việc bảo đảm thông tin đầy đủ. Nhưng Phú không bao giờ nhận được những bức thư này. Ngày 18/4 Phú bị bắt. Mấy tháng sau, Phú chết trong tù. Có nguồn tin nói là do lao phổi, nguồn khác lại cho rằng do tra tấn. Ngô Đức Trí và Nguyễn Trọng Nghĩa đang ngồi tù. Nguyễn Phong Sắc bị hành hình trong tháng 4. Ban lãnh đạo đảng trong Đông dương hoàn toàn bị tan rã. </p><p> </p><p> </p><p>Theo báo cáo của Surête, cuối mùa xuân năm 1931, hơn 2000 người đã bị hành hình, 51000 thành viên của phong trào bị bắt. Thêm vào đó là hạn hán trong các tỉnh miền Trung dẫn đến mất mùa. Hơn 90% dân Nam đàn, Nghệ an có nguy cơ chết đói. Ngay cả những người ôn hòa như Bùi Quang Chiêu cũng phải viết trên tờ La Tribune Indochinoise: miền Trung đang yên tĩnh, nhưng đó là sự im lặng của chết chóc. </p><p> </p><p>Ngày 12/5/1931, Noulens gửi cho Quốc bản đánh giá có tính phê phán tình hình Đông dương. Noulens phê phán lãnh đạo đảng đã không tuân thủ nghiêm ngặt những chỉ dẫn của QTCS. Đặc biệt là chủ nghĩa “anh hùng quá khích”, nổi dậy vội vã, bắn cảnh sát hay những hành động khủng bộ khác đã làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến phong trào. Họp hành thì dài dòng và thoải mái, không có những biện pháp bảo mật. Thiếu những biện pháp giáo dục và tổ chức quần chúng. Cuối cùng Noulens hứa sẽ báo cáo tình hình Đông dương cho phong trào cách mạng thế giới và dặn “Tìm mọi cách viết cho chúng tôi về hoạt động, thành tích và thất bại của các bạn” </p><p> </p><p>Trong lúc chờ đợi phân công công tác mới, Quốc sống trong một căn hộ nhỏ ở bán đảo Cửu long và sa vào quan hệ tình ái với Nguyễn Thị Minh Khai.????? Cũng như Quốc, Duy (tên hoạt động của Nguyễn Thị Minh Khai) là cầu nối giữa quá khứ và hiện tại. Cô sinh năm 1910 tại một gia đình danh giá ở Hà đông. Ông nội Duy là một quan chức triều đình ở Bắc giang, đã đậu đến Phó bảng. Bố Duy, ông Nguyễn Văn Bình, sau khi thi trượt, chấp nhận làm một nhân viên hỏa xa ở Vinh năm 1907. 14 tuổi, khi vào trường trung học, Duy được Trần Phú truyền bá những tư tưởng cách mạng. Năng nổ và xinh xắn, cô lập tức được Quốc chú ý ngay khi đến Hong kong. Không có nhiều tài liệu viết về mối tình Quốc-Khai và cũng không rõ họ có cưới nhau chính thức hay không? </p><p> </p><p>Cuộc hôn nhân của Quốc với Tăng Tuyết Minh coi như tan vỡ sau khi Quốc bỏ trốn năm 1927, mặc dù có một số chứng cớ cho thấy Minh đã gặp Quốc tại HongKong đầu những năm 1930. Lâm Đức Thụ đã khai với mật thám Pháp là Minh chê Quốc già, và đồng ý lấy Quốc chỉ vì tiền???? Trong một bức thư nhờ Thụ chuyển cho Minh, Quốc viết: “Mặc dù chúng ta xa nhau và không nói ra nhưng tình cảm vẫn nguyên vẹn. Cho anh gửi lời hỏi thăm tới mẹ em”. Mùa xuân năm 1931, Quốc xin phép văn phòng FEB được cưới Nguyễn Thị Minh Khai. Noulens trả lời phải báo trước cho ông ta hai tháng trước khi làm đám cưới. Không may, ngay sau đó Khai bị cảnh sát HongKong bắt vì nghi ngờ hoạt động chống phá. Nhờ tự khai là công dân Trung Quốc dưới cái tên Trần Thái Lan, Khai bị di lý về Quảng đông, tống giam vài tháng rồi được thả ra vì thiếu chứng cớ. Khoảng cuối tháng 4, đầu tháng 5, Quốc viết thư cho Noulens thông báo vắn tắt một đồng chí trong đội liên lạc bị bắt. Sau đó lại nhắc lại đề nghị được chuyển công tác. </p><p> </p><p>Cùng thời điểm, Lefranc vẫn tiếp tục chuyến đi của mình đến Singapore để tiếp xúc và thu nhập thông tin với các thành viên của đảng cộng sản Malayan - MCP. Cả Quốc lẫn Noulens đều đang rất cần những thông tin này. Do được Quốc báo trước, một lãnh đạo của MCP là Phú Đại Thanh, chiến hữu của Quốc khi thành lập đảng ở Xiêm, đã hẹn gặp Lefrance tại Collier’s Quay. Cảnh sát Anh đã theo dõi Lefranc từ lâu và mất dấu ông này ở Ấn và Xrilanca. Lần này thì chúng gặp may. Phú đang bị cảnh sát bám sát vì quan hệ với một đảng viên người Indonexia Tan Malaka. Khi được biết là Phú sẽ gặp một điệp viên từ châu Âu sang có tên là Lefranc, cảnh sát nghi ngờ ngay đó chính là Joseph Ducroux, đã được London báo từ trước. Sau khi bắt giữ cả hai, cảnh sát đã lục soát phòng ngủ và thu tất cả các giấy tờ của Lefranc, trong đó có cả bưu thiếp của Quốc (dưới tên T.V. Wong) và Noulens. Lefranc và đồng phạm bị xét xử và tống giam tại Sing, còn thông tin về Quốc và Noulens ngay lập tức được báo về Thượng hải và Hong kong. </p><p> </p><p>2:00 giờ sáng ngày 6/6, cảnh sát HongKong ập vào một căn hộ trên bán đảo Cửu long, bắt đi trên tầng 2 một người đàn ông có tên là Tống và một phụ nữ trẻ tự xưng là cháu của ông ta và có tên là Lý Sâm. Dựa trên những tài liệu, truyền đơn thu được, cảnh sát đã xâc định đó chính là điệp vụ của QTCS Nguyễn Ái Quốc, còn người phụ nữ là Lý ưng Thuận, vợ của Hồ Tùng Mậu. Cuộc sống phút chốc bị đảo lộn. Mọi quan hệ với trong nước bị cắt đứt. Đe dọa nhãn tiền là bị dẫn độ cho Pháp và triều đình Annam. Tương lai vô cùng bất định!</p><p> </p><p> </p><p><strong> <span style="font-size: 15px">7.Mất hút </span></strong></p><p> </p><p> </p><p>Năm 1931 là năm các chính quyền thuộc địa tại Đông Á ra tay ngăn chặn làn sóng cộng sản đang dấy lên. Tháng 6, cảnh sát Singapore bắt Serge Lefranc, đặc vụ của QTCS đang đi tour khu vực Đông Nam A theo chỉ thị của văn phòng Thượng hải. Ngày 5/6, phái viên của Đảng CS Đông Dương tại FEB Lê Quang Đạt bị bắt tại nhượng địa Pháp ở Thượng hải. Sáng hôm sau, Nguyến Ái Quốc và đồng chí của mình là Lý Sâm bị bắt tại Hồng kông. Vài ngày sau đến lượt Hilaire Noulens và vợ. Ông này tự khai là công dân Bỉ nhưng đã bị nhanh chóng vạch trần khi lận theo người đến mấy quyển hộ chiếu khác nhau và lãnh sự Bỉ từ chối xác nhận. Mặc dù chẳng có thể gán được cho Noulens tội gì rõ ràng, các quan chức thuộc địa tin chắc rằng ông này là cộng sản gộc và chuyển giao cho chính quyền Quốc dân đảng tại Giang tây. Tại đây Noulens bị kết án chung thân, sau Liên xô thông qua tổ chức Chữ thập đỏ quốc tế đã can thiệp để đưa về Matxcova. </p><p> </p><p>Nguyến Ái Quốc (dưới bí danh là phóng viên Trung quốc Tống Mãn Châu) bị bắt mà không có trát của toà do cảnh sát nghi ngờ là có những hoạt động liên quan đến QTCS. Mặc dù Quốc chẳng phạm tội gì của HongKong, chính sách của Anh lúc đó là không cho phép sử dụng lãnh thổ mình để tiến hành các hoạt động lật đổ. Chính quyền sở tại tin chắc ông là Nguyến Ái Quốc và hy vọng có thể tìm cách để trục xuất Quốc sang Đông dương. Tuy nhiên do lúc đó giữa Pháp và Anh chưa có thoả thuận về dẫn độ tội phạm chính trị, cách duy nhất mà chính quyền có thể làm là đề nghị toà ra lệnh trục xuất Quốc ra khỏi HongKong trên một con tàu và đến một địa điểm đã chỉ định sẵn.</p><p> </p><p> </p><p>Do không có hộ chiếu và Quốc kiên quyết khẳng định mình là người Hoa chứ không phải người Việt nam, toà phải mở phiên điều trần vào ngày 10/7/1931. Tại phiên điều trần này, Quốc chỉ dùng tiếng Anh, khai mình sinh ở Đông hưng (thành phố thuộc Quảng đông gần biên giới với Đông dương). Ông thừa nhận mình đã sang Pháp, nhưng chưa hề tới Nga và càng không liên quan gì đến QTCS. Ông cũng phủ nhận mình có quen biết Lefranc mặc dù công nhận là mình đã ký vào bưu thiếp tìm thấy trong túi của Lefranc. Cuối cùng Quốc đề nghị được dẫn độ sang Anh chứ không phải trục xuất sang Đông dương. Gần cuối phiên điều trần, Quốc bất ngờ nhận được sự trợ giúp về pháp luật từ bên ngoài. </p><p> </p><p>Cho đến nay vẫn chưa rõ là làm thế nào mà luật sư Frank Loseby lại trở thành một nhân vật quan trọng của vụ án này? Có nguồn tin cho rằng ông ta có một trợ lý người Việt, anh này đã kể lại với ông chủ về Quốc. Hồ Chí Minh thì nói rằng mình và Loseby có chung một người bạn giấu tên ở HongKong. Theo thông tin chính thức của Hà nội, Loseby được Tổ chức cứu trợ Đỏ quốc tế và Mặt trận phản đế (một công cụ của Moscow để cứu giúp các đồng chí của mình bị sa cơ) thuê. Loseby lập tức phản đối việc trục xuất Quốc theo những thủ tục bình thường vì điều đó sẽ gây nguy hiểm cho Quốc và Lý Sâm (cô gái cùng bị bắt với Quốc). Lý do đơn giản là chính quyền Pháp ở Đông dương đang theo dõi sát sao vụ này và đã đề nghị chinh quyền HongKong thông báo địa điểm và thời gian trục xuất. Loseby muốn các thân chủ của mình phải được rời HongKong theo sự sắp xếp của chính họ. Thống đốc HongKong lưỡng lự nhưng cũng đồng ý. Ngày 24/7 ông này điện cho Bộ Thuộc địa ở London đề nghị thả tự do cho Quốc và buộc phải rời HongKong trong 7 ngày. Theo ông nếu trục xuất Quốc sang Đông dương thì chẳng khác gì dẫn độ và “mâu thuẫn với những nguyên tắc của nước Anh”. </p><p> </p><p>Tuy nhiên, sự việc diễn ra không đơn giản. Jules Cambon, đại sứ Pháp tại London chính thức lên tiếng phản đối quyết định thả Quốc. Ông ta cho rằng Quốc là một sự nguy hiểm quốc tế và cần phải bị kiềm chế. Mặc dù Pháp không có đủ thẩm quyền pháp lý để đòi hỏi dẫn độ Quốc, chính phủ Pháp muốn chính phủ Anh hiểu rõ quan điểm của mình. Ông này cũng nhắc lại đề nghị của tổng lãnh sự Pháp tại HongKong đề nghị trục xuất Quốc sang Đông dương. Bộ Ngoại giao Anh, muốn lấy lòng Pháp trong việc chung sức chống lại các hoạt động lật đổ đã đồng ý với quan điểm này .</p><p> </p><p> </p><p>Yêu cầu của Bộ ngoại giao đã gây ra cãi nhau to trong Bộ thuộc địa. Mặc dù có nhiều quan chức phản đối cho rằng làm thế khác gì dí cổ Quốc vào lưỡi dao của Pháp, cũng có những quan chức đồng tình với Bộ ngoại giao. Bài phát biểu sau có thể làm rõ quan điểm đó:</p><p> </p><p><em>Cá nhân tôi nhất trí với quan điểm của Bộ ngoại giao là trả lại tay này về Đông dương. Hắn là một tay kích động xấu xa bị bắt cùng một rọ với Le Franc ở Thượng hải. Chúng ta quả là không may vì không tìm được đủ chứng cớ để tống cổ hắn vào tù ở HongKong. Có vẻ các vị cảm thấy là nhân đạo khi cho hắn sang Nga thay vì đẩy vào tay kẻ thù của hắn. Nhưng hãy để ý rằng, các hoạt động cách mạng ở Đông dương là bẩn thỉu, phần nhiều liên quan đến giết người, đốt nhà hoặc tra tấn dã man. Tuy không trực tiếp nhúng tay, nhưng đa phần các vụ này đều do Nguyễn chịu trách nhiệm. Nếu hắn ta được tự do, hắn lại tiếp tục những hành động như vậy. Bởi thế tôi đồng ý quan điểm của chính phủ Pháp là các thế lực Thuộc địa cần đoàn kết với nhau để dập tắt những ổ dịch cách mạng lây lan nhanh chóng này bảo vệ lợi ích của văn minh ở phương Đông. </em></p><p> </p><p>Trước sức ép của Bộ ngoại giao, cuối cùng thống đốc HongKong đã ra lệnh trục xuất Quốc sang Đông dương. Đoán trước được ý định đó, Loseby đã sử dụng lên đình quyền giam giữ yêu cầu mở phiên toà công khai để xem xét tính pháp lý của vấn đề. Ngày 14/8, toà tối cao HongKong đã mở phiên xét xử kéo dài trong mấy tuần. Tại phiên toà, Loseby đã chứng minh là chính quyền đã vi phạm pháp luật khi đặt những câu hỏi có nội dung chính trị, không liên quan gì đến vụ việc, trong lần thẩm vấn Quốc trước đó. Cảm thấy quan toà Ngài Joseph Kemp có thể huỷ bỏ lệnh trục xuất hiện tại, các quan chức HongKong vội vàng thảo một lệnh theo một chương khác của Pháp lệnh về trục xuất năm 1917. Toà đã chấp nhận lệnh mới, nhấn mạnh rằng mặc dù việc trục xuất có thể dẫn đến những hậu quả tương đương như dẫn độ, nhưng cũng chẳng có gì trái với luật pháp nước Anh cả. Lý Sâm được trả tự do, còn Quốc lại đối mặt với nguy cơ bị đưa về Đông dương.<img src="https://lichsuvn.info/forum/images/smilies/59.gif" alt="" class="fr-fic fr-dii fr-draggable " data-size="" style="" /> </p><p> </p><p>Ngay lập tức Loseby chống án lên Hội đồng cơ mật tại London, cho rằng chính quyền đã lạm dụng quyền lực. Được Hội đồng chấp nhận đơn, Quốc có cơ hội thay đổi không khí vì ít nhất là cũng vài tháng sau vụ việc mới được xem xét. Ông được chuyển sang bệnh viện Đường Bowen vì lý do sức khỏe. Mặc dù không có biểu hiện bệnh tật rõ ràng, Quốc bị kiệt sức và trông hốc hác. Trong hồi ký của mình, Quốc miêu tả giai đoạn này khá tăm tối, bị ngược đãi, ăn cơm hẩm, cá thiu và thú vui duy nhất là săn rận. Tuy nhiên một số nguồn thông tin khác cho rằng, trong thời gian ở bệnh viện, Quốc sống khá thoải mái, thường xuyên được vợ chồng một quan chức thuộc địa (bạn Loseby) và một số người châu Âu khác viếng thăm. Loseby cũng bố trí cơm nước cho Quốc từ một nhà hàng cạnh bệnh viện. Quốc dành thời gian rỗi để đọc và thậm chí đã hoàn thành một cuốn sách bằng tiếng Anh. Đáng tiếc là Loseby đã đánh mất nó trong chiến tranh thế giới thứ hai. </p><p> </p><p>Như thường lệ, Quốc cũng không bỏ lỡ cơ hội để tiến hành tuyên truyền cho những tư tưởng cách mạng của mình. Trong một câu chuyện của mình, Quốc kể: <em>Một hôm, có một cô hộ lý Trung Quốc thì thầm hỏi: “Bác ơi, chủ nghĩa cộng sản là gi ạ, bác có phải là người cộng sản không, bác đã làm gì mà bị bắt?” Cô ấy biết rằng, những người cộng sản không phải là trộm cướp, buôn lậu, giết người, cho nên không hiểu vì sao họ lại bị bắt. “Thế này, cháu ạ, nói một cách đơn giản, những người cộng sản muốn xây dựng một chế độ mà các hộ lý Trung quốc không phải phục tùng các quan lớn người Anh nữa” </em></p><p> </p><p> </p><p>Bức thư đầu tiên mà Quốc gửi từ trong tù là cho Lâm Đức Thụ, thông báo đã ở tù 3 tuần. Quốc nói “rất xấu hổ và không có ai để chứng thực cho sự vô tội” của mình. Quốc đề nghị Thụ làm hết sức mình để được tự do và hứa sẽ biết ơn đời đời. Tất nhiên là chẳng có ích gì. Mặc dù biết rõ quan hệ tay đôi của người đồng chí cũ của mình, Quốc vẫn giữ liên lạc và đề nghị Thụ đừng đến thăm vì sợ bị liên luỵ. Sau đó vài tháng Thụ đã báo cho chỉ huy người Pháp của mình là Quốc đã xin 1000 đô HongKong để được đưa sang châu Âu. Khi Thụ nói không có tiền, Quốc đã đề nghị vợ Thụ bán đi một số đồ trang sức.??????</p><p> </p><p>Đây chắc cũng là một giai đoạn cô đơn của Quốc. Người tình mới Nguyễn Thị Minh Khai thì ở trong tù???? cha mới chết trước đó 2 năm tại Nam bộ, không một xu dính túi. Thỉnh thoảng Quốc mới có liên lạc với các anh chị. Anh Khiêm, từng bị bắt vì tạo phản năm 1914, được tha năm 20, sống ở Huế, chủ yếu làm thuốc và xem địa lý để tiếp tục hoạt động nhưng cũng rất túng thiếu. Năm 1926, Quốc đã nhờ Phan Bội Châu gửi cho anh mình một ít tiền. Chị Thanh cũng đầy tai tiếng với chính quyền, bị bắt năm 1918 vì tội tàng trữ vũ khí, được tha năm 22, cũng sống và làm thuốc ở Huế, sau khi cha chết năm 1929, chị có về Kim liên để thắp hương cho bà con. </p><p> </p><p> </p><p>Trong lúc đó, các cơ quan chức năng tiếp tục tranh cãi. Bộ thuộc địa thì đồng ý với chính quyền HongKong về việc trục xuất và để cho Quốc tuỳ nghi di tản. Bộ ngoại giao thì sợ Pháp phật ý, lại muốn tham khảo chính quyền Pháp về các hình phạt có thể áp dụng với Quốc. Tuy nhiên cả hai đều đồng ý chưa có hành động nào trứơc khi Hội đồng cơ mật ở London đưa ra quyết định cuối cùng. Ngày 22/12, Đại sứ Pháp tại London, Jaques Truelle đã trả lời yêu cầu của Anh về các tội Quốc đang bị xử ở Đông dương. Theo ông này, Quốc đích thị là đặc vụ của QTCS tại Đông Nam Á trong đó có nhiệm vụ trợ giúp cả Đảng cộng sản Malay, đang là thuộc địa của Anh. Truelle cũng xác nhận toà án Nam triều đã kết án Quốc tử hình về tội mưu toan lật đổ. Tháng 10/1929, bản án này đã được xem xét lại và hạ xuống khổ sai chung thân. Truelle thông báo là Quốc sẽ được xét xử lại, bản án sẽ được Toàn quyền Đông dương phê duyệt, và mặc dù tội danh vẫn không thay đổi, Pháp bảo đảm sẽ không kết án tử hình Quốc. </p><p> </p><p>Cuối năm 1931, đơn khiếu kiện của Quốc được Hội đồng cơ mật đưa ra xem xét. Quyền lợi của Quốc được luật sư D.N Pritt (hãng Light và Futon) bảo vệ. Đảng viên Đảng Lao động Stafford Cripps đại diện cho chính quyền Hongkong. Ông này, một mặt sợ mất mặt chính quyền HongKong, mặt khác được mấy người bạn ở Bộ thuộc địa có tư tưởng thân cách mạng khuyên bảo, đã đề nghị thoả hiệp. Ngày 27/6/1932, chính phủ Anh đồng ý trả tiền khiếu nại và hỗ trợ Quốc đi đến bất cứ nơi nào Quốc muốn. Cũng có tin đồn là Quốc được tha vì đồng ý nhận làm điệp viên cho Anh???</p><p> </p><p>Đầu tiên Quốc được thông báo là chính phủ Anh đồng ý cho tị nạn chính trị, tuy nhiên chẳng có đường nào đến Anh mà lại tránh được cảnh sát Pháp. Nếu qua kênh Suez, Quốc có thể bị bắt ở Port Said (Ai cập). Qua Nam Phi hoặc Úc thì các chính phủ này lại không đồng ý. Buồn cười nhất là cuối cùng hoá ra chính phủ Anh cũng không đồng ý nhận. Không hiểu sao chữ “không” trong từ “không đồng ý” trong bức điện của London gửi HongKong lại bị ai đó xoá đi mất. </p><p> </p><p>Chính quyền đã bắt đầu sốt ruột với vị khách rắc rối này. Ngày 28/12/1932, Quốc được thả ra khỏi bệnh viện và phải rời HongKong trong vòng 21 ngày. Trước đó, để đánh lừa Pháp, ông Loseby đã tung tin Quốc bị chết vì lao phổi. Tờ “Công nhân hàng ngày” của QTCS tại London đã đưa tin về cái chết của ông trong số ngày 11/8/1932. Quốc phải đóng giả một ông đồ nho, sống tại khách sạn YMCA tại Cửu long vài ngày rồi lên tàu đi Singapore. Rủi thay, cơ quan nhập cảnh Sing lại tống cổ Quốc trở lại HongKong trên tàu Ho Sang. Đến HongKong, cảnh sát lại bắt Quốc vì tội thiếu giấy tờ. Tuy nhiên chính quyền HongKong đã can thiệp, trả tự do cho Quốc ngày 22/1 và cho 3 ngày để tìm đường thoát khỏi thuộc địa. Nhờ sự giúp đỡ của Loseby, tối ngày 25, cảnh sát mặc thường phục đã dùng xuồng máy đưa Quốc ra ngoài khơi đến một con tàu Trung quốc đang nhổ neo đi Hạ môn.</p><p> </p><p>Quốc và người phiên dịch xuống Hạ môn vào sáng hôm sau (thành phố này lúc đó được phương Tây gọi là Amoy) và nhận phòng tại YMCA ở khu Trung quốc. Nhờ một người Hoa địa phương giàu có, bạn của Loseby chu cấp, Quốc chơi bời nghỉ ngơi vài tuần qua Tết ở Hạ môn trước khi lên tàu đi Thượng Hải trong vai một thương nhân người Hoa. Lúc này cảnh sát Pháp đã đánh hơi được Quốc đang ở đâu đó Nam Trung quốc và tăng cường truy nã. Các đảng viên CS Trung Quốc thì đã phải rút hết vào bí mật từ sau vụ tàn sát 1927. May mắn cho Quốc, đúng lúc đó có đoàn đại biểu chống chiến tranh của Quốc hội Pháp do bạn ông từ thời FCP- Đảng CS Pháp, Paul Couturier dẫn đầu đang ở thăm Thượng hải. Quốc quyết định dùng con bài cuối cùng: vợ goá của Tôn Trung Sơn, bà Tống Khánh Linh. Anh thuê một xe taxi, liều mạng phi đến biệt thự của bà này tại Rue Moliere nhượng địa Pháp để bỏ một bức thư vào hộp thư. Trên đường về, nhờ chiếc xe trông quá xịn, Quốc đã thoát được một cuộc vây bắt của cảnh sát Pháp. Madam Tống đã giúp Quốc gặp được Couturier, ông này liên lạc với Đảng CS Trung Quốc và bố trí đưa Quốc lên một chiếc tàu Liên xô chuẩn bị đến Vladivostok.</p><p> </p><p> </p><p>Quốc đến Matxcova mùa xuân năm 1934. Nước Nga xô viết đang ở trong ánh hào quang của giai đoạn công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa và kế hoạch 5 năm lần thứ nhất. Đối với các khách du lịch ngắn ngày và không đi quá xa ra khỏi Matxcova, Leningrat và các thành phố lớn, tình hình quả là được cải thiện đáng kể so với thập kỷ trước. Nhà viết kịch Bernard Shaw đã miêu tả những điều nhìn thấy như một “Cuộc thử nghiệm xã hội vĩ đại”. Tuy nhiên đối với nhiều triệu người dân Xô viết tình hình lại không được khả quan như vậy. Giai cấp trung nông, tiếng Nga gọi là Culac (có nghĩa là nắm đấm) bị tiêu diệt trong công cuộc tập thể hoá nông nghiệp. Của cải của nông dân bị tước đoạt để trang hoàng cho các quầy tạp hoá ở đô thị. Những kẻ chống đối hoặc bị giết hoặc bị đưa đi đày ở Siberia. Hàng ngàn người bị bắt lao động khổ sai tại những công trình thế kỷ như kênh đào Kareli nối vịnh Phần lan với Bạch hải. Nạn đói đã nổ ra tại Ucrain năm 1932, trong 2 năm sau đó, ước tính đã có từ 5-7 triệu người chết đói. Khoảng giữa những năm 30, phong trào chống đối kế hoạch hoang tưởng của Stalin trong đảng phát triển mạnh mẽ. Tuy nhiên Stalin đã ra tay, Trosky bị đẩy đi lưu vong. Kamenev và Zinoviev bị cô lập. Ngôi sao đang lên Kirov bị ám sát. Một cuộc thanh trừng tập thể được tiến hành nhằm vào tầng lớp Bolsevic cũ đã từng cùng với Lenin tiến hành khởi nghĩa. Trong năm 1935, hơn 100,000 người đã bị bắt với tội danh “kẻ thù của quốc gia” chỉ riêng ở Leningrat. </p><p> </p><p>Trên danh nghĩa, những biến động đó chẳng ảnh hưởng đến cá nhân Quốc. Anh được tiếp đón trọng vọng ở văn phòng Dalburo (lúc đó đang do một người cộng sản Phần lan Otto Kuusinen lãnh đạo). Quốc lập tức được phân quản lý 144 sinh viên Việt nam đang học tại học viện Stalin (lúc đó đã được đổi tên thành Học viện các vấn đề Dân tộc và Thuộc địa). Cần phải nhắc lại rằng, các sinh viên VN ở đây đã từng tổ chức lễ truy điệu Quốc và Trần Phú trước đó. Ông Nguyễn Khánh Toàn, một cựu sinh viên kể lại về giai đoạn này: Bác Hồ cực kỳ gần gũi với các sinh viên Việt nam. Thông thường Bác hay đến buổi tối để chia sẻ các kinh nghiệm hoạt động của mình liên quan đến đạo đức của người cách mạng và tình đoàn kết. Có một số học viên trẻ kiêu ngạo hoặc tự ái hay cãi nhau những chuyện lặt vặt, Bác lại là người đứng ra phân xử. Bác nói: “Nếu chúng ta không giữ được đoàn kết trong một nhóm nhỏ thế này, làm sao có thể nghĩ đến chuyện thống nhất quần chúng để lật đổ chế độ thuộc địa khi về nước”</p><p> </p><p>Quốc cũng như các học viên học viện được sống khá dễ thở trong chế độ bao cấp: ăn, ở và dịch vụ y tế miến phí. Hè được đi nghỉ ở Crum. Mỗi tháng lĩnh 140 rub tiêu vặt. Bởi thế cũng dễ hiểu là Quốc có thể chẳng biết gì về những bi kịch đang diễn ra trong xã hội xô-viết. Sức khỏe Quốc không được tốt. Tháng 9/1934, Quốc đi dưỡng bệnh vài tuần ở Crưm, sau đó anh nhập học một khoá 6 tháng ở Trường Đại học Lenin, chuyên việc đào tạo cán bộ cho các Đảng cộng sản anh em. Không có nhiều thông tin lắm về những tháng đầu tiên Quốc tới Nga. Chỉ biết rằng, Quốc rất tích cực tham gia các hoạt động xã hội, tranh cãi bảo vệ quyền lợi cho các đồng chí Việt nam và cách mạng Việt nam. Ở nhà, anh chịu khó tập thể dục để phục hồi sức khoẻ. </p><p> </p><p>Quan điểm trước đây của các nhà sử học là Quốc may mắn đứng ngoài rìa những cuộc thanh trừng tập thể đang diễn ra lúc đó. Những thông tin mới được tiết lộ gần đây nhất ở Moscow cho thấy thực tế không phải như vậy. Có vẻ như Quốc đã bị một toà án gồm có ông bạn cũ Manuilsky, chiến binh đa mưu của Đảng CS Trung Quốc - Khang Sinh và bà Valeria Vasilieva xét hỏi. Không rõ tội danh của Quốc là gì, tuy nhiên chỉ riêng việc ông có những quan điểm trái ngược với đường lối của Đại hội QTCS lần 6 về cách mạng dân tộc, thêm vào đó lại là bạn thân của Borodin đang bị xét xử cũng đã quá đủ để Stalin nghi ngờ. Việc Anh thả Quốc tháng 12/1932 cũng làm dấy lên một số nghi vấn là ông đã nhận làm gián điệp để đổi lấy tự do. Chắc là nhờ sự bảo trợ của Manuilsky và đặc biệt là Vasilieva, Quốc đã thoát tội. Bà này đại diện cho bộ máy của QTCS trong việc tiếp xúc với các sinh viên Việt nam và rất nhiệt tình bảo vệ Quốc cho rằng lỗi duy nhất của ông là thiếu kinh nghiệm. Trong một bức thư gửi cho lãnh đạo của Đảng CS Đông Dương tại Nam Trung quốc, bà đã viết: </p><p>“<em>liên quan đến Nguyễn Ái Quốc, anh ta cần phải học thật tốt trong 2 năm tới và không làm gì khác. Sau khi anh ta học xong, chúng tôi sẽ có kế hoạch sử dụng” </em></p><p> </p><p> </p><p><em>Trong khi Quốc đang ở Moscow, các chiến hữu ở trong nước đang ra sức khôi phục lại bộ máy của Đảng sau khi các lãnh đạo cao cấp bị bắt từ tháng 4/1931 tại Nam bộ. Để giúp đỡ , Đảng CS Đông Dương, QTCS đã kêu gọi tất cả các đảng CS lên tiếng ủng hộ cuộc “khởi nghĩa” của công nhân ở Đông dương. Hơn 30 học sinh VN tại Moscow được lệnh hồi hương để giúp đỡ các đồng chí của mình. Mặc dù đa số bị Pháp bắt hoặc đào ngũ (một nguồn tin nói 22 trong số 35 người đã bị vô hiệu hoá), một số cũng đến được đích. Trong đó có Lê Hồng Phong, đệ tử cũ của Quốc ở Tâm tâm xã. Phong học lái máy bay ở Leningrad, sau đó chuyển đến trường Stalin năm 1929, rời Liên xô năm 1931. Tháng 4/1932, Phong về đến Long châu, một thành phố nhỏ ở biên giới Quảng tây và VN. Sau đó cùng với 2 đồng môn Phùng Chí Kiên và Hà Huy Tập, Phong chuyển đến Nam ninh và lập ra Ban chỉ huy hải ngoại có nhiệm vụ làm cầu nối giữa QTCS và bộ máy đảng ở trong nước. </em></p><p> </p><p><em>Đảng cũng chia ra theo các vùng để dễ bề khôi phục. Đến giữa những năm 30, dân số Việt nam vào khoảng 18 triệu, trong đó 4 triệu ở Nam bộ, 5 triệu ở Trung bộ, còn lại ở Bắc bộ. Một cựu học viên của trường Stalin, ông Trần Văn Giàu, chịu trách nhiệm khôi phục lại bộ máy ở Nam bộ. ông này về Sài gòn đầu năm 1933. Đường lối của Moscow lúc đó là chỉ chiêu nạp đảng viên trong tầng lớp công nhân thành thị. Tuy nhiên mặc dù thất nghiệp tràn lan do cuộc đại khủng hoảng, công nhân vẫn có vẻ thờ ơ với chính trị. </em></p><p> </p><p><em>Đảng có ảnh hưởng sâu rộng hơn nhiều trong nông dân ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu long vốn chẳng ưa gì tầng lớp địa chủ và quan lại tham nhũng. Lợi dụng chính sách có vẻ “thoáng” hơn của chính quyền, một số thành viên theo trường phái Trosky đã xuất bản tạp chí La Lutte. Thậm chí có cán bộ Đảng còn đăng ký chạy đua vào hội đồng thành phố. Giữa năm 1933, xứ ủy Nam kỳ được thành lập với 2 tiểu ban phụ trách các tỉnh miền đông và miền tây và một trường đào tạo cán bộ. Phòng Nhì Pháp bất lực vì không được lệnh ra tay. Trần Văn Giàu đã bị bắt nhưng lại được tha vì không có chứng cớ. Chỉ có tay ám sát chuyên nghiệp Lê Hồng Sơn, sau một hồi lẩn trốn, cuối cùng cũng bị bắt tại nhượng địa Pháp ở Thượng hải. Sau đó Sơn bị dẫn độ về VN và bị triều đình xử tử vào tháng 2/1933 tại Vinh. </em></p><p> </p><p><em>Tình hình ở các vùng khác không được khả quan lắm. Tại Annam, một số đảng viên từ Xiêm về tìm cách kết hợp với các đảng viên bị bắt trong đợt Xô viết Nghệ tĩnh mới được tha để phục hồi lại cơ sở đảng. Tuy nhiên có sự nghi kỵ đối với các đảng viên đã từng ở tù. Tỉnh uỷ Nghệ an còn ra tuyên bố: “trong 100 đảng viên cộng sản cũ, chỉ có một có khả năng trung thành với các học thuyết của đảng”. Dù sao, đến giữa năm 1934, ba khu uỷ đã được thành lập, mỗi uỷ ban phụ trách từ 5-7 tỉnh. Tonkin là vùng trắng cho đến năm 1934 khi một số đảng viên bắt đầu hoạt động lại ở Việt bắc. Sau đó nhờ có sự móc nối của Lê Hồng Phong, xứ uỷ Bắc kỳ mới được thành lập lại. Cũng vào khoảng thời gian đó, một số đảng viên do Quốc gây dựng từ những năm trước đã thành lập ủy ban trung ương lâm thời tại cao nguyên Khorat để tuyển mộ và đào tạo thành viên cho các hoạt động trong nước. Uỷ ban này sau đó đã tự xưng là văn phòng liên lạc của xứ uỷ Nam kỳ và Trung kỳ với thế giới bên ngoài. Các uỷ ban tương tự cũng được thành lập ở Lào và Campuchia. </em></p><p> </p><p><em>Vấn đề quan trọng của đảng là xem xét lại chiến lược của mình sau những tổn thất lớn lao trong Xô Viết Nghệ Tĩnh. Khoảng giữa năm 1932, Lê Hồng Phong cùng với một số đồng chí nữa đã dự thảo cương lĩnh mới. Cương lĩnh này hiển nhiên chịu ảnh hưởng của xu thế chính trị lúc đó tại Matxcova nên mang nặng tính bè phái và thiên tả. Cương lĩnh nhấn mạnh tầm quan trọng của cách mạng phản phong so với cuộc đấu tranh phản đế và hết sức nghi ngờ các đảng phái có tính dân tộc. Tờ Bolsevic, cơ quan của uỷ ban hải ngoại cũng tập trung vào những luận điểm tương tự. Các bài báo được cho là của Hà Huy Tập đã phê phán những quan điểm “tiểu tư sản” như “cách mạng dân tộc phải xảy ra trước cách mạng XHCN”. Tập cũng chỉ trích các cơ sở đảng trong nước quá chú trọng trong việc huy động nông dân và yêu cầu họ tuyển mộ nhiều công nhân hơn nữa. Theo Tập, nông dân “tham lam sở hữu, không chính kiến, không đoàn kết, chậm hiểu biết các tư tưởng mới và không thể trở thành lực lượng cách mạng”. Tuy những lời phê phán không nhằm vào ai cụ thể, rõ ràng mục tiêu của ban biên tập là những luận điểm và chính sách của Nguyễn Ái Quốc. Một bài báo, sau khi đề cập việc “một số đồng chí trong nước cho rằng địa chủ và tư sản dân tộc cũng có tinh thần chống đế quốc và như vậy có thể trở thành một phần của cách mạng” đã nói toẹt rằng đó chính là những quan điểm của Nguyễn Ái Quốc tại đại hội thống nhất tháng 2/1930, nhưng sau đó đã bị các lãnh đạo mới của đảng loại bỏ. Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân chứ không phải của tất cả quần chúng. Bài báo viết: “Đảng cộng sản lánh đạo cuộc đấu tranh giai cấp chứ không phải đấu tranh dân tộc. Bởi vì đây là đảng của giai cấp công nhân, trên tinh thần vô sản quốc tế, đảng phải kiên quyết chống lại những tư tưởng dân tộc và những tuyên truyền sáo rỗng kiểu: khôi phục đất nước của những con rồng, cháu tiên. Chúng ta chống lại thực dân Pháp, nhưng không có nghĩa là chúng ta ủng hộ các tư tưởng dân tộc.” </em></p><p> </p><p><em>Hà Huy Tập còn chỉ trích gay gắt hơn “Chúng ta chịu ơn Nguyễn Ái Quốc, nhưng các đồng chí không được quên bản chất dân tộc của Nguyễn Ái Quốc và những chỉ đạo sai lầm của ông về các vấn đề cách mạng tư sản dân tộc, cũng như những lý thuyết có tính cơ hội mà ông đã gieo rắc trong các thành viên Thanh niên Hội và Tân Việt...Ông không chịu tuân theo những chỉ thị của QTCS trong việc sát nhập. Bản cương lĩnh chính trị tháng 2/30 cũng như đảng thống nhất mới đã không tuân thủ những nguyên tắc của QTCS. Nguyễn Ái Quốc còn lớn tiếng ửng hộ những chiến thuật sai lầm và thoả hiệp như “trung lập với giai cấp tư sản và địa chủ, liên kết với các trung nông và nông dân”. Do đó từ tháng 1 đến 10/30, Đảng CS Đông Dương đã tiến hành một đường lối đối lập với QTCS. Mặc dù đảng đã hăng hái lãnh đạo quần chúng vùng lên, các xô viết trong Xô Viết Nghệ Tĩnh cũng đã không làm theo các đường lối chính trị đúng đắn” </em></p><p> </p><p> </p><p><em>Tháng 6/1934 Lê Hồng Phong và Hà Huy Tập đã triệu tập hội nghị tại Makao để bàn về đường lối tương lai cũng như chuẩn bị cho Đại hội đảng lần thứ nhất. Nghị quyết của hội nghị này đã phê phán các nhà cải lương dân tộc như Bùi Quang Chiêu, Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn An Ninh. Nghị quyết cho rằng hội này rất nguy hiểm vì “giả danh bảo vệ các tầng lớp lao động, chống lại chính quyền, đòi hỏi các cải cách hiến pháp, thống nhất giai cấp chỉ nhằm mục đích đưa nhân dân khỏi con đường cách mạng”. Bởi thế nhiệm vụ quan trọng của đảng là chống lại sự ảnh hưởng của những nhóm tương tự, cũng như những tư tưởng rơi rớt từ Thanh niên Hội và Tân Việt.</em></p><p> </p><p><em>Hội nghị cũng quyết định triệu tập Đại hội lần thứ nhất tại Hồng kông vào tháng Giêng 1935. Tuy nhiên theo nguồn của mật thám Pháp, QTCS đã đề nghị chuyển sang tháng 3. Địa điểm cũng được quyết định lại là Macao. Từ cuối mùa hè năm 34, các lãnh đạo đảng đã dự thảo những văn kiện sẽ thảo luận tại đại hội. Giấy mời cũng được gửi đi các nơi, yêu cầu tập trung vào ngày 15/3. Ban lãnh đạo rất hy vọng là Moscow sẽ cử đoàn đại biểu chính thức tham dự. Khoảng đầu tháng 8, Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai (mới được thả ở Quảng châu, lấy tên là Vân) và Hoàng Văn Nón (đảng viên từ Cao bằng) lên đường đi dự đại hội 7 QTCS dự kiến sẽ tổ chức ở Moscow hè năm sau. </em></p><p> </p><p><em>Hà Huy Tập đương nhiên nhận trách nhiệm chuẩn bị đại hội Đảng. Tập sinh ở Nghệ an, đầu tiên tham gia Tân việt, sau đó trốn sang Thanh niên Hội. Khi học ở trường Stalin, Tập tỏ ra rất nhạy bén về lý thuyết và lớn tiếng phê phán những thiếu sót về tư tưởng của Hội. T<strong><em>rong con mắt của mật thám Pháp, Tập là người kiêu ngạo, gian giảo và đa nghi đến cực điểm</em></strong>. Tập thường xuyên gây vấn đề với các đồng chí của mình và được gọi là “Ông Lùn” vì tầm vóc thấp bé của mình. Quan hệ căng thẳng nhất là với Trần Văn Giàu. Ông này đến Macao từ Nam bộ vào tháng 9/1934, một mặt để báo cáo tình hình, mặt khác tham gia vào quá trình chuẩn bị đại hội. Giàu chắc chắn coi Tập là chíp hôi. Còn Tập thì nghi ngờ vì sự ngạo mạn và độc lập của Giàu. Thậm chí Tập còn nghi Giàu là mật thám Pháp và viết thư mách về Moscow. Mãi sau này, khi có tin về việc Pháp lục soát khám xét nhà Giàu, Tập mới thừa nhận là mình không có cơ sở. </em></p><p> </p><p><em>Kẻ phá hoại hoá ra nằm ở chỗ khác. Ngay trước thềm đại hội, một đảng viên kiêm nấu bếp tên là Nguyễn Văn Trâm đã cuỗm toàn bộ tiền quỹ của đảng và trốn sang HongKong. Vì Trầm nằm trong thành phần đi chọn địa điểm đại hội, ban lãnh đạo quyết định phải thay đổi địa điểm. Tập còn nghi một thành viên nữa là Nguyễn Hữu Cần có thể đã báo tin cho cảnh sát Pháp. Tập định lừa mật thám bằng cách ngầm cho Cần này biết là do khó khăn nên đại hội đảng có thể không tổ chức được. Trần Văn Giàu được phái về Nam bộ để xây dựng bộ máy. Cuối cùng thì đại hội cũng được tổ chức vào 27/3. Có Tập, Hoàng Đình Gióng, Phùng Chí Kiên và độ mươi đại biểu khác. Không có đoàn nào từ QTCS và cũng chẳng có đại diện của đảng cộng sản nào. Thời điểm đó, đảng có khoảng 800 đảng viên ở Đông dương và Xiêm. Đa số là người Kinh và ở quãng tuổi 20-30. Sự có mặt của Minh Khai, người tình một thời của Nguyễn Ái Quốc trong bộ máy lãnh đạo chứng tỏ không có sự phân biệt nam nữ đáng kể. Mặc dù ở Moscow, gió đã có vẻ đổi chiều, đại hội vẫn thông qua nghị quyết giữ nguyên đường lối cũ, xây dựng mặt trận thống nhất trong phạm vi hẹp, thâm nhập các đảng dân tộc để lùa các thành viên sang bên ta. Uỷ ban trung ương gồm 9 thành viên do Hà Huy Tập làm tổng bí thư sẽ đóng trụ sở tại Sài gòn. Ban liên lạc hải ngoại của Phong được chuyển sang Thượng hải. Trong báo cáo gửi QTCS ngày 31/3, Tập còn tranh thủ đả Nguyễn Ái Quốc mấy phát nữa. Tập viết: toàn đảng đang tiến hành cuộc chiến chống lại những tư tưởng “cách mạng dân tộc rơi rớt từ thời Thanh niên Hội dưới sự lãnh đạo của Nguyễn Ái Quốc. Những tư tưởng đó là trở ngại chính cho chủ nghĩa cộng sản”. Tập còn đề xuất Nguyễn Ái Quốc phải viết bản tự kiểm điểm. Vài tuần sau, Tập lại tấn công tiếp, dẫn lời một số đại biểu đại hội đã quy một phần trách nhiệm cho Quốc trong việc hàng trăm đảng viên Đảng CS Đông Dương bị bắt. Tập buộc tội Quốc đã tiếp tục dùng Lâm Đức Thụ mặc dù biết rõ tay này là mật thám Pháp, Quốc còn bắt các học viên trường thanh niên Quảng châu nộp ảnh và khai tên tuổi họ hàng. Những thông tin này sau bị rơi vào tay Pháp. Cuối cùng Tập kết luận “Nguyễn Ái Quốc không thể chối bỏ trách nhiệm trong những vụ việc này” </em></p><p> </p><p><em>Quốc chắc chắn là được đọc hết những bài viết này của Tập. Không rõ ông nghĩ gì về các phê phán của Tập đối với mình. Chỉ thấy Quốc phàn nàn trong thư gửi Dalburo thâng 1/1935 là trình độ lý luận của một số sinh viên Việt nam trong trường Stalin quá thấp: <em>nhiều người không hiểu thế nào là cách mạng dân chủ tư sản, cũng chẳng hiểu cách mạng ruộng đất có liên quan gì đến sự nghiệp chống đế quốc</em>. Quốc cho rằng mặc dù các vấn đề này có từ những năm 1930-31 nhưng gần đây đã trở nên đặc biệt nghiêm trọng do các đồng chí lãnh đạo còn quá trẻ. Không hiểu là ông định ám chỉ Tập hay kẻ đã chết là Trần Phú. </em></p><p> </p><p><em>Đại hội lần thứ 7 của QTCS được khai mạc ngày 25/7/1935 tại Nhà Công đoàn đầy ngóc ngách. Trong khi khẩu hiệu trên hội trường thông báo về chiến thắng đang đến gần của giai cấp vô sản, bên ngoài đại hội là không khi rất căng thẳng của vụ xử tử hai lãnh tụ cũ là Kamenev và Zinoviev. Các đại biểu bị tập trung cả vào khách sạn Lux và bị cấm ra vào điện Kremlin. Đoàn Việt nam có ba đại biểu: Lê Hồng Phong (còn có các tên khác là Litvinov, Hải An, Chajan, Chayan); Nguyễn Thị Minh Khai (Vân hay Phan Lan) và Hoàng Văn Nón. Hai đại biểu nữa cũng đã xuất phát từ Việt nam nhưng không bao giờ đến nơi. Cả ba đều đã đăng đàn phát biểu. Minh Khai nói về sự bóc lột phụ nữ và tầm quan trọng của phụ nữ trong cách mạng; Nón phát biểu về các phương pháp huy động quần chúng. Bài phát biểu chính của Phong nói về những sai lầm đã qua và nhiệm vụ hiện tại của Đảng. Các bài phát biểu đều đã không “gãi” đúng vào mục đích của đại hội 7, nhằm xác định chiến lược mới cho các đảng cộng sản. Chiến lược này gần với các ý tưởng của Quốc thời Thanh niên hội hơn là chiến lược cực tả của đại hội Sáu. Nguyên nhân chính dẫn đến thay đổi là sự lớn mạnh nhanh chóng và nguy hiểm của Hitler và chủ nghĩa phát xít. Stalin đã tin rằng sự lên ngôi của Hitler tại Đức năm 1933 đã phản ánh giai đoạn sụp đổ của chủ nghĩa tư bản dẫn đến chính quyền của đảng CS. Tuy nhiên sau đó ông đã thay đổi quan điểm và coi chủ nghĩa phát xít như hiểm hoạ trực tiếp và quan trọng nhất của Liên xô. Thư ký mới của QTCS, ông Dimitrov, đã lờ đi nhiệm vụ cách mạng vô sản và chính quyền xô viết do đại hội Sáu đề ra. Ông nhấn mạnh sự nguy hiểm của chủ nghĩa phát xít và kêu gọi các đảng CS huy động hoặc tham gia vào các phong trào tiến bộ, nhằm thành lập mặt trận rộng rãi chống chủ nghĩa phát xít Đức và quân phiệt Nhật. Cuối đại hội, Đảng CS Đông Dương được kết nạp vào QTCS và Phong được bầu lên chủ tịch đoàn. </em></p><p> </p><p> </p><p><em>Quốc tham gia đại hội với tư cách quan sát viên từ Dalburo với mật danh là Linov. Mặc dù không phát biểu chính thức nhưng chắc chắn là Quốc rất tích cực sau hậu trường, la cà trò chuyện. Quốc cũng tham gia vào bữa tiệc chào mừng việc kết nạp Đảng CS Đông Dương do Maurice Thorez, một lãnh đạo đảng CS Pháp tổ chức. Tuy chiến lược mới làm Quốc hài lòng vì nó phù hợp với tư tưởng mặt trận rộng rãi mà ông đã đặt ra cho Thanh niên Hội và vẫn giữ vai trò là người phát ngôn chủ yếu cho Đông Nam á tại Ban chấp hành QTCS, chắc hẳn là Quốc không dễ chịu khi phải ngồi ngoài lề đại hội và nhìn Lê Hồng Phong xuất hiện trong hào quang như một nhà lãnh đạo của Đảng CS Đông Dương mới. Tệ hơn nữa, mối tình với Minh Khai cũng đi đên hồi kết. Chẳng mấy chốc sau khi đại hội kết thúc Minh Khai và Phong làm lễ kết hôn tại Matxcova. </em></p><p> </p><p><em>Trong khi đó, tất cả các tài liệu của lãnh đạo Đảng CS Đông Dương gửi đi từ Makao cho QTCS trước đại hội đều nhấn mạnh là “vợ đ/c Quốc” (Le femme de Quoc) tức Minh Khai (MK) sẽ có mặt trong thành phần đoàn. Chỉ có khả năng là Phong đã cưa đổ MK trên đường đi dự đại hội. Sao lại đến nông nỗi vậy? Có nguồn cho rằng chẳng qua Quốc và MK đã bị xa nhau quá lâu. Cũng có nguồn cho rằng QTCS đã cấp cho Quốc “một người vợ tạm thời”. Lại có tin đồn là Quốc đã có con gái với một cô bạn người Nga. </em></p><p> </p><p><em>Quan hệ giữa Quốc và MK là một trong những vấn đề gây bối rối nhất trong cuộc đời ông. Mặc dù Quốc không bao giờ nhắc đến chuyện này, các nguồn tin chính thức của đảng đều phủ nhận, tuy nhiên các bằng chứng cho thấy họ đã có quan hệ khá khăng khít. Ít nhất là các đồng chí của họ đều coi họ là vợ chồng. Tuy nhiên nếu nói như một nhà sử học nào đó là Quốc đã bị “thất bại kép”: mất cả vợ và chức lãnh đạo đảng vào tay Lê Hồng Phong thì cũng chưa thực sự ổn lắm. Thực tế cuộc đời Quốc đã cho thấy ông ưa chuộng những mối quan hệ ngẫu hứng để khỏi ảnh hưởng đến các mục đích chính trị của mình. Có thể ngay từ đầu Quốc đã coi mối quan hệ với MK là tạm thời. </em></p><p> </p><p><em>Sau khi cưới xong, Phong ngay lập tức trở về Trung Quốc để báo cáo tình hình. Mãi đến hè năm 1936, Minh Khai và Hoàng Văn Nón mới rời Matxcova đi Pháp trong vai một cặp vợ chồng nhà buôn người Hoa giàu có đi nghỉ mát. Sau đó hai người qua Hồng kông, Thượng hải. Tại đây Minh Khai tái ngộ Lê Hồng Phong và cùng trở về Sài gòn. Minh Khai được bầu làm uỷ viên trung ương xứ uỷ Nam kỳ. Minh Khai và Phong chắc không biết được rằng số mệnh đã giao cho họ trở thành cặp liệt sĩ quan trọng nhất của cách mạng Việt nam. Trước khi rời Moscow, Minh Khai và Nón có đến gặp Quốc. </em></p><p> </p><p><em>Tình hình lúc đó đã có một số thay đổi theo đường lối mới của đại hội 7. Tại Pháp, Mặt trận bình dân thắng cử và thành lập chính phủ mới được Đảng CS Pháp ủng hộ. Chính phủ kêu gọi chống phát xít, hỗ trợ Liên xô, cải cách tại các thuộc địa. Quốc viết cho các đồng chí mình: </em></p><p> </p><p><em><em>Thắng lợi của Mặt trận bình dân tại Pháp là cơ hội hiếm có mà chúng ta phải sử dụng. Vấn đề quan trọng nhất bây giờ là sự thống nhất của Đảng, đặc biệt giữa các cơ sở trong và ngoài nước. Khi về đến Sài gòn, hãy nói với đồng chí Lê Hồng Phong 3 điều: </em></em></p><p><em><em>1. Uỷ ban hải ngoại phải ngay lập tức trở về Việt nam để đảm nhận vai trò lãnh đạo phong trào, chỉ để lại vài đồng chí giữ quan hệ với thế giới bên ngoài. </em></em></p><p><em><em>2. Đảng phải kiên quyết tách xa khỏi bọn Troskist đang phản bội lợi ích của cách mạng </em></em></p><p><em><em>3. Tập trung hết sức lực để xây dựng mặt trận rộng rãi chống phát xít và chiến tranh. Đoàn kết các lực lượng yêu nước cứu nước nhưng kiên quyết duy trì sự lãnh đạo của đảng và giai cấp lao động .</em></em></p><p> </p><p> </p><p><em>Chiến lược xây dựng mặt trận rộng rãi nhưng kiên quyết giữ vững sự lãnh đạo đã từng được Quốc áp dụng trong việc xây dựng Thanh niên Hội. Q chắc bị áp lực khi chỉ đạo bài xích các phần tử Troskist. Lúc đó Stalin đang phải vất vả chiến đấu với các thế lực theo Troski trong phong trào cách mạng thế giới. Mặc dù Quốc không đồng tình với lý thuyết phi thực tế “cách mạng liên tục và khắp nơi” của Troski, hẳn là ông thừa hiểu rằng những người Troskist còn tốt hơn khối lần các kẻ thù thực sự của cách mạng. Nếu được tự do lựa chọn, Quốc sẽ tìm cách thuyết phục họ chấp nhận sự lãnh đạo của Đảng CS Đông Dương.</em></p><p> </p><p><em>Sau khi các đồng chí về hết, Quốc càng cảm thấy vô dụng. Từ năm 1935, Quốc đã nói với nhà báo xô viết Ilia Erenburg rằng ước muốn duy nhất của mình là được về nước hoạt động càng sớm càng tốt. Sau khi đại hội 7 kết thúc, Quốc đã chính thức xin phép về nước nhưng bị từ chối với lý do là tình hình Đông dương rất phức tạp. Mùa hè năm 1936, Quốc lại xin phép hồi hương qua đường Berlin và Paris. Giấy tờ đang được chuẩn bị thì chuyến đi bị huỷ do cuộc nội chiến Tây ban nha và sự khủng bố ở Pháp. Trong lúc chờ đợi, Quốc đăng ký vào học tại Học viện các vấn đề dân tộc và thuộc địa (trường Stalin cũ) và chuyển đến một căn hộ độc thân ở phố Bolsaia Bronaia. Trong lúc rảnh rỗi Quốc dịch các tác phẩm: Tuyên ngôn đảng cộng sản của Marx và Bệnh ấu trí tả khuynh của Lenin ra tiếng Việt. Ông còn viết bản khoá luận về “Cách mạng ruộng đất ở Đông Nam á”. Đối với một nhà hoạt động tích cực và ít quan tâm đến các lý thuyết giáo điều như Quốc, phải ngồi nhai giáo án khô khốc, dịch tác phẩm lý luận của những danh nhân hẳn phải là một cực hình. Tháng 6/1938 Quốc viết một lá thư tuyệt vọng cho Trung ương QTCS: “Làm gì với tôi thì làm, cho tôi ở đâu thì ở, nhưng đừng bắt tôi bất lực và ở ngoài đảng” . Với sự giúp đỡ của Vassilieva, cuối cùng Quốc được cho phép về Trung quốc qua Trung Á. Ngày 29/9/1938, Quốc ra khỏi trường. Hồ sơ của trường ngày 30/9 chính thức xác nhận sinh viên số 19 mang tên Lin được giải phóng. </em></p><p> </p><p><em>Nếu không có thêm hồ sơ mật giai đoạn những năm 30 được Matxcova cho phép sử dụng, rất khó lý giải tại sao cuối cùng Matxcova lại giải phóng Quốc khỏi giai đoạn cải tạo nhiều năm vì bị nghi ngờ là đồng ý cung cấp thông tin cho Anh để đổi lấy tự do trong phiên toà ở HongKong. Cũng có vẻ như không phải là Stalin không ưa chuộng những quan điểm dị giáo của Quốc trước đây. Bởi nếu vậy, sau đại hội 7, Quốc đã bị phái đi ngay để thực thi những chiến lược mới. Tình hình Trung Quốc lúc đó đang thay đổi nhanh chóng: trước sức ép to lớn của Tưởng, Mao phải từ bỏ căn cứ phía nam sông Dương tử tiến hành cuộc Trường chinh đến Di An. Có thể dự đoán Matxcova cần người nắm vững thông tin về Trung Quốc. Đối với Quốc đây là cơ hội để ông chung sức cùng các đồng chí của mình bước vào giai đoạn mới của cách mạng Việt Nam. </em></p><p> </p><p> </p><p><em><strong>8.Trong hang Pacbo </strong></em></p><p> </p><p><em>Năm 1938 Trung quốc đang trong tình trạng chiến tranh. Cuộc chiến khởi nguồn từ năm 1931 khi bọn quân phiệt Nhật bất ngờ chiếm Mãn châu và thành lập chế độ bù nhìn Mãn châu quốc. Trong những năm sau đó, chúng tiến dần xuống phía nam, chiếm đóng các tỉnh Đông bắc quanh kinh đô cũ là Bắc kinh. Ban đầu Tưởng Giới Thạch chẳng quan tâm lắm đến điều đó. Bỏ qua sự quân sư của các đồng sự, Tưởng tiếp tục chiến dịch quét sạch cộng sản ở bờ nam sông Dương tử làm Mao phải bỏ chạy lên Di an. Năm 1937, Tưởng bị các đồng chí của mình bắt cóc khi đang đi thăm Tây an và buộc phải thay đổi thái độ. Lần thứ hai, liên minh Quốc-Cộng được thành lập nhằm chống lại sự xâm lược của Nhật. Cuộc chiến bùng nổ sau đó vài tháng sau trận đánh trên cầu Marco Polo. Cuộc xâm lược của Nhật mang đến sự thống khổ cùng cực cho nhân dân Trung Quốc nhưng lại mở ra một cơ hội mới cho Nguyễn Ái Quốc. Nhờ có liên minh Quốc-Cộng mới, Quốc có thể di chuyển tự do để liên lạc với các đồng chí của mình. Cuộc chiến cũng đe doạ sẽ lan đến các vùng khác của châu á, có thể kết liễu sự thống trị của Pháp tại Đông dương. </em></p><p> </p><p><em>Quốc rời Matxcova đầu thu 1938, đi tàu hoả qua những thảo nguyên Trung á bát ngát. Sau vài ngày nghỉ ngơi ở Alma-Ata, Quốc theo một đoàn xe qua Urumgi đến Lan châu, thành phố phía đông của con đường tơ lụa nổi tiếng thời Trung cổ. Đại diện của Đảng CS Trung Quốc tại Lan châu đã giúp Quốc đến Tây an. Tại đó tư lệnh quân giải phóng Trung quốc (PLA) Vũ Thiếu Quân đã được lệnh của thượng cấp “phải tiếp đón một vị khách châu á quan trọng, chăm sóc cẩn thận và hộ tống ông ta đến Di an”. Đường đến Di an phải qua vô số những trạm kiểm soát của Quốc dân Đảng. Quốc phải đóng vai một anh đánh xe chở quần áo và thực phẩm cho các bộ tộc trên núi và hầu như phải đi bộ suốt chặng đường 200 dặm này.</em></p><p> </p><p> </p><p><em>\hc\2c\hc</em></p><p> </p><p><em>Quốc quan sát những thay đổi trên từ căn cứ tạm thời của mình ở phía nam Trung quốc. Ông hy vọng các đồng chí của mình sẽ nhận ra mình qua phong cách và nội dung các bài báo trong Notre Voix được viết dưới bút danh Lin (mà ông đã từng dùng ở Matxcova). Tháng 7/1939 Quốc đã liều hơn, gửi thẳng thư tay có địa chỉ của mình qua người quen cho các uỷ viên trung ương. Bức thư là bản tuyên ngôn ủng hộ chính sách mặt trận rộng rãi đã được đại hội 7 của QTCS thông qua. </em></p><p> </p><p><em><em>1. Vào thời điểm này đảng cần phải kiềm chế không đòi hỏi như độc lập dân tộc, lập nghị viện... Điều đó chỉ có lợi cho bọn phát xít Nhật. Cần tập trung vào việc đòi các quyền dân chủ như tự do hội họp, tự do báo chí, tự do tổ chức, tự do ngôn luận và đưa đảng ra công khai. </em></em></p><p><em><em>2.Muốn đạt được điều đó, phải thành lập mặt trận liên minh rộng rãi bao gồm cả những người Pháp tiến bộ ở Đông dương và giai cấp tư sản dân tộc. </em></em></p><p><em><em>3. Đảng phải bằng mọi cách lôi kéo được những tầng lớp tư sản có thể lôi kéo được, trung lập hóa những phần tử có thể trung lập được. Kiên quyết không để họ rơi vào tay bọn phản động kẻ thù của cách mạng. </em></em></p><p><em><em>4. Không thoả hiệp với bọn Troskist đang trở thành chó săn của chủ nghĩa phát xít. </em></em></p><p><em><em>5, Mặt trận dân tộc Đông dương cần phải có quan hệ chặt chẽ với Mặt trận Bình dân của Pháp để đấu tranh cho tự do và dân chủ. </em></em></p><p><em><em>6. Đảng không được phép đòi hỏi quyền lãnh đạo mặt trận. Ngược lại phải thể hiện đảng là lực lượng tích cực nhất, trung thành nhất và hy sinh nhiều nhất. Chỉ có qua cuộc chiến đấu hàng ngày, nhân dân mới có thể hiểu được những chính sách đúng đắn của đảng và thừa nhận vai trò lãnh đạo của đảng. </em></em></p><p><em><em>7. Đảng phải kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa bè phái, không ngừng nâng cao trình độ văn hoá và chính trị của đảng viên và giúp đỡ những người chưa phải là đảng viên nâng cao trình độ. Đảng cũng phải duy trì những quan hệ mật thiết với đảng cộng sản Pháp </em></em></p><p> </p><p><em>Nguyễn Ái Quốc gửi kèm bức thư này trong báo cáo chính thức đầu tiên cho QTCS. Quốc giải thích về sự chậm trễ này là do tình hình thực tế xấu đi. Quốc cũng xin lỗi và nhờ (có thể có chút châm biếm ở đây) các đồng chí tại Matxcova xem hộ liệu có sai sót gì về tư tưởng trong bức thư gửi Đảng CS Đông Dương. Quốc nói đã mất hết tài liệu chính thức của đại hội 7 và chỉ dựa vào trí nhớ. Quốc cũng thông bâo, mặc dù Mặt trận bình dân Pháp đã mang lại một số cải cách tại Đông dương, chính sách thiên hữu của chính phủ Daladier từ năm 1938 đang có nguy cơ xoá sách những cải cách đó. Một số cuộc đấu tranh của công nhân đã bùng phát trở lại và được sự ủng hộ rộng rãi của dân chúng. </em></p><p> </p><p><em>Tháng hai năm 1939, Quốc - Cộng liên minh mở trường đào tạo quân sự tại Hằng dương, 200km về phía đông bắc Quế lâm. Khoá học đầu tiên bắt đầu từ 15/2 và kết thúc vào giữa tháng 5. Tưởng chỉ thị tướng Gia Gian Anh tìm một vài cán bộ cộng sản để giúp đỡ. Nguyễn Ái Quốc lúc đó vẫn với tên là Hồ Quang những đã mang hàm thiếu tá, được phân về làm quản lý, kiêm luôn phụ trách li</em></p></blockquote><p></p>
[QUOTE="Thandieu2, post: 19456, member: 1323"] [B] [SIZE=4]6. Nghệ Tĩnh đỏ[/SIZE][/B] Đảng cộng sản Việt nam ra đời, thỏa mãn ước mơ của Quốc khi rời quê hương cách đây 21 năm, tìm một con đường để giải phóng đất nước. Cùng với cuộc đại khủng hoảng đang diễn ra ở thế giới tư bản, phong trào cách mạng ở Đông dương có vẻ như minh chứng cho dự báo của QTCS về ngày huy hoàng sắp đến của cách mạng thế giới. Tuy nhiên, với Quốc, có nhiều câu hỏi cần phải trả lời. Liệu đảng mới sẽ thuộc đảng bộ sắp được thành lập tại Singapore hay sẽ báo cáo trực tiếp cho văn phòng FEB tại Thượng Hải? Liệu Quốc sẽ tiếp tục đóng vai trò đại diện của QTCS hay sẽ trực tiếp lãnh đạo Đảng? Nếu lãnh đạo thì sẽ đóng ở đâu vì nếu Quốc về Đông dương, sẽ bị bắt và xử ngay. Ngày 13/2, bất chấp cái lạnh, Quốc đi Thượng hải để liên lạc với Hilaire Noulens tại trụ sở của FEB trong một biệt thự châu Âu trên phố Nam kinh náo nhiệt. Gặp Noulens không phải là việc dễ. Ngày 18, Quốc viết thư cho Nou, giọng rất bức xúc: [I]Tôi phải gặp đồng chí ngay, bởi vì [/I] [I]1/ báo cáo này đã viết 2 ngày vẫn chưa đến được tay đc; [/I] [I]2/ Mọi việc có thể giải quyết trong 1 giờ mà tôi đã ở đây 5 ngày rồi; [/I] [I]3/ tôi buộc phải ngồi không trong khi công việc chỗ khác đang chờ. [/I] Trong bức thư, Quốc cũng kiên quyết phản đối quan điểm của QTCS về việc thành lập các đảng khu vực, bỏ qua yếu tố dân tộc. Quốc không đồng ý để VCP thuộc đảng bộ Đông Nam A, cho rằng Việt nam cần phải có một đảng độc lập, báo cáo cho FEB qua văn phòng Hồng kông. Có vẻ như cuối cùng Quốc cũng gặp được Nou và thuyết phục Nou đồng ý với quan điểm của mình, vì sau đó vài ngày Quốc báo cáo với Dalburo ở Moscow. Nhưng vẫn còn một vài khúc mắc: [I]Tôi không rõ vai trò của mình. Tôi là thành viên Đảng CS Pháp hay Việt nam. Khi chưa có lệnh mới, tôi sẽ tiếp tục làm việc với VCP. Nhưng dưới danh nghĩa nào? Tôi không thể về Đông dương vì đã có bản án tử hình vắng mặt. Liệu vai trò của tôi với QTCS đã chấm dứt? Nếu không, tôi có thể liên lạc với văn phòng địa phương được không? Rất mong Ban chấp hành xem xét nhanh. [/I] Trước khi rời Thượng hải, Quốc gặp Nguyễn Lương Bằng, một tay chân cũ từ thời ở Quảng đông. Quốc dặn Bằng tìm cách tuyên truyền, thu phục gần 4000 lính Việt nam hiện đang đóng trong khu nhượng địa Pháp. Quốc còn nhấn mạnh việc giữ vững quan hệ với Đảng CS Trung Quốc. Sau đó Quốc về Hongkong thành lập văn phòng phía Nam của FEB, đợi lệnh mới. Văn phòng này được đặt trong một ngôi nhà 2 tầng ở đảo HongKong, dưới danh nghĩa một hãng buôn. Quốc thuê một căn hộ gần sân bay ở Cửu long, hoạt động với tên gọi nhà báo Vương. Văn phòng có trách nhiệm liên lạc với các đảng ở Đông Nam Á: Thái, Sing và Việt nam Cuối tháng 3, Quốc đi tour trong khu vực với nhiệm vụ khôi phục tổ chức ở Nam Dương. Tại Thái lan, Quốc qua Udon Thani, thông báo về việc thành lập VCP. Theo lời của Hoàng Văn Hoan, Quốc kêu gọi các thành viên của Hội tham gia tích cực vào các hoạt động của đảng CS Thái sắp được thành lập. Để trấn an tâm lý bất ổn vì không được tham gia trực tiếp vào giải phóng VietNam, Quốc khuyên nên tổ chức Hội thành văn phòng tỉnh của VCP. Cuối thàng 4, Quốc quay trở về Băng Cốc chủ tọa hội nghị thành lập đảng CS Thái, bầu ban chấp hành lâm thời với 1 đại biểu Việt nam từ Udon Thani. Sau đó Quốc đi Malaya và Sing, dự hội nghị đảng Nam Dương, cải tổ thành đảng CS Malayan. Cả hai đảng mới đều báo cáo cho FEB qua văn phòng HongKong. Quốc quay về HongKong giữa tháng 5 ***************** * FEB - Cục Viễn đông * CCP - Đảng CS Trung Quốc * VCP - Đảng cộng sản Việt Nam . Trong khi Quốc bận rộn “đỡ đẻ” cho các đảng mới, tình hình Việt nam nhanh chóng trở nên căng thẳng. Đầu tiên là cuộc khởi nghĩa của Vietnam Quốc Dân Đảng vào đầu tháng 2. Bỏ qua những nguyên tắc của Lenin về việc vận động quần chúng, xây dựng cơ sở, Vietnam Quốc Dân Đảng dựa vào một lớp các nhà cách mạng tinh túy, dự kiến sử dụng khởi nghĩa vũ trang để lật đổ Pháp, với sự hậu thuẫn của các binh sĩ phản chiến. Quân đội viễn chinh Pháp, do Toàn quyền Ly Myre thành lập từ năm 1879, có khoảng 30,000 quân, với khoảng 2/3 là dân địa phương. Đội quân này được chia thành 31 tiểu đoàn do các sĩ quan Pháp chỉ huy. Ngoài ra còn khoảng 15,000 dân quân do hạ sĩ quan Pháp chỉ huy. Đa phần lính Việt nam là do các chức sắc trong làng bắt đi, chẳng có cảm tình gì với Pháp. Đến cuối những năm 20, tâm lý ghét Pháp trong binh sĩ dâng cao, là mảnh đất màu mỡ để gieo tinh thần dân tộc chủ nghĩa. Từ năm 1929, Quốc Dân Đảng đã bắt đầu tàng trữ vũ khí tại nhiều địa điểm trên cả nước. Đáng tiếc là Pháp đã phát hiện và tiêu hủy phần lớn. Sau đó vấn đề thêm căng thẳng. Một chủ đồn điền Pháp bị ám sát trên đường phố Hà nội khi vừa bước ra cửa nhà người tình. Chính quyền nghi ngờ Quốc Dân Đảng đứng đằng sau, lập tức vây bắt hàng trăm lãnh đạo đảng và những người ủng hộ. Lo ngại trước nguy cơ bị tiêu diệt,Quốc Dân Đảng quyết định ra tay nhanh. Lúc đó, họ đã có khoảng 1000 cơ sở trong các trại lính ở Bắc bộ. Đầu tháng 2, cuộc binh biến nổ ra ở một số đồn ở trung du Bắc bộ, quan trọng nhất là ở Yên bái. Kế hoạch đầu độc các sĩ quan Pháp bị một tên chỉ điểm tuồn cho Pháp. Viên chỉ huy trại lính đã đề phòng và khi cuộc bạo động nổ ra vào giữa đêm, quân Pháp đã được chuẩn bị. Đến đầu giờ sáng thì Pháp đã kiểm soát được tình hình. Cuộc nổi dậy ở một số địa điểm khác cũng nhanh chóng bị dập tắt. Rất nhiều lãnh đạo bị bắt. Ngày 17/6, 13 kẻ cầm đầu bị xử tử tại Yên bái. Cuộc khởi nghĩa đã thất bại ngay từ đầu về nguyên tắc, khi không có những biện pháp kích động dân chúng tham gia, cũng không có phương án “tẩu vi” khi gặp sự cố. Liên lạc cũng bị cắt đứt ở phút cuối, dẫn đến sự thiếu đồng bộ trong hành động. Quan trọng hơn nữa là cuộc khởi nghĩa không được sự ủng hộ của dân chúng trong toàn quốc. Các lãnh đạo thoát chết chạy trốn sang Trung quốc và bị phân rã thành 2 nhánh: một nhánh vẫn trung thành với chủ trương khởi nghĩa vũ trang, nhánh kia thì nghiêng về cải cách hòa hoãn. Trên thực tế thì tình hình Đông dương đang chứa đựng nhiều dấu hiệu bất ổn. Đầu tiên là trong giới học trò. Mặc dù số lượng học sinh liên tục tăng (đầu năm 1930, cả nước có 7000 trường công với gần 340,000 học sinh), bất mãn vẫn không ngừng gia tăng do thiếu điều kiện học lên. Chỉ có khoảng 5000 học sinh ở cấp trung học và khoảng 500 được vào học tại đại học duy nhất ở Hà nội. Việc làm sau khi học xong càng không có, lương thì thấp hơn hẳn các đồng cấp châu Âu, làm tăng thêm tinh thần chống sự thống trị của ngoại quốc. Khi phong trào học sinh tạm lắng xuống cuối những năm 20, đến lượt công nhân nổi dậy. Công nghiệp phát triển mạnh kể từ sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, nhưng chỉ có giới chủ được hưởng lợi. Cuối những năm 20, giai cấp công nhân Việt nam có 200,000 người, trong đó đã có 50,000 làm việc trong các khu mỏ ở miền Đông bắc. Tình cảnh của công nhân làm việc tại các đồn điền chè và cao su ở Tây nguyên và dọc biên giới Campuchia, hết sức khốn khổ: [I]Tất cả đều phải dậy từ 4h sáng mà nhiều người vẫn chưa kịp ăn sáng. Kẻng tập trung lúc 5h và không ai được muộn. 20 phút tập trung là một cực hình vì bọn chủ tìm mọi cớ để đánh đập, chửi bới. Sau đó tất cả phải ra đồn điền, mỗi người phải cạo mủ từ khoảng 280 đến 350 gốc. Ai không đủ tiêu chuẩn sẽ bị đánh, nếu không có tiền nộp chuộc. Chiều về, phải phục dịch chủ, dọn dẹp nhà cửa. Cuộc sống đúng là: “con không biết mặt cha, chó không biết mặt chủ”. [/I] Thực tế châu Âu cho thấy điều kiện trong xã hội tiền công nghiệp không bao giờ dễ chịu. Việt nam cũng không phải là ngoại lệ. Công nhân các “nhà hàng mồ hôi” ở Nam định, Hải phòng, hầm mỏ Quảng ninh hay các đồn điền miền Nam đều cùng khổ như nhau. Việc tuyển dụng cũng không hẳn là tự nguyện. Các băng nhóm tội phạm nhiều khi rình bắt người trên đường rồi tống thẳng đến các nhà máy. Một số nông dân không đủ tiền nộp tô cho địa chủ trốn ra thành phố. Nhưng cũng chẳng hơn gì. Đồng lương thì chết đói. Bạo lực tràn lan. Charles Dickens mà còn sống hẳn sẽ rất hiểu cuộc sống này. Rồi cuộc đại khủng hoảng xảy ra. Tư bản Pháp bỏ chạy. Hơn một nửa số nhân viên phải ra đường. Có người chạy về quê cuống quít tìm đường sống. Nhiều người biểu tình phản đối. Bãi công nổ ra tràn lan. Có trường hợp là do Tân Việt hoặc Thanh niên Hội xúi giục, nhưng đa số là tự phát. Tháng ba/1930, công nhân đồn điền Phú riềng nổi loạn. Vài tuần sau đến lượt nhà máy dệt Nam định, rồi Diêm Bến thủy. Pháp thẳng tay dẹp loạn. Đã có nngười chết, nhiều người bị thương. Tình hình đặc biệt nghiêm trọng ở Vinh. Rất nhiều công nhân có nguồn gốc từ những địa phương lân cận, dẫn đến sự bất mãn cao độ ở nông thôn. Hàng ngàn nông dân Thanh chương đã tràn vào đập phá đồn điền và treo cờ đỏ búa liềm. Lính lê dương Pháp đàn áp giết hàng chục người. Từ cuối năm 1929, Đông Dương CS Đảng đã cử một đảng viên kỳ cựu của mình là Nguyễn Phong Sắc về nằm vùng ở nhà máy Diêm Bến thủy. Vài tuần ngay sau Hội nghị thành lập tháng 2/1930, Tỉnh ủy Nghệ an rồi các chi bộ địa phương liên tiếp được thành lập và hầu như hoạt động tự do vì Pháp không để ý, còn quan lại địa phương thì sợ. Các cán bộ địa phương tự chủ hoạt động mà không cần bất cứ sự lãnh đạo nào từ TƯ, tiếp tục thổi ngọn lửa cách mạng. Đến đầu tháng 9, tình hình bắt đầu vượt khỏi tầm kiểm soát. Nông dân các huyện dọc sông Cả nổi dậy cướp chính quyền, tổ chức theo kiểu Liên xô thành các Xô-viết, chủ yếu là từ thành phần nông dân nghèo. Chính quyền mới lập tức xóa bỏ các loại sưu thuế, lấy lại ruộng đất từ tay địa chủ để chia cho dân nghèo. Công nhân Bến thủy và học sinh Huế đồng loạt biểu tình ủng hộ. Lo sợ, Pháp lập tức tăng cường quân lê dương để hỗ trợ quân triều đình. Ngày 12/9 khi hàng ngàn người từ Yên Xuyên đổ về Vinh để chiếm trụ sở ngân hàng Đông dương, máy bay Pháp đã ném bom thẳng vào đoàn người. Con đường từ Yên xuyên về Vinh đẫm máu và xác người. Trong lúc Nghệ Tĩnh đang bạo loạn, Đảng bộ địa phương đang bối rối không biết phải hành động thế nào, tại Hongkong, những lãnh đạo cao cấp ráo riết chuẩn bị cho Hội nghị toàn thể trung ương lần thứ nhất. Cuối tháng 9, đoàn Nam bộ đến nơi nhưng chẳng thấy dấu hiệu gì của đoàn Bắc và Trung bộ. Được sự đồng ý của Quốc, anh em định bỏ về, thì thật may mắn có mấy đại biểu của Bắc kỳ đến từ Hải phòng ngay trước giờ lên đường. Tất cả quyết định vẫn tiếp tục hội nghị. Quốc và Trần Phú đi Thượng hải để tư vấn với Noulens. Đầu tháng 10, Phú quay về. Quốc ở lại thêm vài ngày rồi trở về HongKong trên một con tàu Mỹ. Ngày 20/10, Hội nghị khai mạc tại một căn hộ nhỏ ở phố Khai Y, đảo HongKong. Nhờ trời, đến lúc này, đại biểu 3 miền đều có mặt, trừ một đại biểu đã đến được HongKong nhưng lại bị lạc vì không tìm được địa điểm [IMG]https://lichsuvn.info/forum/images/smilies/24.gif[/IMG]. Quốc vừa là chủ tịch vừa là đại diện của QTCS. Trong số đại biểu, có một thiếu nữ da nâu, hấp dẫn. Đó chính là Nguyễn Thị Minh Khai, được cử sang giúp cho Quốc tại Văn phòng miền Nam từ tháng 4/1930. Chủ đề chủ yếu của Hội nghị là thảo luận cương lĩnh chính trị chính thức thay thế đề cương tạm thời do Quốc soạn thảo tại Hội nghị thống nhất hồi tháng 2. Đề cương của Quốc thừa hưởng từ cương lĩnh của Thanh niên Hội nên hiển nhiên là có một số điểm không trùng với quan điểm chính thống của Matxcova tại thời điểm này, tỷ như vai trò chính thống của giai cấp công nhân hoặc kế hoạch cách mạng 2 giai đoạn của Lênin. Đa số các đại biểu đã chấp nhận quan điểm của Matxcova, thay thế cho những “khiếm khuyết” của đề cương tạm thời của Quốc. Ngày 9/12, Ban chấp hành TƯ mới ra thông tư (chắc là do Phú thảo), đả kích quan điểm mặt trận thống nhất bao gồm cả những phần tử tư sản của hội nghị tháng 2. Thông tư cũng phê phán chủ trương hợp nhất bình đẳng, cho rằng lẽ ra phải chọn những thành phần ưu tú nhất của mỗi phái. Cương lĩnh chính trị mới đề nghị thành lập mặt trận phản đế, do công nhân lãnh đạo, kết hợp với bần nông và trung nông. Mặt trận không cấm các phần tử tư sản, nhưng cương lĩnh cảnh báo, phải hết sức cẩn thận với bọn này. Đảng có thể hợp tác với các đảng dân tộc khác, nhưng phải chống lại quan điểm “dân tộc hẹp hòi” của các đảng này, và tiêu diệt ảnh hưởng của chúng đến quần chúng. Cương lĩnh cũng đề xuất khai trừ những phần tử chủ trương khủng bố, ám sát, coi thường quần chúng. Chủ trương này chắc chắn được sự ủng hộ của Quốc, vì ông đã phát biểu tương tự khi nhận xét cuộc khởi nghĩa Yên bái. Một kết quả nữa của hội nghị tháng 10 là việc [B][I]đổi tên đảng từ đảng cộng sản Việt nam thành đảng cộng sản Đông dương do sức ép của Liên xô[/I][/B]. Rõ ràng là Matxcova cho rằng chữ “Việt nam” quá “dân tộc chủ nghĩa” không phù hợp với “cách mạng thế giới”. QTCS cũng đang kêu gọi những nước nhỏ thành lập những đảng khu vực. Tình hình bạo loạn ở miền Trung cũng đã gây chú ý. Đến lúc đó gần như mọi sự ngã ngũ, cuộc nổi dậy chỉ diễn ra lẻ tẻ ở vài huyện. Nông dân, công nhân, tầng lớp thị dân, thậm chí cả dân nghèo miền Bắc cũng tỏ thái độ thờ ơ, không nổi dậy hưởng ứng. Nghị quyết hội nghị kêu gọi các lãnh đạo địa phương tìm mọi cách để mở rộng phạm vi ảnh hưởng trong cả nước, và chỉ thị không được manh động, sử dụng bạo lực mù quáng. Một thông điệp gửi riêng cho đảng bộ Nghệ tĩnh nêu rõ: [I]Nếu quần chúng đứng lên tự phát, đảng đương nhiên phải lãnh đạo. Trường hợp này, có bằng chứng cho thấy đảng bộ địa phương đã chủ động “giật dây”, và đấy là một sai lầm chết người:[/I] [I]1/ Tình hình cách mạng và nhận thức quần chúng chưa chín muồi ở nhiều địa phương.[/I] [I]2/ Tại một số xã, phong trào mạnh thì lại quá thiếu vũ khí. [/I] Hội nghị đã bầu Ban chấp hành TƯ và Ban thường vụ gồm Trần Phú, Nguyễn Trọng Nghĩa và Nguyễn Phong Sắc (mặc dù ông này không dự). Trần Phú còn được bầu làm Tổng bí thư. Quốc tiếp tục là đại diện cho QTCS. Ban đầu Ban thường vụ định đóng ở Hải phòng, nhưng sau chyển vào Sài gòn do lý do an ninh. Quốc không thể không biết rằng những quyết định của Hội nghị lần này đã mâu thuẫn rõ ràng và thậm chí trắng trợn với những tư tưởng và phong cách lãnh đạo của mình. Nhiều chỉ trích hoàn toàn không có cơ sở. Từ thời lãnh đạo Thanh niên Hội, Quốc đã cố gắng nâng cao trình độ nhận thức tư tưởng của các thành viên. Bây giờ khi các thành viên trẻ hơn cáo buộc về tội yếu kém về tư tưởng, chắc Quốc rất đau. [B][I]Trên thực tế, quan điểm mới của QTCS không những không phù hợp với Quốc mà còn là bước lùi so với những tư tưởng của Lenin đầu những năm 20[/I][/B]. Quốc đã chấp nhận tất cả với một thái độ nhã nhặn: [I]“lắng nghe và tôn trọng ý kiến người khác”[/I] và viết báo cáo gửi cho Noulens sau khi hội nghị kết thúc. Vào cuối thu và mùa đông năm 1930-1931, Pháp tăng cường đàn áp. Biểu tình bị dập tắt ngay lập tức, quân đội tràn vào chiếm đóng những làng xã ủng hộ biểu tình. Đảng bộ các tỉnh miền Trung báo cáo tinh thần dân chúng xuống thấp. Những phần tử tích cực cuống quýt quay sang các biện pháp như ám sát hoặc khủng bố để trấn áp dân chúng. Pháp càng đàn áp dữ hơn. Ban thường vụ cũng lúng túng, chỉ thị: [I]”chúng ta không có máy bay,không có quân đội để ứng cứu. Nhưng tuyệt đối không được hoảng loạn[/I]”. Tại Hongkong, Quốc cũng hết sức cố gắng để lôi kéo sự chú ý của thế giới. Trong báo cáo gửi cho Moscow, Quốc nói suốt ngày gõ cửa các đồng chí ở văn phòng FEB tại Thượng hải, để kêu gọi các đảng khác ủng hộ phong trào tại Việt nam. Trong một bài báo viết năm 1931, có tên “Nghệ Tĩnh đỏ”, Quốc ca ngợi sự kết hợp của công nhân với nông dân và kết luận, cuộc nổi dậy xứng đáng được tô màu “đỏ”. Quốc cũng hết sức băn khoăn về khả năng của mình có thể tham gia tích cực vào việc lãnh đạo phong trào. Mâu thuẫn với Trần Phú ngày càng căng thẳng. Phú thẳng cánh chỉ trích quan điểm “dân tộc” của Quốc, phản bội lại những tư tưởng của QTCS. Phú cũng không dấu diếm tham vọng kiểm soát đảng trong tương lai. Trong một lá thư gửi Quốc tháng Giêng năm 1931, Phú kêu ca về sự mất liên lạc với văn phòng FEB tại Thượng hải và cho rằng Quốc chính là thủ phạm. Phú viết, nếu Quốc không thể đảm bảo được liên lạc, thì văn phòng ở Hongkong có vai trò gì? Mặc dù rất khó chịu với giọng điệu “bề trên” của Phú, Quốc vẫn tìm cách bắt liên lạc với Thượng hải và thúc giục Noulens nhanh chóng có những chỉ thị cho phong trào ở Việt nam. ********************* FEB - Cục Viễn đông Đầu tháng 3, Joseph Ducroux, điệp vụ của QTCS dưới tên gọi Serge Lefranc đến HongKong để gặp Quốc trong chuyến đi thị sát khu vực. Quốc và Lefranc quen nhau từ đầu những năm 1920 khi cùng tham gia Liên đoàn cộng sản trẻ tại Paris. Lefranc cho rằng sử dụng Quốc chỉ với mục đích liên lạc và phiên dịch thì quá phí và đề nghị chuyển Quốc về văn phòng Thượng hải, trực tiếp chỉ đạo Đông dương. Hai tuần sau, Lefranc đến Sài gòn. Ngày 23, Ngô Đức Trí, thành viên Ban thường vụ mới, từng gặp Lefranc khi học tại trường Stalin, gặp Lefranc tại khách sạn Sài gòn Palace. Ngày hôm sau, Lefranc gặp 2 thành viên còn lại tại nhà Phú, chuyển tiền và hứa Noulens sẽ sớm gặp ban lãnh đạo Đảng CS Đông Dương. Lefranc cũng thông báo việc chuyển Quốc về Thượng hải. Sau khi gửi bưu thiếp cho Quốc, Lefranc rời Sài gòn ngày 27. Cảnh sát Pháp bắt đầu thành công trong việc truy quét, bắt bớ những phần tử cộng sản đầu sỏ, từ đó tra khảo ra những đầu mối khác. Nội bộ phong trào bắt đầu có hiện tượng rối loạn, nghi kỵ lẫn nhau. Thậm chí khi Nguyễn Đức Cảnh bị bắt năm 1929, đảng bộ miền Trung đã quyết định ám sát ông này trong nhà tù để khỏi khai lung tung. Cuối tháng 3/1931, Trần Phú triệu tập hội nghị trung ương lần thứ hai tại Sài Gòn.Không rõ là hội nghị bàn về vấn đề gì nhưng thấy nghị quyết dũng cảm tuyên bố nhờ tình hình thế giới thuận lợi và những cố gắng của đảng, phong trào vẫn phát triển mạnh mẽ. Hội nghị cũng thừa nhận những vấn đề nghiêm trọng đang tồn tại. Vai trò lãnh đạo của đảng tại Bắc kỳ rất yếu, do tư tưởng “tiểu tư sản” bị thừa hưởng từ Thanh niên Hội, không thâm nhập được vào giai cấp nông dân và công nhân. Vài ngày sau hội nghị, cảnh sát bất thình lình ập vào ngôi nhà Ban thường vụ đang họp kín với đại diện các địa phương ở Nam bộ. Tất cả đều bị bắt, trừ Trần Phú đúng lúc đó đang ra vườn đi vệ sinh nên đã kịp thoát ra cổng sau. Trong tù, Ngô Đức Trí không chịu được tra tấn đã khai ra tuốt tuột. Đến ngày 17/4, trong ban lãnh đạo đảng, chỉ còn Trần Phú tự do. Cùng ngày, Phú viết thư cho văn phòng FEB - Cục Viễn đông , buộc tội những đảng viên nòng cốt Bắc kỳ và Trung kỳ, vẫn bị ảnh hưởng của giới lãnh đạo cũ, chống đối lại đường lối mới, dẫn đến thảm họa hiện tại. Tuy nhiên Phú vẫn lạc quan thông báo, hiện tại đảng đã có tới 2400 đảng viên so với 1500 hồi tháng 10; hơn 63000 nông dân đã tham gia cách mạng, so với chỉ có 2800 mùa thu năm trước. Đảng sẽ phát triển và cần tiền, Phú kết luận. Trước đó vài ngày, Noulens đã viết thư phê phán Quốc ở HongKong không cung cấp đầy đủ các thông tin về tình hình ở Đông dương, chẳng hạn tại sao lãnh đạo bị bắt và trong hoàn cảnh nào? Để FEB có thể rút ra những kinh nghiệm và bài học. Noulens cho rằng việc chuyển Quốc về Thượng hải tại thời điểm này là không hiện thực và cần chuẩn bị kỹ lưỡng hơn nữa. Ngày 20/4, Quốc viết cho Ban thường vụ ở Sài gòn, chuyển tải những yêu cầu của Noulens. Ngày 24/4 Quốc viết cho Phú, kêu ca về vai trò của mình chẳng khác gì “hộp thư”, và sẵn sàng làm nhiệm vụ khác. Trong mọi trường hợp Quốc nhấn mạnh vai trò của việc bảo đảm thông tin đầy đủ. Nhưng Phú không bao giờ nhận được những bức thư này. Ngày 18/4 Phú bị bắt. Mấy tháng sau, Phú chết trong tù. Có nguồn tin nói là do lao phổi, nguồn khác lại cho rằng do tra tấn. Ngô Đức Trí và Nguyễn Trọng Nghĩa đang ngồi tù. Nguyễn Phong Sắc bị hành hình trong tháng 4. Ban lãnh đạo đảng trong Đông dương hoàn toàn bị tan rã. Theo báo cáo của Surête, cuối mùa xuân năm 1931, hơn 2000 người đã bị hành hình, 51000 thành viên của phong trào bị bắt. Thêm vào đó là hạn hán trong các tỉnh miền Trung dẫn đến mất mùa. Hơn 90% dân Nam đàn, Nghệ an có nguy cơ chết đói. Ngay cả những người ôn hòa như Bùi Quang Chiêu cũng phải viết trên tờ La Tribune Indochinoise: miền Trung đang yên tĩnh, nhưng đó là sự im lặng của chết chóc. Ngày 12/5/1931, Noulens gửi cho Quốc bản đánh giá có tính phê phán tình hình Đông dương. Noulens phê phán lãnh đạo đảng đã không tuân thủ nghiêm ngặt những chỉ dẫn của QTCS. Đặc biệt là chủ nghĩa “anh hùng quá khích”, nổi dậy vội vã, bắn cảnh sát hay những hành động khủng bộ khác đã làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến phong trào. Họp hành thì dài dòng và thoải mái, không có những biện pháp bảo mật. Thiếu những biện pháp giáo dục và tổ chức quần chúng. Cuối cùng Noulens hứa sẽ báo cáo tình hình Đông dương cho phong trào cách mạng thế giới và dặn “Tìm mọi cách viết cho chúng tôi về hoạt động, thành tích và thất bại của các bạn” Trong lúc chờ đợi phân công công tác mới, Quốc sống trong một căn hộ nhỏ ở bán đảo Cửu long và sa vào quan hệ tình ái với Nguyễn Thị Minh Khai.????? Cũng như Quốc, Duy (tên hoạt động của Nguyễn Thị Minh Khai) là cầu nối giữa quá khứ và hiện tại. Cô sinh năm 1910 tại một gia đình danh giá ở Hà đông. Ông nội Duy là một quan chức triều đình ở Bắc giang, đã đậu đến Phó bảng. Bố Duy, ông Nguyễn Văn Bình, sau khi thi trượt, chấp nhận làm một nhân viên hỏa xa ở Vinh năm 1907. 14 tuổi, khi vào trường trung học, Duy được Trần Phú truyền bá những tư tưởng cách mạng. Năng nổ và xinh xắn, cô lập tức được Quốc chú ý ngay khi đến Hong kong. Không có nhiều tài liệu viết về mối tình Quốc-Khai và cũng không rõ họ có cưới nhau chính thức hay không? Cuộc hôn nhân của Quốc với Tăng Tuyết Minh coi như tan vỡ sau khi Quốc bỏ trốn năm 1927, mặc dù có một số chứng cớ cho thấy Minh đã gặp Quốc tại HongKong đầu những năm 1930. Lâm Đức Thụ đã khai với mật thám Pháp là Minh chê Quốc già, và đồng ý lấy Quốc chỉ vì tiền???? Trong một bức thư nhờ Thụ chuyển cho Minh, Quốc viết: “Mặc dù chúng ta xa nhau và không nói ra nhưng tình cảm vẫn nguyên vẹn. Cho anh gửi lời hỏi thăm tới mẹ em”. Mùa xuân năm 1931, Quốc xin phép văn phòng FEB được cưới Nguyễn Thị Minh Khai. Noulens trả lời phải báo trước cho ông ta hai tháng trước khi làm đám cưới. Không may, ngay sau đó Khai bị cảnh sát HongKong bắt vì nghi ngờ hoạt động chống phá. Nhờ tự khai là công dân Trung Quốc dưới cái tên Trần Thái Lan, Khai bị di lý về Quảng đông, tống giam vài tháng rồi được thả ra vì thiếu chứng cớ. Khoảng cuối tháng 4, đầu tháng 5, Quốc viết thư cho Noulens thông báo vắn tắt một đồng chí trong đội liên lạc bị bắt. Sau đó lại nhắc lại đề nghị được chuyển công tác. Cùng thời điểm, Lefranc vẫn tiếp tục chuyến đi của mình đến Singapore để tiếp xúc và thu nhập thông tin với các thành viên của đảng cộng sản Malayan - MCP. Cả Quốc lẫn Noulens đều đang rất cần những thông tin này. Do được Quốc báo trước, một lãnh đạo của MCP là Phú Đại Thanh, chiến hữu của Quốc khi thành lập đảng ở Xiêm, đã hẹn gặp Lefrance tại Collier’s Quay. Cảnh sát Anh đã theo dõi Lefranc từ lâu và mất dấu ông này ở Ấn và Xrilanca. Lần này thì chúng gặp may. Phú đang bị cảnh sát bám sát vì quan hệ với một đảng viên người Indonexia Tan Malaka. Khi được biết là Phú sẽ gặp một điệp viên từ châu Âu sang có tên là Lefranc, cảnh sát nghi ngờ ngay đó chính là Joseph Ducroux, đã được London báo từ trước. Sau khi bắt giữ cả hai, cảnh sát đã lục soát phòng ngủ và thu tất cả các giấy tờ của Lefranc, trong đó có cả bưu thiếp của Quốc (dưới tên T.V. Wong) và Noulens. Lefranc và đồng phạm bị xét xử và tống giam tại Sing, còn thông tin về Quốc và Noulens ngay lập tức được báo về Thượng hải và Hong kong. 2:00 giờ sáng ngày 6/6, cảnh sát HongKong ập vào một căn hộ trên bán đảo Cửu long, bắt đi trên tầng 2 một người đàn ông có tên là Tống và một phụ nữ trẻ tự xưng là cháu của ông ta và có tên là Lý Sâm. Dựa trên những tài liệu, truyền đơn thu được, cảnh sát đã xâc định đó chính là điệp vụ của QTCS Nguyễn Ái Quốc, còn người phụ nữ là Lý ưng Thuận, vợ của Hồ Tùng Mậu. Cuộc sống phút chốc bị đảo lộn. Mọi quan hệ với trong nước bị cắt đứt. Đe dọa nhãn tiền là bị dẫn độ cho Pháp và triều đình Annam. Tương lai vô cùng bất định! [B] [SIZE=4]7.Mất hút [/SIZE][/B] Năm 1931 là năm các chính quyền thuộc địa tại Đông Á ra tay ngăn chặn làn sóng cộng sản đang dấy lên. Tháng 6, cảnh sát Singapore bắt Serge Lefranc, đặc vụ của QTCS đang đi tour khu vực Đông Nam A theo chỉ thị của văn phòng Thượng hải. Ngày 5/6, phái viên của Đảng CS Đông Dương tại FEB Lê Quang Đạt bị bắt tại nhượng địa Pháp ở Thượng hải. Sáng hôm sau, Nguyến Ái Quốc và đồng chí của mình là Lý Sâm bị bắt tại Hồng kông. Vài ngày sau đến lượt Hilaire Noulens và vợ. Ông này tự khai là công dân Bỉ nhưng đã bị nhanh chóng vạch trần khi lận theo người đến mấy quyển hộ chiếu khác nhau và lãnh sự Bỉ từ chối xác nhận. Mặc dù chẳng có thể gán được cho Noulens tội gì rõ ràng, các quan chức thuộc địa tin chắc rằng ông này là cộng sản gộc và chuyển giao cho chính quyền Quốc dân đảng tại Giang tây. Tại đây Noulens bị kết án chung thân, sau Liên xô thông qua tổ chức Chữ thập đỏ quốc tế đã can thiệp để đưa về Matxcova. Nguyến Ái Quốc (dưới bí danh là phóng viên Trung quốc Tống Mãn Châu) bị bắt mà không có trát của toà do cảnh sát nghi ngờ là có những hoạt động liên quan đến QTCS. Mặc dù Quốc chẳng phạm tội gì của HongKong, chính sách của Anh lúc đó là không cho phép sử dụng lãnh thổ mình để tiến hành các hoạt động lật đổ. Chính quyền sở tại tin chắc ông là Nguyến Ái Quốc và hy vọng có thể tìm cách để trục xuất Quốc sang Đông dương. Tuy nhiên do lúc đó giữa Pháp và Anh chưa có thoả thuận về dẫn độ tội phạm chính trị, cách duy nhất mà chính quyền có thể làm là đề nghị toà ra lệnh trục xuất Quốc ra khỏi HongKong trên một con tàu và đến một địa điểm đã chỉ định sẵn. Do không có hộ chiếu và Quốc kiên quyết khẳng định mình là người Hoa chứ không phải người Việt nam, toà phải mở phiên điều trần vào ngày 10/7/1931. Tại phiên điều trần này, Quốc chỉ dùng tiếng Anh, khai mình sinh ở Đông hưng (thành phố thuộc Quảng đông gần biên giới với Đông dương). Ông thừa nhận mình đã sang Pháp, nhưng chưa hề tới Nga và càng không liên quan gì đến QTCS. Ông cũng phủ nhận mình có quen biết Lefranc mặc dù công nhận là mình đã ký vào bưu thiếp tìm thấy trong túi của Lefranc. Cuối cùng Quốc đề nghị được dẫn độ sang Anh chứ không phải trục xuất sang Đông dương. Gần cuối phiên điều trần, Quốc bất ngờ nhận được sự trợ giúp về pháp luật từ bên ngoài. Cho đến nay vẫn chưa rõ là làm thế nào mà luật sư Frank Loseby lại trở thành một nhân vật quan trọng của vụ án này? Có nguồn tin cho rằng ông ta có một trợ lý người Việt, anh này đã kể lại với ông chủ về Quốc. Hồ Chí Minh thì nói rằng mình và Loseby có chung một người bạn giấu tên ở HongKong. Theo thông tin chính thức của Hà nội, Loseby được Tổ chức cứu trợ Đỏ quốc tế và Mặt trận phản đế (một công cụ của Moscow để cứu giúp các đồng chí của mình bị sa cơ) thuê. Loseby lập tức phản đối việc trục xuất Quốc theo những thủ tục bình thường vì điều đó sẽ gây nguy hiểm cho Quốc và Lý Sâm (cô gái cùng bị bắt với Quốc). Lý do đơn giản là chính quyền Pháp ở Đông dương đang theo dõi sát sao vụ này và đã đề nghị chinh quyền HongKong thông báo địa điểm và thời gian trục xuất. Loseby muốn các thân chủ của mình phải được rời HongKong theo sự sắp xếp của chính họ. Thống đốc HongKong lưỡng lự nhưng cũng đồng ý. Ngày 24/7 ông này điện cho Bộ Thuộc địa ở London đề nghị thả tự do cho Quốc và buộc phải rời HongKong trong 7 ngày. Theo ông nếu trục xuất Quốc sang Đông dương thì chẳng khác gì dẫn độ và “mâu thuẫn với những nguyên tắc của nước Anh”. Tuy nhiên, sự việc diễn ra không đơn giản. Jules Cambon, đại sứ Pháp tại London chính thức lên tiếng phản đối quyết định thả Quốc. Ông ta cho rằng Quốc là một sự nguy hiểm quốc tế và cần phải bị kiềm chế. Mặc dù Pháp không có đủ thẩm quyền pháp lý để đòi hỏi dẫn độ Quốc, chính phủ Pháp muốn chính phủ Anh hiểu rõ quan điểm của mình. Ông này cũng nhắc lại đề nghị của tổng lãnh sự Pháp tại HongKong đề nghị trục xuất Quốc sang Đông dương. Bộ Ngoại giao Anh, muốn lấy lòng Pháp trong việc chung sức chống lại các hoạt động lật đổ đã đồng ý với quan điểm này . Yêu cầu của Bộ ngoại giao đã gây ra cãi nhau to trong Bộ thuộc địa. Mặc dù có nhiều quan chức phản đối cho rằng làm thế khác gì dí cổ Quốc vào lưỡi dao của Pháp, cũng có những quan chức đồng tình với Bộ ngoại giao. Bài phát biểu sau có thể làm rõ quan điểm đó: [I]Cá nhân tôi nhất trí với quan điểm của Bộ ngoại giao là trả lại tay này về Đông dương. Hắn là một tay kích động xấu xa bị bắt cùng một rọ với Le Franc ở Thượng hải. Chúng ta quả là không may vì không tìm được đủ chứng cớ để tống cổ hắn vào tù ở HongKong. Có vẻ các vị cảm thấy là nhân đạo khi cho hắn sang Nga thay vì đẩy vào tay kẻ thù của hắn. Nhưng hãy để ý rằng, các hoạt động cách mạng ở Đông dương là bẩn thỉu, phần nhiều liên quan đến giết người, đốt nhà hoặc tra tấn dã man. Tuy không trực tiếp nhúng tay, nhưng đa phần các vụ này đều do Nguyễn chịu trách nhiệm. Nếu hắn ta được tự do, hắn lại tiếp tục những hành động như vậy. Bởi thế tôi đồng ý quan điểm của chính phủ Pháp là các thế lực Thuộc địa cần đoàn kết với nhau để dập tắt những ổ dịch cách mạng lây lan nhanh chóng này bảo vệ lợi ích của văn minh ở phương Đông. [/I] Trước sức ép của Bộ ngoại giao, cuối cùng thống đốc HongKong đã ra lệnh trục xuất Quốc sang Đông dương. Đoán trước được ý định đó, Loseby đã sử dụng lên đình quyền giam giữ yêu cầu mở phiên toà công khai để xem xét tính pháp lý của vấn đề. Ngày 14/8, toà tối cao HongKong đã mở phiên xét xử kéo dài trong mấy tuần. Tại phiên toà, Loseby đã chứng minh là chính quyền đã vi phạm pháp luật khi đặt những câu hỏi có nội dung chính trị, không liên quan gì đến vụ việc, trong lần thẩm vấn Quốc trước đó. Cảm thấy quan toà Ngài Joseph Kemp có thể huỷ bỏ lệnh trục xuất hiện tại, các quan chức HongKong vội vàng thảo một lệnh theo một chương khác của Pháp lệnh về trục xuất năm 1917. Toà đã chấp nhận lệnh mới, nhấn mạnh rằng mặc dù việc trục xuất có thể dẫn đến những hậu quả tương đương như dẫn độ, nhưng cũng chẳng có gì trái với luật pháp nước Anh cả. Lý Sâm được trả tự do, còn Quốc lại đối mặt với nguy cơ bị đưa về Đông dương.[IMG]https://lichsuvn.info/forum/images/smilies/59.gif[/IMG] Ngay lập tức Loseby chống án lên Hội đồng cơ mật tại London, cho rằng chính quyền đã lạm dụng quyền lực. Được Hội đồng chấp nhận đơn, Quốc có cơ hội thay đổi không khí vì ít nhất là cũng vài tháng sau vụ việc mới được xem xét. Ông được chuyển sang bệnh viện Đường Bowen vì lý do sức khỏe. Mặc dù không có biểu hiện bệnh tật rõ ràng, Quốc bị kiệt sức và trông hốc hác. Trong hồi ký của mình, Quốc miêu tả giai đoạn này khá tăm tối, bị ngược đãi, ăn cơm hẩm, cá thiu và thú vui duy nhất là săn rận. Tuy nhiên một số nguồn thông tin khác cho rằng, trong thời gian ở bệnh viện, Quốc sống khá thoải mái, thường xuyên được vợ chồng một quan chức thuộc địa (bạn Loseby) và một số người châu Âu khác viếng thăm. Loseby cũng bố trí cơm nước cho Quốc từ một nhà hàng cạnh bệnh viện. Quốc dành thời gian rỗi để đọc và thậm chí đã hoàn thành một cuốn sách bằng tiếng Anh. Đáng tiếc là Loseby đã đánh mất nó trong chiến tranh thế giới thứ hai. Như thường lệ, Quốc cũng không bỏ lỡ cơ hội để tiến hành tuyên truyền cho những tư tưởng cách mạng của mình. Trong một câu chuyện của mình, Quốc kể: [I]Một hôm, có một cô hộ lý Trung Quốc thì thầm hỏi: “Bác ơi, chủ nghĩa cộng sản là gi ạ, bác có phải là người cộng sản không, bác đã làm gì mà bị bắt?” Cô ấy biết rằng, những người cộng sản không phải là trộm cướp, buôn lậu, giết người, cho nên không hiểu vì sao họ lại bị bắt. “Thế này, cháu ạ, nói một cách đơn giản, những người cộng sản muốn xây dựng một chế độ mà các hộ lý Trung quốc không phải phục tùng các quan lớn người Anh nữa” [/I] Bức thư đầu tiên mà Quốc gửi từ trong tù là cho Lâm Đức Thụ, thông báo đã ở tù 3 tuần. Quốc nói “rất xấu hổ và không có ai để chứng thực cho sự vô tội” của mình. Quốc đề nghị Thụ làm hết sức mình để được tự do và hứa sẽ biết ơn đời đời. Tất nhiên là chẳng có ích gì. Mặc dù biết rõ quan hệ tay đôi của người đồng chí cũ của mình, Quốc vẫn giữ liên lạc và đề nghị Thụ đừng đến thăm vì sợ bị liên luỵ. Sau đó vài tháng Thụ đã báo cho chỉ huy người Pháp của mình là Quốc đã xin 1000 đô HongKong để được đưa sang châu Âu. Khi Thụ nói không có tiền, Quốc đã đề nghị vợ Thụ bán đi một số đồ trang sức.?????? Đây chắc cũng là một giai đoạn cô đơn của Quốc. Người tình mới Nguyễn Thị Minh Khai thì ở trong tù???? cha mới chết trước đó 2 năm tại Nam bộ, không một xu dính túi. Thỉnh thoảng Quốc mới có liên lạc với các anh chị. Anh Khiêm, từng bị bắt vì tạo phản năm 1914, được tha năm 20, sống ở Huế, chủ yếu làm thuốc và xem địa lý để tiếp tục hoạt động nhưng cũng rất túng thiếu. Năm 1926, Quốc đã nhờ Phan Bội Châu gửi cho anh mình một ít tiền. Chị Thanh cũng đầy tai tiếng với chính quyền, bị bắt năm 1918 vì tội tàng trữ vũ khí, được tha năm 22, cũng sống và làm thuốc ở Huế, sau khi cha chết năm 1929, chị có về Kim liên để thắp hương cho bà con. Trong lúc đó, các cơ quan chức năng tiếp tục tranh cãi. Bộ thuộc địa thì đồng ý với chính quyền HongKong về việc trục xuất và để cho Quốc tuỳ nghi di tản. Bộ ngoại giao thì sợ Pháp phật ý, lại muốn tham khảo chính quyền Pháp về các hình phạt có thể áp dụng với Quốc. Tuy nhiên cả hai đều đồng ý chưa có hành động nào trứơc khi Hội đồng cơ mật ở London đưa ra quyết định cuối cùng. Ngày 22/12, Đại sứ Pháp tại London, Jaques Truelle đã trả lời yêu cầu của Anh về các tội Quốc đang bị xử ở Đông dương. Theo ông này, Quốc đích thị là đặc vụ của QTCS tại Đông Nam Á trong đó có nhiệm vụ trợ giúp cả Đảng cộng sản Malay, đang là thuộc địa của Anh. Truelle cũng xác nhận toà án Nam triều đã kết án Quốc tử hình về tội mưu toan lật đổ. Tháng 10/1929, bản án này đã được xem xét lại và hạ xuống khổ sai chung thân. Truelle thông báo là Quốc sẽ được xét xử lại, bản án sẽ được Toàn quyền Đông dương phê duyệt, và mặc dù tội danh vẫn không thay đổi, Pháp bảo đảm sẽ không kết án tử hình Quốc. Cuối năm 1931, đơn khiếu kiện của Quốc được Hội đồng cơ mật đưa ra xem xét. Quyền lợi của Quốc được luật sư D.N Pritt (hãng Light và Futon) bảo vệ. Đảng viên Đảng Lao động Stafford Cripps đại diện cho chính quyền Hongkong. Ông này, một mặt sợ mất mặt chính quyền HongKong, mặt khác được mấy người bạn ở Bộ thuộc địa có tư tưởng thân cách mạng khuyên bảo, đã đề nghị thoả hiệp. Ngày 27/6/1932, chính phủ Anh đồng ý trả tiền khiếu nại và hỗ trợ Quốc đi đến bất cứ nơi nào Quốc muốn. Cũng có tin đồn là Quốc được tha vì đồng ý nhận làm điệp viên cho Anh??? Đầu tiên Quốc được thông báo là chính phủ Anh đồng ý cho tị nạn chính trị, tuy nhiên chẳng có đường nào đến Anh mà lại tránh được cảnh sát Pháp. Nếu qua kênh Suez, Quốc có thể bị bắt ở Port Said (Ai cập). Qua Nam Phi hoặc Úc thì các chính phủ này lại không đồng ý. Buồn cười nhất là cuối cùng hoá ra chính phủ Anh cũng không đồng ý nhận. Không hiểu sao chữ “không” trong từ “không đồng ý” trong bức điện của London gửi HongKong lại bị ai đó xoá đi mất. Chính quyền đã bắt đầu sốt ruột với vị khách rắc rối này. Ngày 28/12/1932, Quốc được thả ra khỏi bệnh viện và phải rời HongKong trong vòng 21 ngày. Trước đó, để đánh lừa Pháp, ông Loseby đã tung tin Quốc bị chết vì lao phổi. Tờ “Công nhân hàng ngày” của QTCS tại London đã đưa tin về cái chết của ông trong số ngày 11/8/1932. Quốc phải đóng giả một ông đồ nho, sống tại khách sạn YMCA tại Cửu long vài ngày rồi lên tàu đi Singapore. Rủi thay, cơ quan nhập cảnh Sing lại tống cổ Quốc trở lại HongKong trên tàu Ho Sang. Đến HongKong, cảnh sát lại bắt Quốc vì tội thiếu giấy tờ. Tuy nhiên chính quyền HongKong đã can thiệp, trả tự do cho Quốc ngày 22/1 và cho 3 ngày để tìm đường thoát khỏi thuộc địa. Nhờ sự giúp đỡ của Loseby, tối ngày 25, cảnh sát mặc thường phục đã dùng xuồng máy đưa Quốc ra ngoài khơi đến một con tàu Trung quốc đang nhổ neo đi Hạ môn. Quốc và người phiên dịch xuống Hạ môn vào sáng hôm sau (thành phố này lúc đó được phương Tây gọi là Amoy) và nhận phòng tại YMCA ở khu Trung quốc. Nhờ một người Hoa địa phương giàu có, bạn của Loseby chu cấp, Quốc chơi bời nghỉ ngơi vài tuần qua Tết ở Hạ môn trước khi lên tàu đi Thượng Hải trong vai một thương nhân người Hoa. Lúc này cảnh sát Pháp đã đánh hơi được Quốc đang ở đâu đó Nam Trung quốc và tăng cường truy nã. Các đảng viên CS Trung Quốc thì đã phải rút hết vào bí mật từ sau vụ tàn sát 1927. May mắn cho Quốc, đúng lúc đó có đoàn đại biểu chống chiến tranh của Quốc hội Pháp do bạn ông từ thời FCP- Đảng CS Pháp, Paul Couturier dẫn đầu đang ở thăm Thượng hải. Quốc quyết định dùng con bài cuối cùng: vợ goá của Tôn Trung Sơn, bà Tống Khánh Linh. Anh thuê một xe taxi, liều mạng phi đến biệt thự của bà này tại Rue Moliere nhượng địa Pháp để bỏ một bức thư vào hộp thư. Trên đường về, nhờ chiếc xe trông quá xịn, Quốc đã thoát được một cuộc vây bắt của cảnh sát Pháp. Madam Tống đã giúp Quốc gặp được Couturier, ông này liên lạc với Đảng CS Trung Quốc và bố trí đưa Quốc lên một chiếc tàu Liên xô chuẩn bị đến Vladivostok. Quốc đến Matxcova mùa xuân năm 1934. Nước Nga xô viết đang ở trong ánh hào quang của giai đoạn công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa và kế hoạch 5 năm lần thứ nhất. Đối với các khách du lịch ngắn ngày và không đi quá xa ra khỏi Matxcova, Leningrat và các thành phố lớn, tình hình quả là được cải thiện đáng kể so với thập kỷ trước. Nhà viết kịch Bernard Shaw đã miêu tả những điều nhìn thấy như một “Cuộc thử nghiệm xã hội vĩ đại”. Tuy nhiên đối với nhiều triệu người dân Xô viết tình hình lại không được khả quan như vậy. Giai cấp trung nông, tiếng Nga gọi là Culac (có nghĩa là nắm đấm) bị tiêu diệt trong công cuộc tập thể hoá nông nghiệp. Của cải của nông dân bị tước đoạt để trang hoàng cho các quầy tạp hoá ở đô thị. Những kẻ chống đối hoặc bị giết hoặc bị đưa đi đày ở Siberia. Hàng ngàn người bị bắt lao động khổ sai tại những công trình thế kỷ như kênh đào Kareli nối vịnh Phần lan với Bạch hải. Nạn đói đã nổ ra tại Ucrain năm 1932, trong 2 năm sau đó, ước tính đã có từ 5-7 triệu người chết đói. Khoảng giữa những năm 30, phong trào chống đối kế hoạch hoang tưởng của Stalin trong đảng phát triển mạnh mẽ. Tuy nhiên Stalin đã ra tay, Trosky bị đẩy đi lưu vong. Kamenev và Zinoviev bị cô lập. Ngôi sao đang lên Kirov bị ám sát. Một cuộc thanh trừng tập thể được tiến hành nhằm vào tầng lớp Bolsevic cũ đã từng cùng với Lenin tiến hành khởi nghĩa. Trong năm 1935, hơn 100,000 người đã bị bắt với tội danh “kẻ thù của quốc gia” chỉ riêng ở Leningrat. Trên danh nghĩa, những biến động đó chẳng ảnh hưởng đến cá nhân Quốc. Anh được tiếp đón trọng vọng ở văn phòng Dalburo (lúc đó đang do một người cộng sản Phần lan Otto Kuusinen lãnh đạo). Quốc lập tức được phân quản lý 144 sinh viên Việt nam đang học tại học viện Stalin (lúc đó đã được đổi tên thành Học viện các vấn đề Dân tộc và Thuộc địa). Cần phải nhắc lại rằng, các sinh viên VN ở đây đã từng tổ chức lễ truy điệu Quốc và Trần Phú trước đó. Ông Nguyễn Khánh Toàn, một cựu sinh viên kể lại về giai đoạn này: Bác Hồ cực kỳ gần gũi với các sinh viên Việt nam. Thông thường Bác hay đến buổi tối để chia sẻ các kinh nghiệm hoạt động của mình liên quan đến đạo đức của người cách mạng và tình đoàn kết. Có một số học viên trẻ kiêu ngạo hoặc tự ái hay cãi nhau những chuyện lặt vặt, Bác lại là người đứng ra phân xử. Bác nói: “Nếu chúng ta không giữ được đoàn kết trong một nhóm nhỏ thế này, làm sao có thể nghĩ đến chuyện thống nhất quần chúng để lật đổ chế độ thuộc địa khi về nước” Quốc cũng như các học viên học viện được sống khá dễ thở trong chế độ bao cấp: ăn, ở và dịch vụ y tế miến phí. Hè được đi nghỉ ở Crum. Mỗi tháng lĩnh 140 rub tiêu vặt. Bởi thế cũng dễ hiểu là Quốc có thể chẳng biết gì về những bi kịch đang diễn ra trong xã hội xô-viết. Sức khỏe Quốc không được tốt. Tháng 9/1934, Quốc đi dưỡng bệnh vài tuần ở Crưm, sau đó anh nhập học một khoá 6 tháng ở Trường Đại học Lenin, chuyên việc đào tạo cán bộ cho các Đảng cộng sản anh em. Không có nhiều thông tin lắm về những tháng đầu tiên Quốc tới Nga. Chỉ biết rằng, Quốc rất tích cực tham gia các hoạt động xã hội, tranh cãi bảo vệ quyền lợi cho các đồng chí Việt nam và cách mạng Việt nam. Ở nhà, anh chịu khó tập thể dục để phục hồi sức khoẻ. Quan điểm trước đây của các nhà sử học là Quốc may mắn đứng ngoài rìa những cuộc thanh trừng tập thể đang diễn ra lúc đó. Những thông tin mới được tiết lộ gần đây nhất ở Moscow cho thấy thực tế không phải như vậy. Có vẻ như Quốc đã bị một toà án gồm có ông bạn cũ Manuilsky, chiến binh đa mưu của Đảng CS Trung Quốc - Khang Sinh và bà Valeria Vasilieva xét hỏi. Không rõ tội danh của Quốc là gì, tuy nhiên chỉ riêng việc ông có những quan điểm trái ngược với đường lối của Đại hội QTCS lần 6 về cách mạng dân tộc, thêm vào đó lại là bạn thân của Borodin đang bị xét xử cũng đã quá đủ để Stalin nghi ngờ. Việc Anh thả Quốc tháng 12/1932 cũng làm dấy lên một số nghi vấn là ông đã nhận làm gián điệp để đổi lấy tự do. Chắc là nhờ sự bảo trợ của Manuilsky và đặc biệt là Vasilieva, Quốc đã thoát tội. Bà này đại diện cho bộ máy của QTCS trong việc tiếp xúc với các sinh viên Việt nam và rất nhiệt tình bảo vệ Quốc cho rằng lỗi duy nhất của ông là thiếu kinh nghiệm. Trong một bức thư gửi cho lãnh đạo của Đảng CS Đông Dương tại Nam Trung quốc, bà đã viết: “[I]liên quan đến Nguyễn Ái Quốc, anh ta cần phải học thật tốt trong 2 năm tới và không làm gì khác. Sau khi anh ta học xong, chúng tôi sẽ có kế hoạch sử dụng” [/I] [I]Trong khi Quốc đang ở Moscow, các chiến hữu ở trong nước đang ra sức khôi phục lại bộ máy của Đảng sau khi các lãnh đạo cao cấp bị bắt từ tháng 4/1931 tại Nam bộ. Để giúp đỡ , Đảng CS Đông Dương, QTCS đã kêu gọi tất cả các đảng CS lên tiếng ủng hộ cuộc “khởi nghĩa” của công nhân ở Đông dương. Hơn 30 học sinh VN tại Moscow được lệnh hồi hương để giúp đỡ các đồng chí của mình. Mặc dù đa số bị Pháp bắt hoặc đào ngũ (một nguồn tin nói 22 trong số 35 người đã bị vô hiệu hoá), một số cũng đến được đích. Trong đó có Lê Hồng Phong, đệ tử cũ của Quốc ở Tâm tâm xã. Phong học lái máy bay ở Leningrad, sau đó chuyển đến trường Stalin năm 1929, rời Liên xô năm 1931. Tháng 4/1932, Phong về đến Long châu, một thành phố nhỏ ở biên giới Quảng tây và VN. Sau đó cùng với 2 đồng môn Phùng Chí Kiên và Hà Huy Tập, Phong chuyển đến Nam ninh và lập ra Ban chỉ huy hải ngoại có nhiệm vụ làm cầu nối giữa QTCS và bộ máy đảng ở trong nước. [/I] [I]Đảng cũng chia ra theo các vùng để dễ bề khôi phục. Đến giữa những năm 30, dân số Việt nam vào khoảng 18 triệu, trong đó 4 triệu ở Nam bộ, 5 triệu ở Trung bộ, còn lại ở Bắc bộ. Một cựu học viên của trường Stalin, ông Trần Văn Giàu, chịu trách nhiệm khôi phục lại bộ máy ở Nam bộ. ông này về Sài gòn đầu năm 1933. Đường lối của Moscow lúc đó là chỉ chiêu nạp đảng viên trong tầng lớp công nhân thành thị. Tuy nhiên mặc dù thất nghiệp tràn lan do cuộc đại khủng hoảng, công nhân vẫn có vẻ thờ ơ với chính trị. [/I] [I]Đảng có ảnh hưởng sâu rộng hơn nhiều trong nông dân ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu long vốn chẳng ưa gì tầng lớp địa chủ và quan lại tham nhũng. Lợi dụng chính sách có vẻ “thoáng” hơn của chính quyền, một số thành viên theo trường phái Trosky đã xuất bản tạp chí La Lutte. Thậm chí có cán bộ Đảng còn đăng ký chạy đua vào hội đồng thành phố. Giữa năm 1933, xứ ủy Nam kỳ được thành lập với 2 tiểu ban phụ trách các tỉnh miền đông và miền tây và một trường đào tạo cán bộ. Phòng Nhì Pháp bất lực vì không được lệnh ra tay. Trần Văn Giàu đã bị bắt nhưng lại được tha vì không có chứng cớ. Chỉ có tay ám sát chuyên nghiệp Lê Hồng Sơn, sau một hồi lẩn trốn, cuối cùng cũng bị bắt tại nhượng địa Pháp ở Thượng hải. Sau đó Sơn bị dẫn độ về VN và bị triều đình xử tử vào tháng 2/1933 tại Vinh. [/I] [I]Tình hình ở các vùng khác không được khả quan lắm. Tại Annam, một số đảng viên từ Xiêm về tìm cách kết hợp với các đảng viên bị bắt trong đợt Xô viết Nghệ tĩnh mới được tha để phục hồi lại cơ sở đảng. Tuy nhiên có sự nghi kỵ đối với các đảng viên đã từng ở tù. Tỉnh uỷ Nghệ an còn ra tuyên bố: “trong 100 đảng viên cộng sản cũ, chỉ có một có khả năng trung thành với các học thuyết của đảng”. Dù sao, đến giữa năm 1934, ba khu uỷ đã được thành lập, mỗi uỷ ban phụ trách từ 5-7 tỉnh. Tonkin là vùng trắng cho đến năm 1934 khi một số đảng viên bắt đầu hoạt động lại ở Việt bắc. Sau đó nhờ có sự móc nối của Lê Hồng Phong, xứ uỷ Bắc kỳ mới được thành lập lại. Cũng vào khoảng thời gian đó, một số đảng viên do Quốc gây dựng từ những năm trước đã thành lập ủy ban trung ương lâm thời tại cao nguyên Khorat để tuyển mộ và đào tạo thành viên cho các hoạt động trong nước. Uỷ ban này sau đó đã tự xưng là văn phòng liên lạc của xứ uỷ Nam kỳ và Trung kỳ với thế giới bên ngoài. Các uỷ ban tương tự cũng được thành lập ở Lào và Campuchia. [/I] [I]Vấn đề quan trọng của đảng là xem xét lại chiến lược của mình sau những tổn thất lớn lao trong Xô Viết Nghệ Tĩnh. Khoảng giữa năm 1932, Lê Hồng Phong cùng với một số đồng chí nữa đã dự thảo cương lĩnh mới. Cương lĩnh này hiển nhiên chịu ảnh hưởng của xu thế chính trị lúc đó tại Matxcova nên mang nặng tính bè phái và thiên tả. Cương lĩnh nhấn mạnh tầm quan trọng của cách mạng phản phong so với cuộc đấu tranh phản đế và hết sức nghi ngờ các đảng phái có tính dân tộc. Tờ Bolsevic, cơ quan của uỷ ban hải ngoại cũng tập trung vào những luận điểm tương tự. Các bài báo được cho là của Hà Huy Tập đã phê phán những quan điểm “tiểu tư sản” như “cách mạng dân tộc phải xảy ra trước cách mạng XHCN”. Tập cũng chỉ trích các cơ sở đảng trong nước quá chú trọng trong việc huy động nông dân và yêu cầu họ tuyển mộ nhiều công nhân hơn nữa. Theo Tập, nông dân “tham lam sở hữu, không chính kiến, không đoàn kết, chậm hiểu biết các tư tưởng mới và không thể trở thành lực lượng cách mạng”. Tuy những lời phê phán không nhằm vào ai cụ thể, rõ ràng mục tiêu của ban biên tập là những luận điểm và chính sách của Nguyễn Ái Quốc. Một bài báo, sau khi đề cập việc “một số đồng chí trong nước cho rằng địa chủ và tư sản dân tộc cũng có tinh thần chống đế quốc và như vậy có thể trở thành một phần của cách mạng” đã nói toẹt rằng đó chính là những quan điểm của Nguyễn Ái Quốc tại đại hội thống nhất tháng 2/1930, nhưng sau đó đã bị các lãnh đạo mới của đảng loại bỏ. Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân chứ không phải của tất cả quần chúng. Bài báo viết: “Đảng cộng sản lánh đạo cuộc đấu tranh giai cấp chứ không phải đấu tranh dân tộc. Bởi vì đây là đảng của giai cấp công nhân, trên tinh thần vô sản quốc tế, đảng phải kiên quyết chống lại những tư tưởng dân tộc và những tuyên truyền sáo rỗng kiểu: khôi phục đất nước của những con rồng, cháu tiên. Chúng ta chống lại thực dân Pháp, nhưng không có nghĩa là chúng ta ủng hộ các tư tưởng dân tộc.” [/I] [I]Hà Huy Tập còn chỉ trích gay gắt hơn “Chúng ta chịu ơn Nguyễn Ái Quốc, nhưng các đồng chí không được quên bản chất dân tộc của Nguyễn Ái Quốc và những chỉ đạo sai lầm của ông về các vấn đề cách mạng tư sản dân tộc, cũng như những lý thuyết có tính cơ hội mà ông đã gieo rắc trong các thành viên Thanh niên Hội và Tân Việt...Ông không chịu tuân theo những chỉ thị của QTCS trong việc sát nhập. Bản cương lĩnh chính trị tháng 2/30 cũng như đảng thống nhất mới đã không tuân thủ những nguyên tắc của QTCS. Nguyễn Ái Quốc còn lớn tiếng ửng hộ những chiến thuật sai lầm và thoả hiệp như “trung lập với giai cấp tư sản và địa chủ, liên kết với các trung nông và nông dân”. Do đó từ tháng 1 đến 10/30, Đảng CS Đông Dương đã tiến hành một đường lối đối lập với QTCS. Mặc dù đảng đã hăng hái lãnh đạo quần chúng vùng lên, các xô viết trong Xô Viết Nghệ Tĩnh cũng đã không làm theo các đường lối chính trị đúng đắn” [/I] [I]Tháng 6/1934 Lê Hồng Phong và Hà Huy Tập đã triệu tập hội nghị tại Makao để bàn về đường lối tương lai cũng như chuẩn bị cho Đại hội đảng lần thứ nhất. Nghị quyết của hội nghị này đã phê phán các nhà cải lương dân tộc như Bùi Quang Chiêu, Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn An Ninh. Nghị quyết cho rằng hội này rất nguy hiểm vì “giả danh bảo vệ các tầng lớp lao động, chống lại chính quyền, đòi hỏi các cải cách hiến pháp, thống nhất giai cấp chỉ nhằm mục đích đưa nhân dân khỏi con đường cách mạng”. Bởi thế nhiệm vụ quan trọng của đảng là chống lại sự ảnh hưởng của những nhóm tương tự, cũng như những tư tưởng rơi rớt từ Thanh niên Hội và Tân Việt.[/I] [I]Hội nghị cũng quyết định triệu tập Đại hội lần thứ nhất tại Hồng kông vào tháng Giêng 1935. Tuy nhiên theo nguồn của mật thám Pháp, QTCS đã đề nghị chuyển sang tháng 3. Địa điểm cũng được quyết định lại là Macao. Từ cuối mùa hè năm 34, các lãnh đạo đảng đã dự thảo những văn kiện sẽ thảo luận tại đại hội. Giấy mời cũng được gửi đi các nơi, yêu cầu tập trung vào ngày 15/3. Ban lãnh đạo rất hy vọng là Moscow sẽ cử đoàn đại biểu chính thức tham dự. Khoảng đầu tháng 8, Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai (mới được thả ở Quảng châu, lấy tên là Vân) và Hoàng Văn Nón (đảng viên từ Cao bằng) lên đường đi dự đại hội 7 QTCS dự kiến sẽ tổ chức ở Moscow hè năm sau. [/I] [I]Hà Huy Tập đương nhiên nhận trách nhiệm chuẩn bị đại hội Đảng. Tập sinh ở Nghệ an, đầu tiên tham gia Tân việt, sau đó trốn sang Thanh niên Hội. Khi học ở trường Stalin, Tập tỏ ra rất nhạy bén về lý thuyết và lớn tiếng phê phán những thiếu sót về tư tưởng của Hội. T[B][I]rong con mắt của mật thám Pháp, Tập là người kiêu ngạo, gian giảo và đa nghi đến cực điểm[/I][/B]. Tập thường xuyên gây vấn đề với các đồng chí của mình và được gọi là “Ông Lùn” vì tầm vóc thấp bé của mình. Quan hệ căng thẳng nhất là với Trần Văn Giàu. Ông này đến Macao từ Nam bộ vào tháng 9/1934, một mặt để báo cáo tình hình, mặt khác tham gia vào quá trình chuẩn bị đại hội. Giàu chắc chắn coi Tập là chíp hôi. Còn Tập thì nghi ngờ vì sự ngạo mạn và độc lập của Giàu. Thậm chí Tập còn nghi Giàu là mật thám Pháp và viết thư mách về Moscow. Mãi sau này, khi có tin về việc Pháp lục soát khám xét nhà Giàu, Tập mới thừa nhận là mình không có cơ sở. [/I] [I]Kẻ phá hoại hoá ra nằm ở chỗ khác. Ngay trước thềm đại hội, một đảng viên kiêm nấu bếp tên là Nguyễn Văn Trâm đã cuỗm toàn bộ tiền quỹ của đảng và trốn sang HongKong. Vì Trầm nằm trong thành phần đi chọn địa điểm đại hội, ban lãnh đạo quyết định phải thay đổi địa điểm. Tập còn nghi một thành viên nữa là Nguyễn Hữu Cần có thể đã báo tin cho cảnh sát Pháp. Tập định lừa mật thám bằng cách ngầm cho Cần này biết là do khó khăn nên đại hội đảng có thể không tổ chức được. Trần Văn Giàu được phái về Nam bộ để xây dựng bộ máy. Cuối cùng thì đại hội cũng được tổ chức vào 27/3. Có Tập, Hoàng Đình Gióng, Phùng Chí Kiên và độ mươi đại biểu khác. Không có đoàn nào từ QTCS và cũng chẳng có đại diện của đảng cộng sản nào. Thời điểm đó, đảng có khoảng 800 đảng viên ở Đông dương và Xiêm. Đa số là người Kinh và ở quãng tuổi 20-30. Sự có mặt của Minh Khai, người tình một thời của Nguyễn Ái Quốc trong bộ máy lãnh đạo chứng tỏ không có sự phân biệt nam nữ đáng kể. Mặc dù ở Moscow, gió đã có vẻ đổi chiều, đại hội vẫn thông qua nghị quyết giữ nguyên đường lối cũ, xây dựng mặt trận thống nhất trong phạm vi hẹp, thâm nhập các đảng dân tộc để lùa các thành viên sang bên ta. Uỷ ban trung ương gồm 9 thành viên do Hà Huy Tập làm tổng bí thư sẽ đóng trụ sở tại Sài gòn. Ban liên lạc hải ngoại của Phong được chuyển sang Thượng hải. Trong báo cáo gửi QTCS ngày 31/3, Tập còn tranh thủ đả Nguyễn Ái Quốc mấy phát nữa. Tập viết: toàn đảng đang tiến hành cuộc chiến chống lại những tư tưởng “cách mạng dân tộc rơi rớt từ thời Thanh niên Hội dưới sự lãnh đạo của Nguyễn Ái Quốc. Những tư tưởng đó là trở ngại chính cho chủ nghĩa cộng sản”. Tập còn đề xuất Nguyễn Ái Quốc phải viết bản tự kiểm điểm. Vài tuần sau, Tập lại tấn công tiếp, dẫn lời một số đại biểu đại hội đã quy một phần trách nhiệm cho Quốc trong việc hàng trăm đảng viên Đảng CS Đông Dương bị bắt. Tập buộc tội Quốc đã tiếp tục dùng Lâm Đức Thụ mặc dù biết rõ tay này là mật thám Pháp, Quốc còn bắt các học viên trường thanh niên Quảng châu nộp ảnh và khai tên tuổi họ hàng. Những thông tin này sau bị rơi vào tay Pháp. Cuối cùng Tập kết luận “Nguyễn Ái Quốc không thể chối bỏ trách nhiệm trong những vụ việc này” [/I] [I]Quốc chắc chắn là được đọc hết những bài viết này của Tập. Không rõ ông nghĩ gì về các phê phán của Tập đối với mình. Chỉ thấy Quốc phàn nàn trong thư gửi Dalburo thâng 1/1935 là trình độ lý luận của một số sinh viên Việt nam trong trường Stalin quá thấp: [I]nhiều người không hiểu thế nào là cách mạng dân chủ tư sản, cũng chẳng hiểu cách mạng ruộng đất có liên quan gì đến sự nghiệp chống đế quốc[/I]. Quốc cho rằng mặc dù các vấn đề này có từ những năm 1930-31 nhưng gần đây đã trở nên đặc biệt nghiêm trọng do các đồng chí lãnh đạo còn quá trẻ. Không hiểu là ông định ám chỉ Tập hay kẻ đã chết là Trần Phú. [/I] [I]Đại hội lần thứ 7 của QTCS được khai mạc ngày 25/7/1935 tại Nhà Công đoàn đầy ngóc ngách. Trong khi khẩu hiệu trên hội trường thông báo về chiến thắng đang đến gần của giai cấp vô sản, bên ngoài đại hội là không khi rất căng thẳng của vụ xử tử hai lãnh tụ cũ là Kamenev và Zinoviev. Các đại biểu bị tập trung cả vào khách sạn Lux và bị cấm ra vào điện Kremlin. Đoàn Việt nam có ba đại biểu: Lê Hồng Phong (còn có các tên khác là Litvinov, Hải An, Chajan, Chayan); Nguyễn Thị Minh Khai (Vân hay Phan Lan) và Hoàng Văn Nón. Hai đại biểu nữa cũng đã xuất phát từ Việt nam nhưng không bao giờ đến nơi. Cả ba đều đã đăng đàn phát biểu. Minh Khai nói về sự bóc lột phụ nữ và tầm quan trọng của phụ nữ trong cách mạng; Nón phát biểu về các phương pháp huy động quần chúng. Bài phát biểu chính của Phong nói về những sai lầm đã qua và nhiệm vụ hiện tại của Đảng. Các bài phát biểu đều đã không “gãi” đúng vào mục đích của đại hội 7, nhằm xác định chiến lược mới cho các đảng cộng sản. Chiến lược này gần với các ý tưởng của Quốc thời Thanh niên hội hơn là chiến lược cực tả của đại hội Sáu. Nguyên nhân chính dẫn đến thay đổi là sự lớn mạnh nhanh chóng và nguy hiểm của Hitler và chủ nghĩa phát xít. Stalin đã tin rằng sự lên ngôi của Hitler tại Đức năm 1933 đã phản ánh giai đoạn sụp đổ của chủ nghĩa tư bản dẫn đến chính quyền của đảng CS. Tuy nhiên sau đó ông đã thay đổi quan điểm và coi chủ nghĩa phát xít như hiểm hoạ trực tiếp và quan trọng nhất của Liên xô. Thư ký mới của QTCS, ông Dimitrov, đã lờ đi nhiệm vụ cách mạng vô sản và chính quyền xô viết do đại hội Sáu đề ra. Ông nhấn mạnh sự nguy hiểm của chủ nghĩa phát xít và kêu gọi các đảng CS huy động hoặc tham gia vào các phong trào tiến bộ, nhằm thành lập mặt trận rộng rãi chống chủ nghĩa phát xít Đức và quân phiệt Nhật. Cuối đại hội, Đảng CS Đông Dương được kết nạp vào QTCS và Phong được bầu lên chủ tịch đoàn. [/I] [I]Quốc tham gia đại hội với tư cách quan sát viên từ Dalburo với mật danh là Linov. Mặc dù không phát biểu chính thức nhưng chắc chắn là Quốc rất tích cực sau hậu trường, la cà trò chuyện. Quốc cũng tham gia vào bữa tiệc chào mừng việc kết nạp Đảng CS Đông Dương do Maurice Thorez, một lãnh đạo đảng CS Pháp tổ chức. Tuy chiến lược mới làm Quốc hài lòng vì nó phù hợp với tư tưởng mặt trận rộng rãi mà ông đã đặt ra cho Thanh niên Hội và vẫn giữ vai trò là người phát ngôn chủ yếu cho Đông Nam á tại Ban chấp hành QTCS, chắc hẳn là Quốc không dễ chịu khi phải ngồi ngoài lề đại hội và nhìn Lê Hồng Phong xuất hiện trong hào quang như một nhà lãnh đạo của Đảng CS Đông Dương mới. Tệ hơn nữa, mối tình với Minh Khai cũng đi đên hồi kết. Chẳng mấy chốc sau khi đại hội kết thúc Minh Khai và Phong làm lễ kết hôn tại Matxcova. [/I] [I]Trong khi đó, tất cả các tài liệu của lãnh đạo Đảng CS Đông Dương gửi đi từ Makao cho QTCS trước đại hội đều nhấn mạnh là “vợ đ/c Quốc” (Le femme de Quoc) tức Minh Khai (MK) sẽ có mặt trong thành phần đoàn. Chỉ có khả năng là Phong đã cưa đổ MK trên đường đi dự đại hội. Sao lại đến nông nỗi vậy? Có nguồn cho rằng chẳng qua Quốc và MK đã bị xa nhau quá lâu. Cũng có nguồn cho rằng QTCS đã cấp cho Quốc “một người vợ tạm thời”. Lại có tin đồn là Quốc đã có con gái với một cô bạn người Nga. [/I] [I]Quan hệ giữa Quốc và MK là một trong những vấn đề gây bối rối nhất trong cuộc đời ông. Mặc dù Quốc không bao giờ nhắc đến chuyện này, các nguồn tin chính thức của đảng đều phủ nhận, tuy nhiên các bằng chứng cho thấy họ đã có quan hệ khá khăng khít. Ít nhất là các đồng chí của họ đều coi họ là vợ chồng. Tuy nhiên nếu nói như một nhà sử học nào đó là Quốc đã bị “thất bại kép”: mất cả vợ và chức lãnh đạo đảng vào tay Lê Hồng Phong thì cũng chưa thực sự ổn lắm. Thực tế cuộc đời Quốc đã cho thấy ông ưa chuộng những mối quan hệ ngẫu hứng để khỏi ảnh hưởng đến các mục đích chính trị của mình. Có thể ngay từ đầu Quốc đã coi mối quan hệ với MK là tạm thời. [/I] [I]Sau khi cưới xong, Phong ngay lập tức trở về Trung Quốc để báo cáo tình hình. Mãi đến hè năm 1936, Minh Khai và Hoàng Văn Nón mới rời Matxcova đi Pháp trong vai một cặp vợ chồng nhà buôn người Hoa giàu có đi nghỉ mát. Sau đó hai người qua Hồng kông, Thượng hải. Tại đây Minh Khai tái ngộ Lê Hồng Phong và cùng trở về Sài gòn. Minh Khai được bầu làm uỷ viên trung ương xứ uỷ Nam kỳ. Minh Khai và Phong chắc không biết được rằng số mệnh đã giao cho họ trở thành cặp liệt sĩ quan trọng nhất của cách mạng Việt nam. Trước khi rời Moscow, Minh Khai và Nón có đến gặp Quốc. [/I] [I]Tình hình lúc đó đã có một số thay đổi theo đường lối mới của đại hội 7. Tại Pháp, Mặt trận bình dân thắng cử và thành lập chính phủ mới được Đảng CS Pháp ủng hộ. Chính phủ kêu gọi chống phát xít, hỗ trợ Liên xô, cải cách tại các thuộc địa. Quốc viết cho các đồng chí mình: [/I] [I][I]Thắng lợi của Mặt trận bình dân tại Pháp là cơ hội hiếm có mà chúng ta phải sử dụng. Vấn đề quan trọng nhất bây giờ là sự thống nhất của Đảng, đặc biệt giữa các cơ sở trong và ngoài nước. Khi về đến Sài gòn, hãy nói với đồng chí Lê Hồng Phong 3 điều: [/I][/I] [I][I]1. Uỷ ban hải ngoại phải ngay lập tức trở về Việt nam để đảm nhận vai trò lãnh đạo phong trào, chỉ để lại vài đồng chí giữ quan hệ với thế giới bên ngoài. [/I][/I] [I][I]2. Đảng phải kiên quyết tách xa khỏi bọn Troskist đang phản bội lợi ích của cách mạng [/I][/I] [I][I]3. Tập trung hết sức lực để xây dựng mặt trận rộng rãi chống phát xít và chiến tranh. Đoàn kết các lực lượng yêu nước cứu nước nhưng kiên quyết duy trì sự lãnh đạo của đảng và giai cấp lao động .[/I][/I] [I]Chiến lược xây dựng mặt trận rộng rãi nhưng kiên quyết giữ vững sự lãnh đạo đã từng được Quốc áp dụng trong việc xây dựng Thanh niên Hội. Q chắc bị áp lực khi chỉ đạo bài xích các phần tử Troskist. Lúc đó Stalin đang phải vất vả chiến đấu với các thế lực theo Troski trong phong trào cách mạng thế giới. Mặc dù Quốc không đồng tình với lý thuyết phi thực tế “cách mạng liên tục và khắp nơi” của Troski, hẳn là ông thừa hiểu rằng những người Troskist còn tốt hơn khối lần các kẻ thù thực sự của cách mạng. Nếu được tự do lựa chọn, Quốc sẽ tìm cách thuyết phục họ chấp nhận sự lãnh đạo của Đảng CS Đông Dương.[/I] [I]Sau khi các đồng chí về hết, Quốc càng cảm thấy vô dụng. Từ năm 1935, Quốc đã nói với nhà báo xô viết Ilia Erenburg rằng ước muốn duy nhất của mình là được về nước hoạt động càng sớm càng tốt. Sau khi đại hội 7 kết thúc, Quốc đã chính thức xin phép về nước nhưng bị từ chối với lý do là tình hình Đông dương rất phức tạp. Mùa hè năm 1936, Quốc lại xin phép hồi hương qua đường Berlin và Paris. Giấy tờ đang được chuẩn bị thì chuyến đi bị huỷ do cuộc nội chiến Tây ban nha và sự khủng bố ở Pháp. Trong lúc chờ đợi, Quốc đăng ký vào học tại Học viện các vấn đề dân tộc và thuộc địa (trường Stalin cũ) và chuyển đến một căn hộ độc thân ở phố Bolsaia Bronaia. Trong lúc rảnh rỗi Quốc dịch các tác phẩm: Tuyên ngôn đảng cộng sản của Marx và Bệnh ấu trí tả khuynh của Lenin ra tiếng Việt. Ông còn viết bản khoá luận về “Cách mạng ruộng đất ở Đông Nam á”. Đối với một nhà hoạt động tích cực và ít quan tâm đến các lý thuyết giáo điều như Quốc, phải ngồi nhai giáo án khô khốc, dịch tác phẩm lý luận của những danh nhân hẳn phải là một cực hình. Tháng 6/1938 Quốc viết một lá thư tuyệt vọng cho Trung ương QTCS: “Làm gì với tôi thì làm, cho tôi ở đâu thì ở, nhưng đừng bắt tôi bất lực và ở ngoài đảng” . Với sự giúp đỡ của Vassilieva, cuối cùng Quốc được cho phép về Trung quốc qua Trung Á. Ngày 29/9/1938, Quốc ra khỏi trường. Hồ sơ của trường ngày 30/9 chính thức xác nhận sinh viên số 19 mang tên Lin được giải phóng. [/I] [I]Nếu không có thêm hồ sơ mật giai đoạn những năm 30 được Matxcova cho phép sử dụng, rất khó lý giải tại sao cuối cùng Matxcova lại giải phóng Quốc khỏi giai đoạn cải tạo nhiều năm vì bị nghi ngờ là đồng ý cung cấp thông tin cho Anh để đổi lấy tự do trong phiên toà ở HongKong. Cũng có vẻ như không phải là Stalin không ưa chuộng những quan điểm dị giáo của Quốc trước đây. Bởi nếu vậy, sau đại hội 7, Quốc đã bị phái đi ngay để thực thi những chiến lược mới. Tình hình Trung Quốc lúc đó đang thay đổi nhanh chóng: trước sức ép to lớn của Tưởng, Mao phải từ bỏ căn cứ phía nam sông Dương tử tiến hành cuộc Trường chinh đến Di An. Có thể dự đoán Matxcova cần người nắm vững thông tin về Trung Quốc. Đối với Quốc đây là cơ hội để ông chung sức cùng các đồng chí của mình bước vào giai đoạn mới của cách mạng Việt Nam. [/I] [I][B]8.Trong hang Pacbo [/B][/I] [I]Năm 1938 Trung quốc đang trong tình trạng chiến tranh. Cuộc chiến khởi nguồn từ năm 1931 khi bọn quân phiệt Nhật bất ngờ chiếm Mãn châu và thành lập chế độ bù nhìn Mãn châu quốc. Trong những năm sau đó, chúng tiến dần xuống phía nam, chiếm đóng các tỉnh Đông bắc quanh kinh đô cũ là Bắc kinh. Ban đầu Tưởng Giới Thạch chẳng quan tâm lắm đến điều đó. Bỏ qua sự quân sư của các đồng sự, Tưởng tiếp tục chiến dịch quét sạch cộng sản ở bờ nam sông Dương tử làm Mao phải bỏ chạy lên Di an. Năm 1937, Tưởng bị các đồng chí của mình bắt cóc khi đang đi thăm Tây an và buộc phải thay đổi thái độ. Lần thứ hai, liên minh Quốc-Cộng được thành lập nhằm chống lại sự xâm lược của Nhật. Cuộc chiến bùng nổ sau đó vài tháng sau trận đánh trên cầu Marco Polo. Cuộc xâm lược của Nhật mang đến sự thống khổ cùng cực cho nhân dân Trung Quốc nhưng lại mở ra một cơ hội mới cho Nguyễn Ái Quốc. Nhờ có liên minh Quốc-Cộng mới, Quốc có thể di chuyển tự do để liên lạc với các đồng chí của mình. Cuộc chiến cũng đe doạ sẽ lan đến các vùng khác của châu á, có thể kết liễu sự thống trị của Pháp tại Đông dương. [/I] [I]Quốc rời Matxcova đầu thu 1938, đi tàu hoả qua những thảo nguyên Trung á bát ngát. Sau vài ngày nghỉ ngơi ở Alma-Ata, Quốc theo một đoàn xe qua Urumgi đến Lan châu, thành phố phía đông của con đường tơ lụa nổi tiếng thời Trung cổ. Đại diện của Đảng CS Trung Quốc tại Lan châu đã giúp Quốc đến Tây an. Tại đó tư lệnh quân giải phóng Trung quốc (PLA) Vũ Thiếu Quân đã được lệnh của thượng cấp “phải tiếp đón một vị khách châu á quan trọng, chăm sóc cẩn thận và hộ tống ông ta đến Di an”. Đường đến Di an phải qua vô số những trạm kiểm soát của Quốc dân Đảng. Quốc phải đóng vai một anh đánh xe chở quần áo và thực phẩm cho các bộ tộc trên núi và hầu như phải đi bộ suốt chặng đường 200 dặm này.[/I] [I]\hc\2c\hc[/I] [I]Quốc quan sát những thay đổi trên từ căn cứ tạm thời của mình ở phía nam Trung quốc. Ông hy vọng các đồng chí của mình sẽ nhận ra mình qua phong cách và nội dung các bài báo trong Notre Voix được viết dưới bút danh Lin (mà ông đã từng dùng ở Matxcova). Tháng 7/1939 Quốc đã liều hơn, gửi thẳng thư tay có địa chỉ của mình qua người quen cho các uỷ viên trung ương. Bức thư là bản tuyên ngôn ủng hộ chính sách mặt trận rộng rãi đã được đại hội 7 của QTCS thông qua. [/I] [I][I]1. Vào thời điểm này đảng cần phải kiềm chế không đòi hỏi như độc lập dân tộc, lập nghị viện... Điều đó chỉ có lợi cho bọn phát xít Nhật. Cần tập trung vào việc đòi các quyền dân chủ như tự do hội họp, tự do báo chí, tự do tổ chức, tự do ngôn luận và đưa đảng ra công khai. [/I][/I] [I][I]2.Muốn đạt được điều đó, phải thành lập mặt trận liên minh rộng rãi bao gồm cả những người Pháp tiến bộ ở Đông dương và giai cấp tư sản dân tộc. [/I][/I] [I][I]3. Đảng phải bằng mọi cách lôi kéo được những tầng lớp tư sản có thể lôi kéo được, trung lập hóa những phần tử có thể trung lập được. Kiên quyết không để họ rơi vào tay bọn phản động kẻ thù của cách mạng. [/I][/I] [I][I]4. Không thoả hiệp với bọn Troskist đang trở thành chó săn của chủ nghĩa phát xít. [/I][/I] [I][I]5, Mặt trận dân tộc Đông dương cần phải có quan hệ chặt chẽ với Mặt trận Bình dân của Pháp để đấu tranh cho tự do và dân chủ. [/I][/I] [I][I]6. Đảng không được phép đòi hỏi quyền lãnh đạo mặt trận. Ngược lại phải thể hiện đảng là lực lượng tích cực nhất, trung thành nhất và hy sinh nhiều nhất. Chỉ có qua cuộc chiến đấu hàng ngày, nhân dân mới có thể hiểu được những chính sách đúng đắn của đảng và thừa nhận vai trò lãnh đạo của đảng. [/I][/I] [I][I]7. Đảng phải kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa bè phái, không ngừng nâng cao trình độ văn hoá và chính trị của đảng viên và giúp đỡ những người chưa phải là đảng viên nâng cao trình độ. Đảng cũng phải duy trì những quan hệ mật thiết với đảng cộng sản Pháp [/I][/I] [I]Nguyễn Ái Quốc gửi kèm bức thư này trong báo cáo chính thức đầu tiên cho QTCS. Quốc giải thích về sự chậm trễ này là do tình hình thực tế xấu đi. Quốc cũng xin lỗi và nhờ (có thể có chút châm biếm ở đây) các đồng chí tại Matxcova xem hộ liệu có sai sót gì về tư tưởng trong bức thư gửi Đảng CS Đông Dương. Quốc nói đã mất hết tài liệu chính thức của đại hội 7 và chỉ dựa vào trí nhớ. Quốc cũng thông bâo, mặc dù Mặt trận bình dân Pháp đã mang lại một số cải cách tại Đông dương, chính sách thiên hữu của chính phủ Daladier từ năm 1938 đang có nguy cơ xoá sách những cải cách đó. Một số cuộc đấu tranh của công nhân đã bùng phát trở lại và được sự ủng hộ rộng rãi của dân chúng. [/I] [I]Tháng hai năm 1939, Quốc - Cộng liên minh mở trường đào tạo quân sự tại Hằng dương, 200km về phía đông bắc Quế lâm. Khoá học đầu tiên bắt đầu từ 15/2 và kết thúc vào giữa tháng 5. Tưởng chỉ thị tướng Gia Gian Anh tìm một vài cán bộ cộng sản để giúp đỡ. Nguyễn Ái Quốc lúc đó vẫn với tên là Hồ Quang những đã mang hàm thiếu tá, được phân về làm quản lý, kiêm luôn phụ trách li[/I] [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch sử Việt Nam
Lịch Sử Địa Phương
Cuốn tiểu sử "Ho Chi Minh: A life" của William.J. Duiker
Top