Tình hình tại chiến trường Thái bình dương càng ngày càng thuận lợi cho quân Đồng minh. Các thành phố Nhật tan hoang do các phi đội B29. Nhà trắng xem xét phương án tấn công Đông dương với sự hỗ trợ của quân Tưởng từ phía Nam trung hoa đánh xuống. Trong khi đó, tại Đông dương, nạn đói đang hoành hành do hạn hán từ cuối năm 1944, cộng với việc trưng thu thóc và bắt nhổ lúa trồng đay của quân Nhật. Chính quyền Nhật từ chối mở cửa các kho thóc hay tăng cường việc vận chuyển gạo từ phía nam ra. Nông dân ăn hết khoai sắn, chuyển sang các loại rau, củ, cùng đường phải ăn vỏ cây, lá cây. Nạn đói lan dần đến thành phố. Giá hàng tiêu dùng phi mã. Thị dân phải đem đổi các đồ dùng trong nhà để mua gạo. Xác chết chất đống 2 bên đường, nông dân lang thang từng đám kiếm ăn.
Cho dù hậu quả của cơn đói có nặng nề thế nào đi nữa, nó đã cho Việt minh một cơ hội vàng để thu phục lòng dân. Việt Minh đã kích động nông dân phá kho thóc để chia cho dân nghèo, khơi dậy lòng căm thù cả Pháp và Nhật đã gây ra nạn đói. Sau chiến thắng ban đầu tại Nà ngần, Phai khắt, đội quân của Giáp tiến lên phía bắc gần biên giới Việt - Trung, giải phóng các làng dân tộc 2 bên đường. Khi quân Pháp phản kích ác liệt, Giáp lui về khu rừng nằm giữa Cao bằng và Bắc cạn, gọi là chiến khu Hoàng Hoa Thám, cùng với Vũ Anh và Phạm Văn Đồng bàn kế hoạch Nam tiến.
Ngày 9/3/1945, Nhật đảo chính Pháp, thành lập chính phủ bù nhìn do Bảo đại cầm đầu. Vì thế toàn bộ vùng phía bắc châu thổ sông Hồng trở nên mảnh đất màu mỡ cho cách mạng phát triển. Trước đó 1 ngày, thấy trước tình huống Trường Chinh đã triệu tập cuộc họp trung ương tại làng Đình bảng, khoảng 12 dặm phía bắc Hà nội. Phân tích các yếu tố có lợi: khoảng trống quyền lực do cuộc đảo chính, nạn đói và khả năng Đồng minh tấn công Đông dương, TƯ đã ra nghị quyết đặt ưu tiên cao nhất cho đấu tranh quân sự, phát triển các căn cứ du kích, mở rộng cơ sở chính trị của Việt minh và tập hợp các đội quân khác nhau dưới chung một ngọn cờ Giải phóng quân Việt nam. Tuy nhiên Trường Chinh cũng cẩn thận nhắc các cơ sở Đảng không được manh động, chỉ hoạt động phía sau lưng Nhật để đợi cho quân Đồng minh bắt đầu tiến công mới được ra tay. Trong trường hợp Nhật đầu hàng trước khi Đồng minh tấn công, cũng có thể lợi dụng cơ hội để tổng khởi nghĩa.
Trước khi rời Côn minh, Hồ đã gửi văn bản ký tên Lực cho OSS để đưa ra nhận định của mình về sự kiện 9/3. Mục tiêu của văn bản này là thuyết phục Đồng minh tấn công Đông dương. Như mọi khi, Hồ dùng ngôn ngữ ví von: “từ đảo Nhật bản đến New Guinea, quân Nhật như con rắn mà cổ nó là Đông dương. Nếu đập gẫy cổ, con rắn sẽ hết cựa quậy”. Lực nhận xét: “Con sói thực dân Pháp đã bị phát xít Nhật hất khỏi Việt nam sau 87 năm. Đối với thế giới đang chiến tranh, sự kiện đó chỉ là tích tắc, nhưng chắc chắn nó sẽ có hậu quả sâu sắc đối với Đông dương, Phát, Nhật và Trung quốc” . Tại Cao bằng các lãnh đạo đảng cũng đưa ra nhận định của mình phải tăng cường cuộc đấu tranh vũ trang. Giáp đưa đội quân của mình Nam tiến, giải phóng các làng trên đường và liên tục tuyển mộ quân. Sau khi vượt qua Chợ Chu, cuối cùng Giáp đã hội quân với Cứu quốc quân của Chu Văn Tấn ở một làng nhỏ có tên là Kim Lũng nằm sâu trong rừng giữa Thái nguyên và Tuyên quang.
Đầu tháng 4/1945, TƯ quyết định tổ chức hội nghị quân sự tại Hiệp hoà. Hội nghị đã đưa ra nhận định, chỉ tổng tấn công khi quân Đồng minh đã đánh nhau với quân Nhật bên trong Đông dương, hoặc khi Nhật đã đầu hàng Đồng minh trước đó. Cũng trong hội nghị này, Giáp được tin vợ mình (Nguyễn Thị Minh Thái) đã chết trước đó 3 năm. Được tin Hồ đã trở lại Việt nam, về đến Cao bằng sau hội nghị, Giáp lập tức lên đường đi đón.
Cuối tháng 4, Hồ về đến Pacbo và gửi báo cáo tình báo đầu tiên cho Patti, kèm theo hai bức thư: một cho các lãnh đạo Đồng Minh và một cho tổ chức vừa mới thành lập là Liên hợp quốc. Nội dung của cả hai bức thư là đề nghị công nhận Việt minh và Việt nam. Cả hai tài liệu này đều được đứng tên là Đảng Dân tộc Đông dương, tổ chức tự xưng là đã thành lập Đồng minh Hội, sau đó sát nhập với Việt minh. Patti đã chuyển các tài liệu này cho chính quyền Mỹ ở Trùng khánh. Ngày 4/5, trong vai một ông già Nùng được các vệ
sĩ và nhóm AGAS tháp tùng, Hồ lên đường đi Kim Lũng, nơi hội quân của các lực lượng cách mạng. Tại Lam sơn họ gặp Hoàng Quốc Việt, Phạm Văn Đồng và Vũ Anh. Hồ gửi báo cáo cho Fenn cám ơn ông này đã gửi thiết bị liên lạc và huấn luyện cho quân. Ngày 9/5 cả đoàn đi Ngân sơn. Ngày 17, tại Nà kiên Hồ gặp Giáp đang đi lên phía bắc. Hai người chưa gặp nhau từ cuối năm ngoái khi thành lập Việt nam tuyên truyền giải phóng quân. Giáp báo cáo với Hồ về tình hình trong nước và kết quả của hội nghị Hiệp hoà. Hồ cũng thông tin về tình hình thế giới. Cả hai bàn bạc việc chọn địa điểm để xây dựng căn cứ địa cách mạng và đã thống nhất chọn Kim Lũng. Cảm nhận được ngôi làng nhỏ bé này sẽ trở thành địa danh lịch sử của cách mạng Việt nam, Hồ đã quyết định đổi tên thành Tân Trào (Thuỷ triều mới).
Cả đoàn tiếp tục nam tiến, ngày 21/5 họ vượt sông Đáy, đến Tân trào. Thoạt đầu Hồ ở trong một nhà dân, còn hai sĩ quan liên lạc Mỹ được cho ở ngoài rừng. Sau đó dân làng đã dựng lên một ngôi nhà sàn để làm trụ sở. Còn Hồ đích thân chọn chỗ để dựng lán cho mình trong một khu rừng tre. Để chuẩn bị khởi nghĩa, Hồ ra lệnh triệu tập Hội nghị cán sự vào đầu tháng 6. Hội nghị đã thống nhất tất cả các lực lượng vũ trang tại 6 tỉnh Việt bắc (Cao bằng, Bắc kạn, Lạng sơn, Hà giang, Tuyên quang, Thái nguyên) thành Quân giải phóng Việt nam (VLA). Chính quyền dân sự do Uỷ ban lâm thời điều hành, tiến hành tuyển cử bầu ra các cơ quan hành chính địa phương, cải cách ruộng đất và xoá mù chữ.
Giáp được chỉ định đứng ra để điều phối các công việc tương tự trong toàn quốc, dưới sự cố vấn của Hồ. Trong hai tháng tiếp theo, một nhiệm vụ quan trọng của Hồ là giữ vững liên lạc với các nhà bảo trợ Mỹ ở Nam Trung quốc. Trong một báo cáo, Hồ đã đề nghị sử dụng đội du kích hàng ngàn người ở Chợ Chu để tấn công quân Nhật. Mặc dù e ngại những rắc rối chính trị khi có quan hệ chính thức với Việt minh, Patti vẫn được cấp trên là đại tá Helliwell “bật đèn xanh”, sau khi thấy rõ sự bất lực của đội tàn quân Pháp chạy trốn do tướng Gabriel Sabatier chỉ huy. Patti điện cho Hồ chuẩn bị một sân bay nhỏ để tiếp đón vũ khí và quân đội. Ngày 30/6 Hồ đồng ý tiếp nhận với điều kiện không được có người Pháp tham gia vào chiến dịch. Trung uý Dan Phelan được thả dù xuống Tân trào từ trước làm đại diện cho OSS. Ngày 16/7, thiếu tá Allison Thomas cùng đội “Con nai” của OSS nhày dù xuống Tân trào để nghiên cứu tình hình và giúp đỡ Việt minh chống Nhật trong sự chào mừng của hàng trăm du kích. Thomas kể lại:
Tôi được dấn đến gặp Ông Hồ, một lãnh đạo lớn của VML (Việt minh League). Ông ta nói tiếng Anh thành thạo, nhưng trông rất yếu vì mới đi bộ từ Trung Quốc về. Người ta đã dựng cho chúng tôi những cái lán tre có sàn cao và mái lợp lá cọ. Người ta còn giết một con bò để chiêu đãi, và chúng tôi được chén bữa tối gồm bia, cơm, măng rừng và beefsteak.
Cũng có những người trong nhóm Con nai không được chào đón. Ví dụ như trung uý Pháp Montfort. Sáng hôm sau, Hồ nói với Thomas: “Tôi không có vấn đề gì với người Pháp, nhưng nếu quân tôi mà biết tay này là người Pháp, họ đã bắn chết tươi rồi”. Montfort cùng hai sĩ quan Pháp nữa được lệnh biến khỏi làng càng sớm càng tốt và nhập vào đoàn người di tản sang Trung Quốc. Sau đó Hồ gọi một tay đầu bếp đến để dạy cách quay gà theo kiểu Mỹ, và sai người đi kiếm vài chai Sâmpanh và Dubonnet để mở tiệc chào mừng.
Ngay ngày hôm sau, Hồ đã đề nghị qua Thomas báo cáo với chính quyền Mỹ là Việt minh sẵn sàng đàm phán với đại diện cấp cao của Pháp. Patti đã chuyển thông điệp này cho thiếu tá Jean Sainteny, đại diện của phái bộ quân sự Nước Pháp Tự do mới được cử đến để tiếp nhận lại Đông dương sau chiến tranh. Vài ngày sau, Hồ lại gửi lời kêu gọi sẵn sàng tiếp xúc với Pháp ở trong Đông dương hoặc Trung quốc. Trong lời kêu gọi, Hồ đề nghị tổ chức nghị viện thông qua bầu cử phổ thông đầu phiếu, trả lại các nguồn tài nguyên cho nhân dân Việt nam, cấm buôn bán thuốc phiện, và cam kết phục hồi độc lập cho Việt nam theo những quy định của Hiến chương Lien Hiệp Quốc trong vòng từ 5-10 năm. Pháp vẫn lờ đi những đề nghị của Hồ.
Trong lúc đó các sĩ quan Mỹ vẫn tiếp tục huấn luyện hơn 100 quân du kích cách sử dụng các loại vũ khí Mỹ (súng trường M1, carbin, bazooka) và các kỹ thuật chiến tranh du kích tại một địa điểm cách Tân trào khoảng 2 dặm. Henri Prunier, một “thầy” Mỹ tỏ ra rất ấn tượng về khả năng học hỏi nhanh của quân du kích. Hồ cũng nhanh chóng đả thông về mặt tư tưởng cho các sĩ quan Mỹ. Thomas đã viết trong một báo cáo gửi về Côn minh: “Quên ngay mấy cái nghi ngờ vớ vẩn. Việt Minh không phải là cộng sản. Đấu tranh cho tự do và cải cách nhằm thoát khỏi sự tàn bạo của Pháp”. Phelan cũng đã từng ngần ngại tham gia chiến dịch này vì nghe đồn là Hồ có tư tưởng cộng sản. Một lần Hồ hỏi Phelan có nhớ những câu mở đầu của tuyên ngôn Độc lập Mỹ để ông ta cho vào bản tuyên ngôn Độc lập của đất nước mình. “Nhưng rõ ràng là ông ta biết nhiều hơn tôi” Phelan nhớ lại và báo cáo Việt Minh “... là những người yêu nước đáng được sự tin cậy và giúp đỡ toàn diện”. Sau này, Phelan cũng không bao giờ thay đổi lập trường của mình. Nhiều năm sau, ông đã trả lời phỏng vấn của nhà báo Mỹ Robert Shaplen, miêu tả Hồ như ´”Một con người cực kỳ dễ chịu. Nếu tôi phải chọn một tính cách của con người nhỏ bé đó, ngồi trên ngọn đồi trong những cánh rừng già, thì đó chính là sự dịu dàng của ông ta”.
Sức khôe của Hồ vốn đã suy sụp sau khi mắc bệnh lao trong những tháng ngồi tù ở Trung Quốc, lại bị đày đoạ bởi chuyến đi bộ sang Côn minh. Hồ đã bị ốm nặng trên đường đến Jingxi những vẫn tiếp tục hành trình của mình. Giờ đây Hồ đang rất yếu. Võ Nguyên Giáp kể lại:
Bác ốm. Mặc dù mệt và sốt, Bác vẫn tiếp tục làm việc. Ngày nào lên báo cáo tình hình tôi cũng cảm thấy lo lắng. Nhưng Bác nói: “yên tâm, mọi sự sẽ qua thôi, báo cáo tình hình cho Bác đi”. Tuy nhiên tôi nhận thấy Bác yếu đi và gầy đi rõ ràng. Chúng tôi chẳng có thuốc thang gì ngoài mấy viên aspirin và ký ninh nhưng tình hình vẫn xấu đi. Một hôm tôi thấy Bác mệt lả đi, bình thường trừ những lúc ngủ, Bác chắc bao giờ chịu nằm nhưng giờ đây Bác nằm sốt li bì trong ổ rơm. Trong những đồng chí hay ở bên Bác chỉ còn tôi lúc đó đang ở Tân trào. Tôi xin phép Bác được ở lại cùng với người một đêm, chỉ thấy Bác hơi mở mắt và khẽ gật đầu đồng ý. Đêm tối mịt mùng và rừng sâu bao quanh căn lán nhỏ. Mỗi khi tỉnh dậy, Bác lại quay lại tình hình hiện tại: “điều kiện đang rất thuận lợi cho cách mạng, dù có phải đốt cháy dãy Trường sơn cũng phải dành cho được độc lập”, Bác nhắc lại những quan điểm vẫn hay thường nói hàng ngày: “trong chiến tranh du kích, khi phong trào lên, phải tận dụng thời cơ để mở rộng căn cứ, chuẩn bị cho những thời điểm quyết định”. Dù không muốn tin, tôi vẫn nhận ra rằng, có lẽ Bác đang cố gắng truyền lại những lời di chúc cuối cùng của mình. Cứ thế suốt đêm, mê man nối tiếp những phút tỉnh táo. Sáng hôm sau, tôi báo tin ngay lập tức cho Trung ương, đồng thời hỏi bà con dân tộc xem có ai có bài thuốc gì. Dân làng mách có một ông lang chuyên chữa sốt. Tôi liền cử người đi đón về ngay. Sau khi bắt mạch, ông lang sắc một niêu thuốc từ một thừ rễ cây ông đào trong rừng, hoà với một bát cháo và đút cho Bác. Điều kỳ diệu đã xảy ra. Bác tỉnh dậy. Ngày hôm sau, Bác uống thêm 2, 3 bát thuốc nữa. Cơn sốt lui dần, Bác đã đứng dậy được và có thể tiếp tục công việc.
Về chuyện này, người Mỹ có một câu chuyện khác. Một nhân viên OSS là y tá. Anh này đã khám bệnh cho Hồ, chẩn đoán là sốt rét và ỉa chảy và đã tiêm mấy mũi kí ninh cùng với sulfa. Không rõ điều này có tác dụng đến đâu, Thomas ghi lại sau này: “Mặc dù Hồ bệnh nặng, nhưng tôi cũng không chắc chắn là nếu không có chúng tôi thì ông ta sẽ chết” . Viên y tá đã khám cho Hồ là Paul Hoagland thì một mực cho rằng chính thuốc của ông ta đã cứu sống Hồ Chí Minh.
Đầu tháng 8, sau khi nghe tin Mỹ thả bom nguyên tử xuống Hiroshima, Hồ đã chỉ thị cho tổng bộ Việt minh từ khắp nước ngay lập tức cử đại biểu về Tân trào để tham dự Quốc dân Đại hội. Ngày đại hội dự kiến là ngày 16/8. Hội nghị TƯ đảng lần thứ 9 được dự kiến họp trước đó 3 ngày. Qua chiếc radio của Thomas, Hồ cảm được cuộc chiến đã đến hồi kết: thành lập Liên hiệp quốc, Mỹ thả quả bom nguyên tử thứ hai, Nga trực tiếp tham chiến. Trước đó sau một hồi lưỡng lự, Hồ đã đồng ý đi gặp phong trào Nước Pháp tự do tại Côn minh. Có lần Hồ đã ra đứng đợi ở đường băng nhưng vì thời tiết xấu máy bay không hạ cánh được. Sau sự kiện Hiroshima, Hồ đã huỷ bỏ ý định này.
Ngày 12/8, các lãnh đạo Đảng đã quyết định kêu gọi tổng khởi nghĩa trong toàn quốc, và quyết định vẫn triệu tập Hội nghị TW lần thứ 9 vào ngày hôm sau mặc dù một số đại biểu vẫn chưa đến được. Hội nghị đã bầu ra Uỷ ban khởi nghĩa toàn quốc do Trường Chinh làm chủ tịch và ra lời hiệu triệu khởi nghĩa. Ngày 16/8 Tổng bộ Việt minh tiến hành Đại hội Quốc dân tại Tân trào. Có hơn 60 đại biểu từ khắp nước về dự. Có người đã phải đi hàng tuần. Nhiều người mang theo quà là gạo và thịt. Một đại biểu dân tộc còn dắt theo cả một con trâu. Đại hội được tiến hành trong một ngôi đình 3 gian bên bờ suối. Gian trái treo ảnh Lenin, Mao và tướng Clair Chennault, gian giữa bày các vũ khí chiếm được của Nhật còn gian phải là thư viện kiêm luôn nhà ăn của các đại biểu. Sau khi Trường Chinh khai mạc, Hồ Chí Minh lên phát biểu. Do Ban tổ chức chỉ giới thiệu Hồ Chí Minh như một nhà cách mạng lão thành nên nhiều đại biểu cũng không rõ nhân thân của Hồ. Tuy nhiên sau đó đã có tiếng thì thầm, Hồ Chí Minh chính là Nguyễn ái Quốc.
Trong bài phát biểu của mình, Hồ nhắc lại việc phải nhanh chóng chiếm chính quyền để có thể chào đón quân đồng minh trên thế mạnh. Tránh đối đầu mà dùng biện pháp mềm dẻo để thu phục quân Nhật. Hồ cũng cảnh báo rằng Pháp có thể dựa vào Đồng minh để mở cuộc tiến công chiếm lại Đông dương và chúng ta sẽ phải tiến hành cuộc đấu tranh kéo dài để có được nền độc lập hoàn toàn. Đại hội đã phê duyệt “10 quốc sách” của Việt minh, quyết định quốc kỳ, quốc ca của nước Việt nam Dân chủ Cộng hoà, một quốc gia dân chủ, theo đuổi sự công bằng kinh tế và xã hội. Đại hội cũng bầu ra Uỷ ban giải phóng Dân tộc gồm 5 người do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch, sẽ chỉ đạo khởi nghĩa và hoạt động như chính phủ lâm thời. Ngày hôm sau, Hồ Chí Minh đã cùng các đại biểu làm lễ tuyên thệ ngay trên bờ suối. Bản “Kêu gọi khởi nghĩa” được phát ra Giờ quyết định cho dân tộc đã điểm. Hãy đứng lên giải phóng bản thân mình. Các dân tộc bị áp bức trên thế giới đều đang đua tranh giành lại độc lập, chúng ta không thể lạc hậu. Tiến lên, Tiến lên dưới ngọn cờ Việt minh, Dũng cảm tiến lên. " Đây cũng là văn bản cuối cùng được ký tên NGUYỄN ÁI QUỐC.
. Những ngày tháng 8
Ngày 14/8, tiếng súng chiến tranh lặng im trên toàn châu Á. Nhật đã đầu hàng và tướng Mc Carthur bay đến vịnh Tokyo để ký kết các điều kiện đầu hàng với Hoàng gia Nhật bản trên chiến hạm Missouri. Từ các căn cứ địa của mình trên vùng rừng núi Tân trào, Việt minh bắt đầu hành động. Ngày 16, cùng ngày với Đại hội quốc dân, các đơn vị của Giáp do nhóm Con nai hộ tống bắt đầu tiến về phía Nam. Lác đác tại một số vùng nông thôn Bắc bộ, nơi nạn đói và lụt lội đã cướp đi sinh mạng của hơn 1 triệu người trong nửa năm đầu, dưới sự chỉ đạo của các hội Việt minh địa phương, nông dân đã nổi dậy cướp chính quyền, phá kho thóc và thành lập các Uỷ ban giải phóng nhân dân địa phương.
Ngày 19/8 tại Thái nguyên, khi quân của Giáp ăn mặc chỉnh tề tiến vào thành phố và được nhân dân nhiệt liệt chào đón, lực lượng bảo an và các quan chức chính phủ lâm thời của Trần Trọng Kim đã nhanh chóng đầu hàng. Tuy nhiên quân Nhật đồn trú đã kiên quyết kháng cự. Được tin, TƯ đã ra lệnh cho Giáp chỉ để lại một đơn vị nhỏ, còn lại tiến thẳng về thủ đô. Tình hình cũng xảy ra tương tự ở Tuyên quang.
Ở Hà nội, tin Nhật sắp đầu hàng được rỉ tai nhau từ ngày 11/8. Cơ quan đảng dưới sự chỉ đạo của Nguyễn Khang đã tích cực chuẩn bị cho khởi nghĩa cướp chính quyền từ tay quân Nhật. Họ đợi ngày này đã lâu. Mặc dù chỉ có khoảng hơn 50 đảng viên ở trong thành phố, đảng đã tổ chức được hàng ngàn người bất mãn với chính quyền hiện tại vào các Hội cứu quốc của Việt minh. Tại ngoại ô, nông dân được huy động để sẵn sàng tràn vào thành phố hỗ trợ cuộc khởi nghĩa.
Tình hình kinh tế ở Hà nội cũng có lợi cho cách mạng. Đồng bạc đông dương bị mất giá thảm hại, chỉ trong mấy tháng giảm từ 0.25 $ xuống còn 0.10. Chi phí sinh hoạt tăng 30 lần so với trước chiến tranh. Các tầng lớp trung lưu bắt đầu có cảm tình với Việt minh, nhiều người bí mật mua trái phiếu Việt minh. Trong hai tuần đầu tháng 8, đảng tìm cách cài người vào các đơn vị quân đội đóng trong thành phố và thiết lập quan hệ với đại diện của triều đình ở Bắc bộ Phan Kế Toại (ông này có con tham gia Việt minh). Ngày 13/8, Toại gặp Nguyễn Khang và khuyên Việt minh tham gia thành lập chính quyền cùng Bảo đại để đón tiếp quân đồng minh. Khang từ chối và đề nghị Bảo đại thoái vị nhường chính quyền cho chính phủ cộng hoà. Toại hứa sẽ truyền đạt thông điệp đó cho triều đình. Cùng ngày, tại Huế Trần Trọng Kim xin từ chức vì bất lực trước tình hình (ông này trước đây là nhà sử học) và trao quyền lại cho một chính phủ lâm thời. Các phần tử không cộng sản ở Hà nội đã thành lập ra Uỷ ban cứu quốc, tự xưng là đại diện cho chính phủ lâm thời mới này.
Ngày 15/8 sau khi Tokyo ký văn bản đầu hàng, quân Nhật tại Hà nội ngay lập tức bàn giao quyền lực cho chính quyền lâm thời. Xứ uỷ Bắc kỳ họp khẩn cấp tại Hà đông trước tình hình mới. Mặc dù chưa có chỉ thị gì từ Tân trào, cuộc họp vẫn quyết định tổng khởi nghĩa tại các tỉnh thuộc đồng bằng Bắc bộ, tiến tới giải phóng thủ đô. Nguyễn Khang được giao chỉ huy Uỷ ban khởi nghĩa vũ trang gồm 5 người. Tối ngày 16/8, người Hà nội phấp phỏng chờ đón số phận của mình. Ánh đèn rực rỡ từ những khung cửa sổ khách sạn đối lập với màn đêm đen đặc và những ngọn đèn đường tù mù vì sợ bị oanh tạc. Tại một rạp chiếu bóng gần hồ Hoàn Kiếm bỗng vang lên những tiếng súng lục, Việt minh chiếm sân khấu và kêu gọi khởi nghĩa. Một sí quan Nhật chạy ra ngoài lập tức bị bắn chết, nằm trên đường mấy tiếng đồng hồ không ai thèm ngó tới. Ngày 17, Hội đồng tư vấn Bắc bộ, một tổ chức bù nhìn do Pháp lập ra cách đây 2 thập kỷ, họp tại Toà Thống sứ. Thành viên của Hội đồng này chủ yếu là thành viên của đảng Đại Việt và cũng chiếm chân trong Uỷ ban cứu quốc vừa được thành lập 4 ngày hôm trước. Hội đồng quyết định kêu gọi cuộc biểu tình của dân chúng để ủng hộ Bảo đại. Trưa ngày 17, trong lúc Hội Đồng còn đang họp, các đảng phái thân chính phủ lâm thời của Trần trọng Kim đã tổ chức một cuộc miting lớn với gần 20000 người tham dự ngay trước cửa Nhà hát Lớn. Khi cuộc miting còn đang diễn ra, các phần tử võ trang Việt minh đã nhảy lên cướp khán đài, giật cờ triều đình, treo cờ đỏ sao vàng. Nguyễn Khang đã lên phát biểu kêu gọi quần chúng ủng hộ Việt minh giành lại độc lập cho dân tộc. Cuộc miting đã kết thúc trong hỗn loạn, dòng người đội mưa tiến về Bắc bộ phủ, Toà Thống sứ và khu phố cổ.
Trong khi đó, dưới sự chỉ huy của Uỷ ban khởi nghĩa vũ trang, nông dân các làng ngoại ô đã chiếm chính quyền và tổ chức thành các đơn vị dân quân với giáo mác và vài khẩu súng kíp, sẵn sàng tràn vào nội thành vào sáng hôm sau. Đêm 17, là một đêm mùa hè nóng nực. Các lãnh đạo Đảng bí mật họp tại một địa điểm ngoại ô và quyết định khởi nghĩa vào ngày 19/8. Họ ước tính có khoảng 100,000 người hay 1/2 dân số nội thành ủng hộ Việt minh, thêm vào đó là các đơn vị dân quân ở ngoại ô sẵn sàng tiếp viện. Trong ngày 18, vũ khí sẽ được tuồn vào và các đội xung kích sẽ án ngữ các vị trí quan trọng. Đêm ngày 18, các uỷ viên Việt Minh lặng lẽ đột nhập Hà nội.
Rạng sáng chủ nhật, ngày 19/8. Dòng người từ các huyện Thanh trì, Thường tín, Phú xuyên, cuồn cuộn đổ vào thành phố hoà cùng với công nhân, sinh viên, tiểu thương và các công chức tò mò, bắt đầu tụ tập trước quảng trường Nhà hát Lớn. Đàn ông mặc áo nâu, đi dép cao su, đàn bà áo nâu, chít khăn mỏ quạ, đi giày cỏ. Rợp trời cờ đỏ sao vàng.
Cuộc diễu hành bắt đầu bằng phút mặc niệm các chiến sĩ đã ngã xuống vì độc lập dân tộc. Dàn nhạc chơi giai điệu mới “Đoàn quân Việt nam đi”, các lãnh đạo Việt minh tuyên bố lệnh Tổng khởi nghĩa. Đoàn người chia làm nhiều ngả chiếm Bắc bộ phủ, Dinh Toàn quyền, Trụ sở bảo an và các địa điểm quan trọng khác. Họ hầu như không gặp sự chống đối nào, ngoại trừ một chút khó khăn ở Bắc bộ phủ. Sau khi đàm phán, quân Nhật tuyên bố sẽ không can thiệp. Uỷ ban cứu quốc bù nhìn hoàn toàn bị tan rã. Đến cuối ngày, toàn
bộ thành phố đã nằm trong tay quân khởi nghĩa. Đoàn diễu hành đi khắp các phố hát vang những bài ca cách mạng và hô khẩu hiệu đòi độc lập dân tộc. Chắc chắn là rất ít người trong số họ hiểu Việt minh là ai và tại sao lại có thể đại diện cho dân tộc. Tuy nhiên, cuộc chiến tranh Thái bình dương đã kết thúc và viễn cảnh được đá đít Pháp cũng đã đủ để ăn mừng.
Ngay trong đêm 19, lãnh đạo Xứ uỷ gửi chỉ thị đi khắp nơi: “Hành động như Hà nội, nếu quân Nhật kháng cự, hãy tiêu diệt, dành chính quyền bằng mọi giá”. Làn sóng khởi nghĩa mau chóng lan rộng và đến ngày 22/8, cờ đỏ sao vàng đã bay khắp các tỉnh Bắc bộ và Bắc Trung bộ. Quân Nhật ở Thái nguyên cũng đồng ý hạ vũ khí vào sáng hôm sau. Tình hình miền Trung, đặc biệt ở Huế có vẻ phức tạp hơn. Do không có vùng giải phóng để huy động lực lượng, thông tin từ Tân trào thì phải hàng mấy ngày mới đến, dân nội thành thì toàn là công chức và quan lại, không có đông công nhân, tiểu thương, sinh viên, chi bộ Đảng ở đây chủ yếu phải dựa vào những chỉ thị từ hội nghị tháng 3 để chuẩn bị lực lượng trong các làng ngoại ô. Ngày 21/8, Hà nội gửi điện yêu cầu Bảo đại thoái vị. Nhà cách mạng, nhà thơ trẻ Tố Hữu được phái vào kích động phong trào. Sáng 22/8, hơn 100,000 tụ tập trước cửa Ngọ môn để chứng kiến Uỷ ban khởi nghĩa chiếm chính quyền mà không gặp phải sự kháng cự nào của quân Nhật.
Nam bộ tỏ ra khó khăn hơn đối với Việt minh. Sau thất bại của cuộc khởi nghĩa Nam kỳ, tất cả các lãnh đạo Đảng hoặc chết hoặc đang ở trong trại giam. Các đảng phái dân tộc chủ nghĩa mọc ra như nấm dưới sự cai trị của Nhật, hô hào khẩu hiệu nhái theo học thuyết Monroi: “Châu á của người châu á”. Chính quyền Pháp thì bám vào tầng lớp thị dân Sài gòn và một số thành phố thuộc đồng bằng sông Cửu long. Trong hoàn cảnh đó, cựu học viên của trường Stalin, Trần Văn Giàu, sau khi trốn khỏi nhà tù, quyết định xây dựng lại từ đầu.
Vì mất liên lạc với TƯ, xứ uỷ Nam kỳ quyết định hành động theo chỉ thị của Hội nghị 6 năm 1939, kêu gọi chuẩn bị lực lượng để tổng khởi nghĩa. Không có rừng núi như Việt bắc làm chiến khu, Giàu tập trung nỗ lực vào khu đô thị Sài gòn - Chợ lớn, cùng lúc xây dựng phong trào tại các vùng nông thôn. Giàu thường lấy những ngươi thiểu số Bônsevic, nhờ huấn luyện kỹ đã dành được chính quyền, để động viên tinh thần anh em.
Đầu năm 1945, Đảng đã điều khiển được hoạt động của hơn 70 tổ chức công đoàn gồm gần 3000 công nhân. Sau cuộc đảo chính tháng 3, lợi dụng tình hình nhốn nháo, Đảng thừa cơ nắm quyền lãnh đạo tổ chức Thanh niên Tiền phong do Nhật dựng lên. Dưới sự lãnh đạo của Phạm Ngọc Thạch (con trai ông Phạm Ngọc Thọ, người đã từng gặp Hồ ở Quy nhơn khi Hồ trốn vào nam năm 1908), tổ chức này đã phát triển nhanh chóng, và đến tháng 8 năm 1945 đã có hơn 1 triệu thành viên ở tất cả các tỉnh của Nam bộ. Ngày 14/8, Nhật chuyển giao quyền lực. Thừa cơ, ngày 16, khi Sứ thần của Bảo đại là Nguyễn Văn Sâm chưa đến nơi, các phần tử dân tộc không cộng sản lập ra Mặt trận Quốc gia Thống nhất, chiếm lấy chính quyền. Cũng lúc đó, ngày 14 Giàu đã họp các đồng chí của mình để chuẩn bị khởi nghĩa. Tuy nhiên, từ kinh nghiệm cay đắng năm 1940, nhiều người do dự vì Việt minh không có vũ khí để vũ trang cho dân quân và Thanh niên Tiền Phong. Thêm vào đó, họ cũng chẳng có thông tin gì về kế hoạch của các đồng chí phía Bắc. Cuối cùng cuộc họp quyết định khởi nghĩa “thử” ở một số xã nông thôn, rồi sẽ xem tiếp. Cuộc thử nghiệm đã diễn ra suôn sẻ ở Tân An, một thị trấn nhỏ phía Nam Sài gòn. Ngày 20, sau khi nghe tin Hà nội thành công, Giàu đã yêu cầu Mặt trận Quốc gia từ chức vì quá dính líu với Nhật, chắc chắn sẽ không được Đồng minh chấp nhận. Giàu thông báo chỉ có Việt minh mới được sự hỗ trợ hoàn toàn của Đồng minh. Đang hoang mang, Mặt trận lại được tin Bảo đại đã gửi điện đề nghị Hà nội lập chính phủ cộng hoà thay thế Trần Trọng Kim, cả hội vội vàng giải tán. Ngay lập tức Giàu thành lập Uỷ ban Nam bộ do chính ông làm chủ tịch, triệu tập cuộc họp Xứ uỷ, quyết định khởi nghĩa vào ngày 25.
Sáng 25, các đội xung phong chiếm các trụ sở và nhà máy. Nông dân rầm rập tiến vào từ ngoại ô, hô vang khẩu hiệu: “Đả đảo đế quốc, đả đảo thực dân, Việt nam của người Việt nam, Tất cả chính quyền cho Việt minh. Tuy Việt minh tránh đối đầu với quân Nhật, vẫn xảy ra những cuộc đụng độ với người châu Âu. Đã xảy ra một số vụ thảm sát người châu Âu trên đường phố Sài gòn. Chiều ngày 25, Uỷ ban Nam bộ với 6 thành viên là Việt minh đã tuyên thệ nhậm chức chính quyền tạm thời. Đài Việt minh thông báo: “Khởi nghĩa đã thắng lợi tại thành phố Hồ Chí Minh"
Ngày 22/8 Hồ Chí Minh rời Tân trào, tối hôm đó Hồ đến Thái nguyên, nghỉ đêm và tiếp tục theo đường số 3 xuôi về Hà nội. Sáng 25, Giáp, Trần Đăng Ninh đón và báo cáo tình hình với Hồ tại làng ngoại ô Ga. Trưa hôm đó, Trường Chinh chở Hồ qua cầu Long biên đến thẳng tầng trên cùng của một ngôi nhà 3 tầng trên phố Hàng Ngang. Sau 55 năm, Hồ Chí Minh đã có mặt tại Hà nội. Ngày hôm sau, Hồ chuyển xuống tầng 2 vốn là tầng để ăn, ở cùng với Giáp, Ninh. Hồ làm việc với một cái máy chữ cũ trên bàn ăn và ngủ trên giường xếp, Giáp và Ninh thì ngủ trên chõng và 2 chiếc ghế xếp lại. Đối với hàng xóm, họ chỉ là những họ hàng từ quê ra.
Ngay buổi trưa đến Hà Nội, Hồ đã triệu tập Uỷ ban thường vụ TƯ để bàn việc ra mắt chính phủ lâm thời. Hồ đề nghị mở rộng thành phần chính phủ được bầu ở Tân trào, nhấn mạnh lễ ra mắt phải được tổ chức trước càng đông dân chúng càng tốt. Tất cả mọi việc đều phải hoàn thành trước khi quân Đồng minh vào đến Hà nội. Theo quy định của Hội nghị Postdam, quân Tưởng sẽ tiếp quản miền Bắc, còn quân Anh sẽ tiếp quản Nam bộ. Người Pháp chỉ được tham gia các hoạt động nhân đạo. Trong lúc đại quân còn chưa kịp đến thì những đơn vị OSS tiền tiêu do Archimedes Patti chỉ huy đã đến Hà nội để tiếp nhận tù binh và đánh giá tình hình. Sainteny, đại diện của phong trào Nước Pháp Tự do đã xin đi theo với lý do để bảo vệ những người Pháp bị kẹt lại. Cả hội ở khách sạn Metropole sang trọng, ngay đối diện toà nhà Bắc bộ phủ. Trưa ngày 26, Patti bất ngờ được mời đến gặp Hồ tại số nhà 48 Hàng Ngang. Sau khi chén súp cá, gà và lợn luộc cả hai đã đàm đạo khá lâu về tình hình hiện tại. Hồ hết sức bất mãn về sự có mặt của quân Pháp trong đoàn Patti. Ông cho rằng mục tiêu của hội này chắc chắn không phải chỉ là lo lắng cho người Pháp ở đây. Quân Anh thì hiển nhiên là sẽ thông đồng với Pháp, còn Tưởng thì chẳng có lý gì lại không bán đứng Việt nam vì lợi ích của mình. Hồ thăm dò thái độ của Mỹ, phủ định tin đồn về nguồn gốc cộng sản của mình, biện hộ rằng sở dĩ mình phải đến Matxcova và chơi với cộng sản Trung hoa là do hoàn cảnh đưa đẩy. Patti thì chẳng hứa hẹn gì, nói rằng mình không có thẩm quyền bàn về các vấn đề chính trị địa phương. 3h30, Patti xin phép về nhà mình tại Maison Gautier, một vila sang trọng cạnh hồ Hoàn kiếm. Lúc đó, Hồ được tin là Sứ thần Bảo đại ở Nam bộ là Nguyễn Văn Sâm đã xin triều đình từ chức. Về đến nhà, Patti đã thấy Sainteny gửi giấy hẹn sang nói chuyện. Thừa biết là Patti đã có quan hệ với Hồ, Sainteny đề nghị Patti môi giới cuộc gặp gỡ với Việt minh. Chiều hôm đó, Patti được thông báo là Giáp sẽ đến gặp Sainteny và Patti vào sáng hôm sau. Rõ ràng là Giáp muốn có những người bạn Mỹ bên cạnh trong lần tiếp xúc đầu tiên với đại diện của Pháp. Hôm sau, Giáp đến trong bộ lễ phục trắng, và ngay lập tức được Sainteny huấn thị về việc Việt minh đã lơ là trong việc bảo vệ luật pháp, trật tự và tính mạng của những người Pháp. Giáp đáp lại, tôi đến đây không phải để giải thích các hành động của người Việt mà để tiếp xúc với đại diện của một nước Pháp “mới”. Sainteny xuống giọng, hứa sẽ xem xét các yêu cầu của người Annam, tuy nhiên cũng doạ thêm là nếu không dựa vào Pháp, Việt nam sẽ bị Tàu Tưởng làm cỏ.
Trong khi Hồ bắt đầu cuộc thương lượng đầy sóng gió với Pháp về số phận mới của Việt nam, chính phủ Việt minh tiếp tục thương lượng với triều đình Huế. Ngày 20, Bảo Đại đồng ý từ chức, kêu gọi Hà nội thành lập chính phủ mới. Việt minh quyết định đẩy nhanh tiến độ bằng cách gửi đoàn đại biểu gồm Hoàng Quốc Việt, Nguyễn Lương Bằng và Trần Huy Liệu vào ngày 29 yêu cầu Bảo đại thoái vị. Ngày hôm sau, đoàn gặp Bảo đại. Nhà vua tiến hành nghi lễ thoái vị, chiều hôm đó, lại lặp lại nghi lễ trước cổng Ngọ môn. Sau khi nhận ấn kiếm, Liệu chuyển lời của Hồ Chí MInh mời Bảo đại ra Hà nội tham gia vào chính phủ với tư cách một công dân. Bảo đại đồng ý dù đây là lần đầu tiên nghe thấy cái tên Hồ Chí Minh mà ông ta có thể phần nào đoán ra đó chính là nhà cách mạng lão thành Nguyễn Ái Quốc. Không khí buổi lễ thoái vị có vẻ hội hè chứ không có ý gì ép buộc. Tuy nhiên không ít quan lại triều đình cảm thấy ngậm ngùi khi phải chứng kiến cảnh vị vua cuối cùng của Việt nam rời khỏi ngai vàng. Một số các cận thần của Bảo đại không được may mắn như nhà Vua. Phạm Quỳnh và Ngô Đình Khôi bị bắt và bị đưa ra Hà nội sau đó bị thủ tiêu. Ở Quảng ngãi, Tạ Thu Thâu, người theo chủ nghĩa Troskist và thường xuyên công kích Đảng CS Đông Dương cũng nhận được số phận tương tự.
Ngày 28, Hồ triệu tập cuộc họp của Uỷ ban giải phóng dân tộc (sẽ nhanh chóng trở thành chính phủ lâm thời) tại toà nhà Bắc bộ phủ để bàn về thành phần chính phủ và xem xét nội dung của bản Tuyên ngôn Độc lập mà Hồ đã chuẩn bị và đánh máy trong căn phòng tối tăm ở phố Hàng ngang. Sau này Hồ kể lại “đó là thời điểm hạnh phúc nhất của đời tôi”.
Trên cuộc họp, Hồ đã đề xuất mở rộng thành phần để có thể có đại diện rộng rãi nhất của dân chúng trong chính phủ và đã được nhiệt liệt hoan nghênh. Một số thành viên Việt minh đã tình nguyện từ chức để nhường chỗ cho các đảng phái khác. Hai ngày sau, Hồ tuyên bố thành phần chính phủ mới: ngoài chức danh Chủ tịch, Hồ Chí MInh còn kiêm bộ trưởng ngoại giao, Võ Nguyên Giáp làm bộ trưởng bộ Nội vụ, Phạm Văn Đồng làm bộ trưởng bộ Tài chính, Chu Văn Tấn làm bộ trưởng Bộ quốc phòng, Trần Huy Liệu làm bộ trưởng bộ Tuyên truyền. Khoảng một nửa thành viên chính phủ là Việt minh, ngoài ra là từ đảng Dân chủ (thành lập 1944), một số giáo chức thiên chúa và các thành viên phi đảng phái.
Mấy ngày sau đó, Hồ làm việc ở văn phòng nhỏ tại Bắc bộ phủ để trau chuốt lại bản Tuyên ngôn, Hồ cũng chuyển sang ở một vila tại Rue Bonchamps nhưng vẫn về ăn với các đồng chí tại Hàng Ngang. TƯ đã quyết định lễ Độc lập sẽ được tổ chức tại quảng trường Puginier, mang tên của một giáo sĩ Pháp mà sau này sẽ được đổi thành Ba đình theo đề nghị của Hồ để kỷ niệm ba làng ở Thanh hoá đã nổi lên chống Pháp ở cuối thế kỷ 19.
Từ sáng ngày 2/9, Hà nội đỏ rực cờ hoa và biểu ngữ. Cờ đỏ chảy từ mái nhá, bay trên các ngọn cây, trôi trên mặt hồ. Khẩu hiệu: “Đả đảo thực dân Pháp”, “ủng hộ chính phủ lâm thời”, “ủng hộ chủ tịch Hồ Chí Minh” “Chào mừng Đồng minh” bằng đủ các thứ tiếng Việt, Nga, Hoa, Pháp, Anh giăng khắp nơi. Xưởng máy, cửa hàng, chợ búa trống trơn, tất cả xuống đường. Đoàn người đủ màu sắc đổ về Ba đình. Chính giữa quảng trường, đội cận vệ đứng nghiêm trong nắng hè chói chang, bảo vệ một khán đài bằng gỗ mới dựng lên hôm trước, dự kiến sẽ là nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh giới thiệu chính phủ và đọc bản Tuyên ngôn độc lập.
Buổi lễ dự kiến bắt đầu lúc 2h nhưng Hồ đến chậm mấy phút do đoàn xe Mỹ chở phải khó khăn lắm mới vượt qua được biển người. Giáp là người dẫn chương trình, giới thiệu Hồ Chí Minh. Bài nói của Hồ ngắn nhưng xúc động:
“Tất cả sinh ra đều bình đẳng. Tạo hoá đã cho họ những quyền không thể tách rời, trong đó có quyền Sống, quyền Tự do và quyền Mưu cầu Hạnh phúc”. Câu nói bất hủ đó trích trong Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ năm 1776. Nói rộng ra điều đó có nghĩa là tất cả các dân tộc trên trái đất bình đẳng từ lúc ra đời. Tất cả các dân tộc đều có quyền sống và được hưởng tự do và hạnh phúc. Tuyên ngôn Nhân quyền của Cách mạng Pháp 1789 cũng đã nhấn mạnh “Mọi người sinh ra đều tự do và bình đẳng và mãi mãi sẽ tự do và bình đẳng”
Sau đó Hồ Chí Minh miêu tả những đau khổ mà chế độ thực dân Pháp đã gây ra cho Việt nam, và cuối cùng người Việt nam đã phải đứng lên đánh đuổi Pháp dành lại độc lập dân tộc. Hồ kết luận “Việt nam có quyền được hưởng tự do, độc lập và thực sự đã trở thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể nhân dân Việt nam sẽ huy động tất cả sức mạnh vật chất và tinh thần, sẵn sàng hy sinh tính mạng và của cải để bảo vệ tự do và độc lập của mình”. Giữa bài nói của mình, Hồ đã dừng lại hỏi “Tôi nói đồng bào có nghe rõ không?”. Hàng triệu người đã reo lên “Có”, theo lời Giáp kể.Sau khi chính phủ tuyên thệ độc lập, đám đông bắt đầu giải tán trong tiếng gầm rú của phi đội P-38 của Mỹ bay chào mừng. Cùng ngày hôm đó, lễ độc lập được tổ chức tại tất cả các đền, chùa và nhà thờ thiên chúa giáo.
Tối đó, Hồ Chí Minh tiếp đại diện của các tỉnh . Khoảng 15.000 dân Pháp sống ở Hà nội lúc đó quan sát sự kiện này với sự lo lắng ra mặt. Họ lẳng lặng chuẩn bị vũ khí và thực phẩm cho những ngày khó khăn sắp tới. 5000 quân Pháp bị giam ở Hoả lò cũng âm thầm chuẩn bị nổi dậy khi quân đội của Nước Pháp Tự do theo Đồng minh tiến vào Đông dương.
Sáng 3/9, chính phủ họp phiên đầu tiên ở Bắc bộ phủ để thảo luận chiến lược hoạt động, dựa trên “10 chính sách” mà Quốc dân Đại hội đã vạch ra ở Tân trào. Trong bài khai mạc, Hồ Chí Minh nhấn mạnh mục tiêu quan trọng nhất của chính phủ là đẩy lùi nạn đói. Mặc dù vụ đông xuân có một số tiến bộ, nhưng nạn lụt vào tháng 8 đã đẩy các tỉnh Bắc bộ vào tình cảnh hết sức khó khăn. Sản lượng lúa của 15 tỉnh Bắc bộ chỉ là 500,000 tấn so với 832,000 tấn của năm 1944. Sinh viên các trường đại học phải lập những đội tình nguyện đi thu nhặt xác chết vào mỗi buổi sáng sớm. Một loạt các biện pháp được thông qua. Đầu tiên là thực thi tiết kiệm. Hồ Chí Minh tự nguyện 10 ngày nhịn ăn 1 ngày để giúp người nghèo. Đất công, thường chiếm khoảng 20% đất canh tác ở làng, được trưng thu để chia đều cho dân nghèo từ 18 tuổi trở lên. Cấm sản xuất bún và nấu rượu. Giảm và miễn thuế nông nghiệp. Mở các trạm tín dụng nông nghiệp tại xã. Đẩy mạnh khai hoang. Theo đề nghị của Hồ Chí Minh, chính phủ còn quan tâm đến một số vấn đề quan trọng khác trong đó có việc xoá mù chữ.
Theo đánh giá, chính sách giáo dục thiển cận của Pháp đã đẩy một dân tộc thường xuyên có tỉ lệ biết chữ cao ở châu á xuống mức 90% mù chữ vào năm 1945. Chính phủ ra sắc lệnh yêu cầu tất cả người Việt nam phải học đọc và viết chữ quốc ngữ trong vòng 1 năm. Sắc lệnh mang hơi hướng của Nho giáo viết: “Ai chưa biết phải học. Vợ học chồng. Em học anh. Già học trẻ. Bố mẹ học con. Tất cả đều phải học chăm chỉ hơn”. Các lớp xoá mù được mở khắp nơi, đền chùa, chợ búa cũng biến thành trường. Đến mùa thu năm 1946, hơn 2 triệu người Việt nam đã được xoá mù chữ.
Ngày 8/9, Chính phủ quyết định tổ chức Tổng tuyển cử trong 2 tháng tới để bầu ra quốc hội lập pháp có khả năng thông qua hiến pháp mới. Ngày 13/10 ban bố sắc lệnh về việc thành lập các hội đồng nhân dân tại địa phương thông qua bầu cử. Các chính sách kinh tế của chính phủ chủ yếu là miễn giảm thuế, nâng cao điều kiện lao động và cấp đất cho người nghèo. Không có quốc hữu hoá hoặc cải cách ruộng đất. Chỉ có đất của người Pháp và những kẻ cộng tác mới bị tịch thu. Chính sách này phù hơp với các tuyên bố của Hồ Chí Minh trước đó về cách mạng 2 giai đoạn, khi dành được chính quyền, ưu tiên đầu tiên của ông là thành lập chính phủ có khả năng đoàn kết rộng rãi các tầng lớp dân chúng, tập hợp được sức mạnh để đối phó với đe doạ ngoại xâm. Tuy nhiên đây đó vẫn xảy ra những hiện tượng quá khích, các phần tử địa chủ, quan lại bị thanh toán, đền chùa bị đập bỏ, nhân dân bị cấm không được tiến hành các nghi lễ phong tục, tập quán.
Trong khi Hồ đang trau chuốt những nét bút cuối cùng cho bản tuyên ngôn độc lập, những đơn vị quân Tưởng đầu tiên đã bắt đầu tiến vào Việt nam. Vào phút cuối, Tưởng đã đổi ý, không dùng Trương Phát Khuê mà sử dụng quân đoàn 1 của Lư Hán ở Vân Nam để tiến vào Hà nội. Tiêu Văn, người đỡ đầu cũ của Hồ trong Việt nam cách mạng đồng minh Hội ở Lưu châu trước đây được cử làm chính uỷ. Các bọn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh cũng được dịp bám theo. Đội quân 180,000 này rõ ràng không phải là lực lượng tốt nhất của Quốc dân đảng. Dân Việt nam thì chỉ thấy một đội quân bệ rạc, áo quần bẩn thỉu, chân thì phù thũng, dắt díu theo cả họ hàng hang hốc. Patti miêu tả trong hồi ký của mình:
Quân Tưởng của Lư Hán tiến vào thành phố lúc ban đêm. Chúng tôi nghe rõ tiếng bước chân, tiếng động cơ rồi tiếng quát tháo. Sáng hôm sau, đập vào mắt chúng tôi là một cảnh tượng gây sốc. Các đơn vị “tinh nhuệ” hôm qua (các đơn vị tiền tiêu) đã biến thành đội quân “thổ phỉ ”. Khắp phố là cảnh hỗn loạn, lính Tàu đi lại lang thang vô mục đích. Trên các hè phồ, lề đường, vườn hoa, ngổn ngang quân lính và người thân, các dụng cụ gia đình lẫn lộn với quân trang quân dụng. Một số đám đun chè uống, xếp đồ đạc, thậm chí giặt giũ
Đối với Hồ Chí Minh, bề ngoài của đội quân này không quan trọng bằng mục đích của nó. Mặc dù Tưởng đã hứa với Roosevelt tại Hội nghị Cairo 1943 là không hề có ý định dòm ngó Việt nam, hiển nhiên là Trung Quốc muốn duy trì một chế độ mà mình có thể ảnh hưởng. Thái độ của quân Tưởng đối với Pháp khi Pháp quay trở lại tiếp quản Đông dương cũng là điều Hồ bận tâm, Trương Phát Khuê kịch liệt chống Pháp nhưng cũng không loại trừ một số kẻ thoả hiệp để bảo vệ quyền lợi của mình. Trong hội nghị TƯ vào giữa tháng 8, Hồ đã tập trung phân tích những vấn đề liên quan phức tạp liên quan đến quân Đồng minh, khai thác sự mâu thuẫn giữa chúng để bảo vệ độc lập. Hồ cho rằng 2 đối tượng nguy hiểm nhất là Pháp và Tưởng. Pháp chắc chắn muốn chiếm lại Việt nam. Tưởng cũng vậy, nếu không được thì cũng sẽ cố gắng dựng lên một chính phủ thân Tưởng ở Hà nội. Hồ dự đoán, một là Mỹ và Tưởng có thể ở một bên, còn Anh ủng hộ Pháp để chiếm lại VN, chính phủ mới có thể lợi dụng sự mâu thuẫn này. Hai là, các nước đồng minh thống nhất chĩa mũi dùi sang Liên xô, khi đó Mỹ, Anh sẽ đều quay sang ủng hộ Pháp vào Việt Nam. Trong mọi điều kiện VN, phải cố gắng tránh đối đầu một mình. Đối với Pháp, tránh đụng độ vũ trang, nhưng kiên quyết huy động quần chúng chống lại Pháp khôi phục cai trị. Đối với Anh, Tưởng, phát triển quan hệ hữu hảo, nếu bị can thiệp vào công việc, dùng quần chúng để đòi độc lập. Dựa trên chính sách đó, chính phủ mới ở Việt Nam đã hết sức mềm dẻo với Tưởng.
Khi người bảo trợ cũ là Tiêu Văn đến Hà Nội, Hồ Chí Minh đã đích thân hứa phát triển mối quan hệ hữu hảo. Giáp đổi tên Giải phóng quân thành Vệ quốc quân, rút một số đơn vị ra ngoại ô, bố trí lại các đơn vị trong Hà Nội để tránh đụng độ. Ngày 14/9 Lư Hán đến Hà nội và chiếm luôn Dinh Thống sứ, đuổi Sainteny xuống một biệt thự gần Ngân hàng Đông dương khi đó vẫn do Nhật chiếm. Các phần tử dân tộc thân Tưởng cũng tranh thủ ùa vào. Chính phủ phải thông báo cho các uỷ ban nhân dân từ biên giới hết sức bình tĩnh trước những hành động khiêu khích của đám này trên đường từ Việt bắc về Hà nội. Tại Hà nội, Nguyễn Hải Thần và tay chân tự động lập ra “Vùng tự trị” và bắt đầu gây rối.
Hồ có lẽ cũng đã cảm thấy những cố gắng của mình nhằm xây dựng quan hệ chiến lược với Mỹ thông qua OSS không mang lại nhiều kết quả. Trong một bức thư gửi Charle Fenn vào giữa tháng 8, Hồ viết rất vui vì chiến tranh đã kết thúc, nhưng cũng rất buồn vì phải chia tay những người bạn Mỹ. Hồ tiên đoán “Khi các ông đi, quan hệ giữa chúng ta chắc chắn sẽ xấu đi”. Đối với Hồ, Mỹ qua tổng thống Roosevelt là người lớn tiếng đòi phục hồi độc lập cho các dân tộc bị áp bức ở châu á. Nhưng Hồ cũng hiểu rằng, với tình hình thế giới phân cực, kiểu gì Mỹ cũng sẽ trở thành thành trì của chủ nghĩa tư bản, chống lại cách mạng thế giới. Tháng 4, Truman lên thay Roosevelt chết vì bệnh, đã lờ đi không nhắc đến vấn đề độc lập ở Đông dương nữa. Tháng 5, tại hội nghị San Francisco, phái đoàn Mỹ cho thấy rằng sẽ không phản đối nếu Pháp trở lại Đông dương. Sự thay đổi chính sách này là kết quả cuộc tranh luận giữa Vụ châu á và Vụ châu Âu của Bộ Ngoại giao Mỹ. Vụ châu Âu cho rằng trong tình hình sự đối đầu ngày càng căng thẳng giữa Mỹ và Liên xô tại châu Âu, Mỹ phải ủng hộ Pháp. Tuy nhiên Mỹ cũng yêu cầu “bảo đảm những điều kiện tự trị tiến bộ hoặc hình thức liên hiệp cho các dân tộc mong muốn độc lập, tương ứng với các điều kiện bên ngoài cũng như khả năng thực tế của dân tộc đó”.
Tướng De Gaul cũng hứa Đông dương “sẽ nhận được những hình thức tự trị tương xứng”. Vào cuối tháng 8, khi Việt minh đang bận củng cố quyền lực, Truman đã gặp De Gaul ở Nhà Trắng. De Gaul đã từ chối yêu cầu của Nhà trắng hứa hẹn về tương lai của Đông dương, cho rằng nói bây giờ chỉ là những lời “nói suông”. Mấy ngày sau, Mỹ tuyên bố không phản đối việc Pháp trở lại Đông dương. Đáng tiếc là đến tận tháng 10 tin này mới đến Trùng Khánh, bởi thế Patti và những quân nhân Mỹ đến Hà nội chẳng được chỉ thị nào của Đại sứ quán cả. Hồ vẫn tiếp tục liên lạc với Patti mà không biết rằng ông này cũng chẳng biết gì hơn mình về đường lối chính thức của Mỹ.
Trong cuộc gặp gỡ trước ngày 2/9, H kêu ca là Mỹ không hiểu gì về mục tiêu của Tưởng và Pháp. Hồ cam kết rằng Việt minh không phải là Đảng CS Đông Dương, chấp nhận đàm phán với Pháp về một nền độc lập hạn chế và hứa sẽ dành cho Mỹ những nhượng quyền kinh tế đặc biệt. Patti, cũng như tất cả những người Mỹ đã từng tiếp xúc với Hồ ở cuối cuộc chiến, có cảm tình với chính phủ của Hồ. Tuy nhiên cấp trên của ông này là Richard Hepnner đã ra lệnh không được dính líu gi đến các vấn đề chính trị. Bị bỏ rơi, Hồ tìm cách thoả hiệp với Tưởng. Khi Tiêu Văn nhắc khéo về việc bổ sung thêm thành phần chính phủ, Hồ đã thề thốt rằng mục tiêu của ông là dân chủ hoá chính phủ và tổng tuyển cử sẽ được tiến hành cuối năm.
Trong lúc đó, chính quyền mong manh ở phía Nam phải đối mặt với nhiều đe doạ trực tiếp. Sau những sự kiện lộn xộn ngày 25/8, Uỷ ban Nam bộ bắt đầu ổn định tình hình và thâu tóm quyền lực để chuẩn bị đón quân đội chiếm đóng Anh. Vài ngày sau, Hoàng Quốc Việt được Trung Ương phái vào. Việt đã khuyên Giàu tránh đối đầu với quân Anh. Tuy nhiên vị thế của Giàu khá tế nhị. Ông này phải chấp nhận trong uỷ ban có nhiều thành phần khác. Hội này không những luôn luôn nghi ngờ bản chất của Việt minh mà còn rình rập thế cơ để tố cáo Việt minh thoả hiệp với quân thù. Trên thực tế, Xứ uỷ Nam bộ cũng bị mất liên lạc với Trung Ương và đã quen tự quyết định tình hình. Thậm chí, khi Việt vào, Giàu mới biết nhân vật kỳ bí Hồ CHí Minh chính là Nguyễn ái Quốc. Bởi vậy các đồng chí phía Nam không nhiệt tình lắm với những đề nghị của Việt, chưa kể nhiều khi Việt như muốn ra lệnh.Xuất thân từ công nhân, với tư tưởng cứng nhắc, Việt cũng chẳng thích thú gì với hội của Giàu. Việt coi hội này như những kẻ phiêu lưu tiểu tư sản đã bị nhiễm lối sống của tư bản Sài gòn. Sự chia rẽ giữa Xứ uỷ hai miền từ cuối những năm 30, càng trở nên căng thẳng cuộc khởi nghĩa tại hai nơi bị buộc phải đi theo những con đường khác nhau.
Ngày 2/9, đám đông tụ tập trước dinh Norodom để chào mừng độc lập và nghe truyền thanh bản Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh. Trong lúc đó, căng thẳng với kiều dân Pháp vẫn rất cao. Khi những người biểu tình đang rầm rộ tiến vào Rue Catinat thì tiếng súng bỗng đột nhiên vang lên tại quảng trường Nhà thờ. Đám đông trở nên bị kích động, thanh niên ùa vào những ngôi nhà lân cận để tìm kẻ bắn lén. Lộn xộn xảy ra, cha cai quản Nhà thờ Tricoire đang đứng trên thềm thì bị trúng đạn chết ngay tại chỗ. Bạo lực lan nhanh, nhà cửa bị đập phá, cửa hàng bị hôi của, đám đông đi tìm người châu Âu để đánh. Báo chí Pháp gọi ngày này là Ngày Chủ nhật đen. Bốn người chết và hàng trăm người bị thương. Vài ngày sau, Giàu ra lời kêu gọi các đồng chí của mình duy trì kỷ luật, kiềm chế tránh bị lôi kéo vào những hành động manh động. Các phe phái dân tộc chủ nghĩa và nhóm Troskist được thể lấn át Việt minh. Hai giáo phái chính là Cao đài và Hoà hảo bắt nguồn và sinh sôi nảy nở trên đồng bằng Mekong từ những năm đầu thế kỷ, với hàng trăm ngàn giáo dân, cũng ra sức củng cố quyền lực trong khu vực hoạt động của mình, chống lại sự bành trướng của Việt minh.
Ngày 12/9 Sư đoàn Gurkha số 20 của tướng Douglas Gracey đến Tân sơn nhất cùng với một số đơn vị quân Pháp. Sư đoàn này vừa trải qua những trận chiến với quân Nhật tại Miến điện. Gracey, con của một quan chức thực dân ở ấn độ, tốt nghiệp Sandhurst, dáng khắc khổ, với bộ ria mép đặc trưng cho các vị tướng Anh. Con đường binh nghiệp của Gracey chủ yếu ở các nước thuộc địa châu Á. Ông được binh lính kính trọng vì lòng dũng cảm và công bằng. Có vẻ như Gracey là sự bổ nhiệm hoàn hảo cho nhiệm vụ tiếp quản sự đầu hàng của Nhật và duy trì luật pháp tại Đông dương. Tuy nhiên ngay từ những ngày đầu tiên ông này đã gặp phải những vấn đề lớn. Đầu tiên là thiếu kinh nghiệm xử lý chính trị, xuất phát từ nguồn gốc của mình Gracey coi việc các dân tộc châu á phải bị cai trị là đương nhiên. Tiếp đến là sự thiếu nhất quán trong lãnh đạo đồng minh. Khi ở Rangoon, Gracey được giao nhiệm vụ chỉ huy toàn bộ quân đội đồng minh ở Đông dương phía dưới vĩ tuyến 16. Tuy nhiên, trên đường hành quân, tướng Slim chỉ huy quân Anh ở Đông Nam á lại chỉ đạo Gracey chỉ tập trung kiểm soát một số vùng trọng yếu, còn lại để mặc quân Pháp, trừ khi Pháp yêu cầu hoặc có lệnh của tướng Mountbatten, chỉ huy toàn bộ quân đội Đồng minh tại Đông Nam Á (trụ sở tại Ceylon). Thực tế là Slim đã trả lại nửa Nam của Đông dương cho Pháp .
Sài gòn khi Gracey đến không yên bình. Quân Nhật đầu hàng làm thành phố hầu như không có chủ. Cảnh sát Việt nam chẳng biết phải báo cáo cho ai. Ngày 8/9, Giàu kêu gọi dân chúng bình tĩnh và hợp tác với Uỷ ban Nam bộ và ngay lập tức bị các thành viên phê phán về thái độ hoà hoãn, thậm chí còn nghi ngờ Giàu là “tay sai” của Pháp. Hôm sau Uỷ ban bị cơ cấu lại, Giàu phải từ chức, Việt minh chỉ còn 4 trong số 13 thành viên. Ngày 12/9, một số tù binh Pháp được quân Pháp đi theo Gracey giải cứu ùa ra đường, đập phá và tấn công những người Việt nam cho bõ tức. Gracey ra lệnh cho quân Nhật tước vũ khí của các đơn vị Việt nam, đuổi Uỷ ban Nam bộ ra khỏi toà nhà Thống sứ. Bộ chỉ huy Anh tuyên bố sẽ trực tiếp cai trị cho đến khi chế độ thực dân Pháp được phục hồi.Trong vài ngày sau, các đơn vị Anh đã tuần tiễu khắp đường phố và đuổi quân “phiến loạn” ra khỏi những vị trí trọng yếu. Giàu nhận được lệnh từ Hà nội tìm mọi cách tránh đối đầu trực tiếp, âm thầm sơ tán các đơn vị Việt minh ra ngoại ô.
Uỷ ban Nam bộ cũng bắt đầu thương lượng với đại diện Pháp Jean Cedile, đã nhảy dù xuống Nam bộ từ 22/8. Tuy nhiên như nhà ngoại giao Pháp Bernard de Folin ghi lại, đây là cuộc đối thoại của 2 người câm, mặc dù có sự trợ giúp đắc lực của Peter Dewey từ OSS. Pháp chỉ chấp nhận nói chuyện về độc lập sau khi chế độ cai trị thực dân được khôi phục lại. Đến giữa tháng 9, Phạm Văn Bách lúc đó là chủ tịch UBNB hiểu rằng các cuộc đàm phán là vô nghĩa, UB kêu gọi tổng bãi công vào ngày 17. Ngay lập tức Gracey ban bố thiết quân luật, thả tất cả quân Pháp (chủ yếu là lính lê dương), trang bị vũ khí và đề nghị Pháp lập lại trật tự. Đụng độ đã xảy ra giữa quân Việt nam và Pháp. Đêm 22/9, Cedile ra lệnh cho quân Pháp chiếm lại tất cả các vị trí trọng yếu và đuổi UB ra khỏi trụ sở mới là toà Thị chính Sài gòn. Sáng hôm sau, 22000 người Pháp hân hoan biết rằng Sài gòn lại dưới quyền cai trị của họ. Người Pháp tràn ra phố đánh đập bất cứ người Việt nam nào bất kể trẻ già, trai, gái mà chúng gặp trên đường.
Chỉ huy của OSS lúc đó tại Sài gòn là trung tá Dewey. Chàng thanh niên 28 tuổi này tốt nghiệp đại học Yale, từng là phóng viên báo Tin tức Chicago, gia nhập OSS tại châu Âu, vốn là con của đại sứ Mỹ tại Pháp. Anh nói tiếng Pháp thành thạo nhưng lại căm ghét chế độ thực dân chẳng khác Patti. Dewey liền đến gặp Gracey để phàn nàn về sự lộng hành của quân Pháp. Gracey chẳng những không tiếp mà còn yêu cầu Dewey rời khỏi Đông dương càng sớm càng tốt, cho rằng các hoạt động của OSS không có ích gì mà còn gây rối thêm. Tuy nhiên Gracey cũng xuống nước, đề nghị Pháp rút quân khỏi đường phố, trao lại quyền gìn giữ trật tự cho Nhật.
Ngày 24/9, hàng trăm phần tử vũ trang, chủ yếu là Cao đài và Bình xuyên tràn vào khu phố người Pháp Herault hô ầm ĩ “Giết bọn Âu trắng”. Hơn 150 người chết, 100 người bị bắt đi và mất tích luôn, trong đó có nhiều phụ nữ và trẻ em. Nông dân ngoại ô cũng bạo loạn, đốt nhà, chiếm đất và đánh giết các địa chủ. Bây giờ thì Giàu không còn tin vào hoà hoãn nữa. Lo sợ các lực lượng dân tộc sẽ chiếm mất quyền lực, Giàu ra lệnh tiếp tục bãi công và phong toả thành phố. Những chiến luỹ được dựng trên các ngả đường để ngăn người Pháp ra khỏi thành phố và không cho người Việt nam từ ngoài vào. Dewey điện cho Patti “Nam bộ như lò thuốc súng, người Mỹ cần hành động”. Trưa ngày hôm sau, trên đường ra sân bay Tân sơn nhất, Dewey bị bắn chết trên một chiến luỹ và trở thành người Mỹ đầu tiên chết trong cách mạng Việt nam. Trụ sở OSS cũng bị tấn công và được quân Anh giải cứu. Các sĩ quan OSS điều tra cái chết của Dewey đều cho rằng Việt minh không có động cơ để giết Dewey cũng như người Mỹ vốn ủng hộ nền độc lập của Việt nam. Một phần lỗi là do Gracey đã từ chối cho Dewey được treo cờ Mỹ trên chiếc Jeep của mình (theo Gracey là chưa xứng đáng), và nhiều khả năng là Việt minh đã nhầm chiếc xe của Dewey là chở quân Pháp. Biết chuyện qua Patti, Hồ Chí Minh đã bị sốc, sau đó gửi thư đến tổng thống Truman bày tỏ sự đau buồn.
Sự hỗn loạn ở Sài gòn đã ảnh hưởng nặng đến hình ảnh gìn giữ hoà bình của quân Anh. Ngài Mountbatten đã triệu Gracey và Cedile đến Singapore để mắng mỏ vì kỳ thị chủng tộc và không chịu làm việc với người Việt nam. Nhưng mọi sự đã muộn. Đầu tháng 10, quân Pháp do Leclerc chỉ huy đã tiến vào Nam bộ, vài ngày sau, tại Cung Sportif, Grace đã ký hiệp định giao lại toàn quyền cai trị Việt nam từ vĩ tuyến 16 trở về trước cho Pháp. Ngày 10/10, Giàu tấn công quân Anh-Pháp tại Tân sơn nhất và các cửa ô. Tuy nhiên chỉ vài tuần sau, các đơn vị Việt minh và các phần tử dân tộc thiếu kinh nghiệm đã bị đẩy bật ra xa ngoại ô Sài gòn và buộc phải lẩn trốn trong những cánh rừng và đầm lầy. Trước tình hình đó, Việt minh ra sức tìm cách hàn gắn các phe phái, còn Lê Duẩn thì khẩn cấp triệu tập cuộc họp Việt minh ở đồng bằng sông Mekong để chuẩn bị cho chiến tranh. Tại Hà nội, Hồ CHí MInh lên đài kêu gọi cả nước ủng hộ miền Nam, thề sẽ thống nhất đất nước. Tại miền trung, nhiều nơi, cả làng đã hưởng ứng Nam tiến đánh Pháp. Tuy nhiên trong chỗ thân tín, Hồ khuyên các cộng sự phải kiên nhẫn, “từ kinh nghiệm lịch sử, chỉ có cuộc chiến kéo dài mới dành được kết quả”.
Quả thật là chính quyền non trẻ chưa thể có đủ năng lực đến tiến hành chiến tranh. Tuy quân Pháp chưa đến Bắc bộ, nhưng dưới sự bảo kê của quân Tưởng, các phần tử dân tộc đang ngày càng lấn lướt. Hồ Chí MInh phải hết sức khéo léo để lôi kéo đồng minh. Ông ra lệnh cung cấp thuốc phiện cho Lư Hán, tư lệnh quân Tưởng ở Việt nam. Ông cho mời Bảo đại từ Huế ra, tỏ vẻ lấy làm tiếc là cáp dưới đã dùng vũ lực để ép Bảo Đại thoái vị. Hồ nói “Tôi cho rằng ngài phải lãnh đạo đất nước, còn tôi sẽ lãnh đạo chính phủ”. Hồ Chí MInh đã đề nghị Bảo đại làm cố vấn tối cao cho Chính phủ và ông này đã nhận lời.
Mặc dù Hồ đã làm hết sức để giữ hình ảnh ôn hoà, ông không thuyết phục được các phần tử dân tộc trong Đồng minh Hội, đã tố cáo Việt minh tráo trở trong khi chủ động đơn phương dành chính quyền. Nguyễn Hải Thần và Đại Việt gọi chính phủ là “Hồ và băng đảng khố rách áo ôm” đang tìm cách thoả hiệp với Pháp. Vũ Hồng Khanh và báo chí Việt Nam Quốc Dân Đảng thì rêu rao về nguy cơ “Khủng bố đỏ”. Mặc dù như Patti nhận xét bọn này không có một chiến lược kinh tế xã hội nào và “mất phương hướng chính trị một cách vô vọng” , chúng có trong tay một con bài quan trọng là sự ủng hộ của quân Tưởng. Tuy nhiên bọn này cũng chẳng có mục tiêu thống nhất. Hội liên quan đến Đồng minh Hội do Tiêu Văn ủng hộ thì mong quân Tưởng và Nhật rút sớm để có thể thành lập chính phủ của mình. Đại Việt và Việt nam Quốc Dân Đảng thì theo đuôi Lư Hán và muốn quân chiếm đóng Tưởng ở lại lâu dài. Nhà báo Pháp Phelip Deviller, lúc đó đang ở Hà nội cũng nhận thấy sự chia rẻ trong hàng ngũ Việt minh làm 3 nhóm: nhóm cộng sản cứng rắn như Hoàng Quốc Việt, Trần Huy Liệu, Hồ Tùng Mậu; nhóm cộng sản thực dụng như Giáp, Hoàng Minh Giám và bố vợ Giáp là Đặng Thai Mai; nhóm thứ 3 là nhóm không cộng sản, theo Việt minh vì yêu nước. Deviller cho rằng Hồ Chí MInh đã rất khéo léo xoa dịu mâu thuẫn giữa các nhóm, đặc biệt là thuyết phục các đồng chí cứng rắn không manh động. Trong một bình luận, Hồ cho rằng các phần tử phản động sẽ “bị quét sạch” nhưng từng bước cho đến khi chính phủ nắm được chính quyền một cách vững chắc. Nhiều lúc tình hình quá căng thẳng, Hồ phải thay đổi chỗ ở thường xuyên, đề phòng bị ám sát. Theo Hồ, cách tốt nhất để trị hội Dân tộc chủ nghĩa là làm việc với quân Tưởng. Tuy nhiên chưa rõ là Lư Hán sẽ ở lại đây bao lâu. Đầu tháng 10, Tưởng cử tướng Hồ Yingqin sang thị sát tình hình, phê phán Lư Hán không có kế hoạch hành động để ngăn cản cộng sản thâu tóm quyền lực. Khả năng quân Tưởng rút lại càng mù mờ hơn.
Trong khi đó Pháp vẫn là mối đe doạ lớn nhất, nếu các nước Đồng minh cùng xúm lại để chống Nga, đương nhiên Pháp sẽ được rảnh tay để chiếm lại Đông dương mà chẳng ai phản đối mặc dù có thể không thích. Hiểu được điều đó, từ giữa tháng 9, Hồ đã bí mật đàm phán với Marcel Alessandri bà Leo Pignon (Sainteny lúc này đã sang ấn độ). Trong các cuộc phỏng vấn với các nhà báo phương Tây, Hồ đã chào mừng người Pháp quay trở lại Đông dương nếu họ đến như những người bạn chứ không phải những kẻ chinh phục.
Hy vọng cuối cùng của Hồ là được Mỹ bảo trợ. Mặc dù liên tiếp bị cấp trên khiển trách, đại diện cao cấp nhất của Mỹ ở Đông dương là thiếu tá Patti không giấu được thiện cảm với chính phủ Việt nam. Ông này báo cáo là tuy chính phủ rõ ràng là thiên tả nhưng họ đang nắm vững chính quyền và sẵn sàng tiến hành chiến tranh với Pháp. Vài tuần sau Patti lại báo cáo: các nhà lãnh đạo Việt nam rất muốn được Mỹ bảo trợ như Philippines, tuy nhiên họ hiểu rằng điều đó là vô vọng nên đề nghị lộ trình 10 năm để tiến tới độc lập hoàn toàn, cho tới lúc đó Pháp có thể cử Thống sứ với tư cách là nguyên thủ quốc gia, dưới sự giám sát của Liên hiệp quốc.
Quan điểm của chính phủ Mỹ không nhất quán, chủ yếu là do mâu thuẫn giữa 2 Vụ châu Á và châu Âu. Ngày 28/9, vụ phó vụ Viễn đông John Carter Vincent (sau này trở thành nạn nhân của phong trào chống Cộng do nghị sĩ Mc Carthy khởi xướng) đã nêu vấn đề với thứ trưởng Dean Acheson. Theo Vincent, chính sách “không can thiệp” của Mỹ sẽ dẫn đến cuộc khủng hoảng toàn diện ở Đông dương vì Pháp không chịu nhượng bộ. Vincent đề nghị Mỹ và Anh thành lập một uỷ ban điều tra tình hình.Trên cơ sở báo cáo của UB này, một cuộc đàm phán quốc tế có thể có đại diện thích hợp của Annam sẽ được tiến hành. Những biện pháp này sẽ tránh được một cuộc bùng nổ chủ nghĩa dân tộc ở Đông dương. Vụ châu Âu có quan điểm khác, Vụ trưởng Freeman Mathew cho rằng hãy để Anh Pháp tự giải quyết lấy. UB mà điều tra chỉ có thể dẫn đến một kết quả duy nhất là Pháp phải trả lại Đông dương. Khi đó Nga sẽ nhảy vào đòi chia phần, rất rắc rối :”bất lợi cho Pháp, cho phương Tây và cho cả người Đông dương nói chung” Vốn xuất thân từ dân Châu Âu, Acheson đồng ý với Mathew và Mỹ sẽ chỉ can thiệp nếu tình hình xấu đi nhanh chóng. Ngày 20/10 Vincent ra thông báo, Mỹ không phản đối Hà lan và Pháp tiếp quản các thuộc địa cũ tại Đông Nam á, nhưng Mỹ hy vọng là nhân dân các nước này sẽ được chuẩn bị cho trách nhiệm tự trị.
Trong lúc đó Pháp cũng tỏ rõ thái độ. Cuối tháng 10, đại diện của Sứ Quán Pháp tại Washington đã gặp một quan chức vụ Viễn đông là Abbot Moffat để bày tỏ quan điểm về tin đồn là đại diện của chính phủ Hồ Chí MInh đang tới Mỹ, ông này tuyên bố “chính phủ Pháp coi hành động này của Mỹ là không thân thiện”.
Hồ Chí Minh có thể không biết về những thay đổi này trong thái độ của Mỹ, nhưng rõ ràng là ông nhận thấy xu hướng xấu đi. Trong bữa tiệc chia tay với Patti ngày 30/9 tại Bắc bộ phủ, Hồ chia sẻ, ông không thể nào liên kết được những gì Mỹ đã tuyên bố tại Teheran, Quebec và Postdam với thái độ dửng dưng cho phép Anh và Tưởng đưa Pháp trở lại Việt nam. Tại sao Hiến chương Đại tây dương lại không áp dụng cho Việt nam? Hồ đề xuất một chương trình cải cách kinh tế xã hội cho khối các nước thuộc địa châu á. Patti bày tỏ thiện cảm với cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam nhưng cũng nhắc lại quan điểm của Mỹ: "ủng hộ chủ quyền của Pháp nhưng không ủng hộ những tham vọng thực dân của Pháp". Cuối buổi nói chuyện, Hồ nhắc lại những thời điểm mấu chốt trong đời cách mạng của mình. Ông phủ nhận mình là cộng sản, là “bù nhìn của Matxcova” theo cách hiểu của Mỹ. Hồ Chí Minh đã nợ Liên xô bài học tư tưởng và đã trả hết trong 15 năm hoạt động cho Đảng, bây giờ ông là người tự do. Có phải là Mỹ đã giúp Việt nam trong những tháng gần đây để dành độc lập? Thế thì tại sao Việt nam lại mang nợ với Matxcova. Khi chia tay, Hồ nhờ Patti mang theo thông điệp Việt nam luôn biết ơn Mỹ đã giúp đỡ và mãi mãi coi Mỹ như người bạn và đồng minh tin cậy, cuộc đấu tranh giành độc lập của Mỹ là tấm gương cho nhân dân Việt nam noi theo. Vài ngày sau, Hồ còn gửi một bức thư cho tổng thống Truman. Nhưng tất cả đều vô vọng, những hoạt động của Patti, bức thư của người kế nhiệm Patti về đề nghị của Hà nội để Mỹ trung gian hoà giải, và những bức thư của Hồ cho Truman đều bị vứt vào sọt rác.
Đến mùa thu năm 1945, bức tranh về Cách Mạng Tháng 8 trở nên rõ ràng hơn. Tuy lãnh thổ vẫn do quân Tưởng chiếm đóng, Việt minh kiểm soát phía Bắc chủ yếu nhờ sự hồ hởi vì độc lập của dân chúng và hình ảnh huyền thoại của chủ tịch Hồ Chí Minh. Tại miền Nam, quân Pháp đã khôi phục lại chế độ thuộc địa, Việt minh đang xây dựng những căn cứ địa tại nông thôn.
Đối với Hồ Chí Minh, diễn biến trên chính trường quốc tế mới là điều quan trọng. Hồ muốn nhờ tay nước ngoài để ngăn chặn tham vọng thực dân của Pháp. Kinh nghiệm lâu năm cho Hồ biết Stalin chẳng quan tâm gì đến châu á và không thể ảo tưởng về sự giúp đỡ của Liên Xô.Tuy nhiên cũng khó có khả năng là Liên Xô sẽ ủng hộ Pháp. Hồ biết rõ về những tư tưởng chống thực dân ở Mỹ, tuy nhiên hy vọng Mỹ giúp đỡ thật là mong manh. Nếu liên minh Xô - Mỹ chuyển thành thế đối đầu, Việt nam sẽ bị kẹt trong thế mâu thuẫn toàn cầu mới. Tại hội nghị Tân trào, Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh, rất có thể vì sợ cách mạng thế giới, Mỹ sẽ quay sang ủng hộ Pháp.
Mặc dù con đường phía trước còn đầy chông gai, thực tế là Việt minh đang nắm chính quyền tại Hà nội. Sau này nhiều nhà sử học của Đảng đã tâng bốc vai trò lãnh đạo tài tình của Đảng, rằng Cách Mạng Tháng 8 ( CMT8) là điển hình kết hợp giữa nông thôn và thành thị, là hình mẫu cho các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của các nước thứ Ba... Gần đây nhiều nhà nghiên cứu lại cho rằng CMT8 là một cuộc nổi dậy có tính ngẫu hứng, rất ít có kế hoạch và chỉ đạo. Một số còn gọi đó là cuộc đảo chính. Những nhận xét này cũng có phần đúng, Lenin đã từng nói thực tế cách mạng phức tạp hơn nhiều so với lý thuyết với cách mạng và bất cứ cuộc cách mạng nào cũng có yếu tố ngẫu nhiên. Mặc dù có thể Đảng đã dự trù nhiều thứ ở Tân trào, khi Nhật đầu hàng, cuộc nổi dậy đã diễn ra có phần bột phát. Nhiều cơ sở đảng chẳng có liên hệ gì với TƯ, cứ tuỳ cơ ứng biến mà làm. Nạn đói khủng khiếp hoành hành trước đó vài tháng làm nhân dân nổi giận cũng giúp cho cuộc nổi dậy thành công nhanh chóng.
Tuy nhiên cũng phải thừa nhận CMT8 là một thành công to lớn của Đảng. Không thể có một cuộc cách mạng nếu không có những người cách mạng. Trong khi các phần tử dân tộc chủ nghĩa co ro nằm chờ ở Nam Trung hoa thì Việt minh đã dám chấp nhận thử thách và đã chớp được cơ hội tại thời điểm cuối của cuộc chiến tranh Thái bình dương, đặt thế giới vào một sự đã rồi “Fait accompli”. Bằng cách sử dụng Việt minh như một mặt trận rộng rãi với chương trình thu hút tất cả các tầng lớp nhân dân, Hồ Chí Minh đã mở rộng đáng kể phạm vi ảnh hưởng của Đảng cộng sản. Không những thế, Việt minh còn giúp Hồ kêu gọi sự công nhận của các nước đồng minh thắng trận như đại diện hợp pháp cho các quyền lợi dân tộc. Hình ảnh ôn hoà đó chính là hình ảnh của Hồ Chí Minh, một “người đơn giản là yêu nước”, mặc áo kaki và đi dép cao su, đã chiếm trọn trái tim hàng triệu người Việt nam và những người gần gũi với Hồ như Charles Fenn, Archimedes Patti, Jean Sainteny, Tướng Leclerc. Tuy nhiên không phải tất cả các đồng đội của Hồ đều ủng hộ ông. Sau này Trường Chinh đã nói, Đảng đã tắm máu không sạch và để lại quá nhiều kẻ thù tương lai trong CMT8.
Chiến lược của Hồ không phải là hoàn hảo. Chương trình hành động của Việt minh chỉ là điểm khởi đầu và sau này, rất có thể Đảng phải lộ bộ mặt thật sẽ dẫn đến sự thất vọng của dân chúng. Nhưng Hồ Chí MInh luôn luôn là một con người thực dụng. Trong cuộc phỏng vấn với nhà báo Mỹ Harold Isaacs cuối năm 1945, Hồ nói: “Độc lập là một sự kiện. Cái gì phải đến sau đó sẽ đến. Nhưng độc lập phải có trước, không phụ thuộc sau đó sẽ là cái gì”. Có giữ được độc lập hay không là một chuyện khác “chúng tôi đang đơn độc, và chúng tôi phải phụ thuộc vào chính mình”. Hồ nói với Isaacs, chấp nhận cuộc chơi đầy khó khăn phía trước.
10. Tái thiết và kháng chiến
Tình hình Hà nội trở nên xấu đi và đặt những gánh nặng to lớn lên Hồ CHí Minh như người lãnh đạo Đảng và chính phủ. Những cái đầu nóng ở Đảng CS Đông DƯơng- ICP đòi phải dẹp các nhóm đối lập thì Hồ CHí Minh lại kiên trì chính sách hoà giải và hoà hợp dân tộc, nhằm chia rẽ và cô lập những kẻ thù của Đảng. Trong khi đa số người Việt nam quyết liệt phản đối Pháp quay trở lại, thi Hồ lại đánh tiếng sẽ đón tiếp Pháp như những người bạn.
Mặc dù tìm kiếm hoà bình, chính phủ mới cũng tích cực chuẩn bị cho chiến tranh. Lực lượng dân quân tự vệ được Hồ gọi là “bức tường thép của Tổ quốc” được tổ chức khắp các làng xã, nhà máy, đường phố, do cơ sở đảng địa phương lãnh đạo và tổ chức tập luyện. Thức ăn và vũ khí thì tự lo lấy. Tại Hà nội, hàng chục ngàn thanh niên gia nhập tự vệ. Ngoài ra còn có bộ đội địa phương, được lựa chọn nòng cốt từ hội thanh niên cứu quốc, do Bộ quốc phòng trang bị và huấn luyện tại Trường huấn luyện quốc phòng Hồ Chí Minh. Quân đội chính quy: Quân giải phóng Việt nam mới đổi tên thành Vệ quốc quân, được tổ chức thành các tiểu đoàn, du nhập thêm số Dân vệ của chính phủ cũ bị giải ngũ. Trường kháng Nhật Việt bắc chuyển về Hà nội được đổi thành Học viện chính trị quân sự, dưới danh nghĩa huấn luyện để có thể hợp tác với quân Tưởng. Nếu kể cả số quân phía Nam, quân đội lên tới 80,000 người. Tuy nhiên vũ khí thì hết sức thiếu thốn. Nếu có thì cũng từ loại đồ cổ, nhiều khi từ thế kỷ trước ngoại trừ một ít mìn chống tăng và tiểu liên thu được của Nhật. Còn lại đa số là giáo, mác hoặc súng kíp do mấy bác thợ rèn địa phương tự chế. Để có tiền mua vũ khí từ lực lượng chiếm đóng, Hồ CHí Minh miễn cưỡng đồng ý tổ chức “Tuần lễ vàng” kêu gọi nhân dân đóng góp. Theo Patti, Hồ không tin tưởng lắm vào sự thành công của việc này vì sẽ chỉ có người nghèo là tích cực, còn tầng lớp giàu có sẽ chẳng đóng được bao nhiêu. Thực tế đã diễn ra đúng như vậy, và Hồ “cảm thấy như kẻ phản bội” khi để “vụ việc” này diễn ra. Chính phủ tìm cách tăng thuế thực phẩm. Khi một quan chức đề nghị đánh thuế thịt gà, vịt, bò, “Công dân” Vĩnh Thuỵ buột miệng “sao không thêm cả thịt chó?”. Hồ là người đầu tiên lăn ra cười. Chính phủ còn phát động phong trào thu gom đồng và các loại kim loại khác để đúc vũ khí khắp nơi.
Mặc dù vậy Hồ CHí Minh tin tưởng rằng vũ khí quan trọng nhất sẽ là sự ủng hộ của quần chúng, đi đâu ông cũng nhắc cán bộ hành xử cho đúng với dân: “Trợn mắt nhìn ngàn tráng sĩ, cúi đầu làm ngựa nhi đồng”. Ông luôn luôn nhấn mạnh, cuộc đấu tranh sống còn của chính phủ là trên mặt trận ngoại giao và chính trị. Nếu dụ dỗ nhượng bộ quân Tưởng, bọn dân tộc chủ nghĩa sẽ bị cô lập. Và lúc đó Hồ CHí Minh có thể xây dựng mặt trận thống nhất để chống sự trở lại của Pháp ở phía Bắc. Sau khi đặc phái viên của Tưởng, tướng He Yingqin đến thị sát Hà nội và ra lệnh: giảm ảnh hưởng của cộng sản, chính phủ đã tỏ thái độ mềm mỏng.Hồ CHí Minh ra lệnh thả Ngô Đình Diệm, con của một quan chức triều đình yêu nước, bộ trưởng nội vụ trong chính phủ Bảo đại trước WWII, nhưng đã từ chức vì cho rằng Pháp không cho chính phủ thực quyền. Diệm theo Thiên chúa và chống cộng điên cuồng, đặc biệt là khi một trong 5 anh em của Diệm là Ngô Đình Khôi bị Việt minh thủ tiêu. Hành động này của Hồ CHí Minh đã bị nhiều đồng chí chỉ trích, trong đó có cả Bùi Lâm- bạn chiến đấu từ thời Paris . Để lôi kéo cộng đồng thiên chúa, Hồ CHí Minh còn dành cho họ một chân trong chính phủ và thỉnh thoảng đi dự lễ nhà thờ. Ông cũng không ngần ngại đến thăm các đồng bào miền núi,thắp hương cho Khổng tử ở Văn miếu.
Dưới sức ép của tướng Tiêu Văn, từ cuối tháng mười Hồ CHí Minh bắt đầu đàm phán với Nguyễn Hải Thần,“lãnh đạo tối cao” của Đại Việt cùng các đảng khác như Việt Quốc và Đồng minh Hội. Nhưng các cuộc đàm phán chẳng đi đến đâu. Đồng Minh Hội đòi giải tán chính phủ, đổi tên Việt minh, thay đổi quốc kỳ. Các đồng chí của Hồ rất bực tức, một người viết Tôi là người tán thành việc diệt sạch bọn Việt quốc tay sai của Tưởng. Có hôm tôi bảo: “Thưa Bác, tại sao ta lại để cho bọn ám sát và phản bội đó tồn tại? Bác cứ ra lệnh, bảo đảm cháu sẽ bọn nó tiêu trong một đêm”. Bác cười và chỉ vào phòng, hỏi lại “Nếu có con chuột chạy vào phòng này, chú sẽ dùng đá ném hay đặt bẫy hoặc đuổi nó ra?” “Thưa Bác, nếu ném đá sẽ vỡ mất nhưng đồ quý trong phòng”.
Mặc dù không nhượng bộ những yêu cầu của phe đối lập, ngày 11/11, Đảng CS Đông Dương - ICP đột ngột tuyên bố tự giải tán, đổi thành Hội nghiên cứu chủ nghĩa Max ở Đông dương. Rõ ràng Đảng muốn thể hiện yêu cầu của đất nước cao hơn cuộc đấu tranh giai cấp, và lợi ích của nhân dân cao hơn lợi ích của Đảng. Dù thế, ngày hôm sau vẫn xảy ra vụ đụng độ lớn giữa Việt minh và phe dân tộc gần Nhà hát Lớn làm hàng chục người chết. Rõ ràng là ngoài việc nhằm thống nhất dân chúng, động thái này chủ yếu là hướng đến quân Tưởng và xoa dịu phe đối lập. Trong Đảng cũng đã có những cuộc tranh luận gay gắt, các đảng cộng sản khác cũng lúng túng không hiểu. Thực chất thì đảng không giải tán mà chỉ rút vào hoạt động bí mật để rồi mấy năm sau lại tái xuất hiện. Ngày 19/11, theo lệnh của Trương Phát Khuê, Tiêu Văn triệu tập cuộc họp chính phủ và phe đối lập. Hai bên thống nhất thành lập chính phủ liên hiệp, tập hợp tất cả các tổ chức vũ trang dưới sự lãnh đạo của chính phủ, tổ chức hội nghị quân sự để bàn cách giúp đồng báo phía Nam chống Pháp. Các phe phái phải ngay lập tức ngừng các hoạt động chống đối nhau. Cuộc đàm phán kéo dài mấy tuần. Đầu tiên, phe đối lập đòi chức Chủ tịch và 6 ghế bộ trưởng. Hồ CHí Minh thì đề nghị thành lập Hội đồng Cố vấn chính trị do Thần làm chủ tịch và 3 ghế bộ trưởng. Căng thẳng leo thang khi Giáp cho tay chân mặc thường phục đuổi các phần tử Việt quốc đang rải truyền đơn chạy re kèn. Sau vụ này Hồ Chí Minh liền lập tức bị triệu đến trụ sở quân Tưởng nghe chửi.
Một vấn đề nữa là ngày bầu cử. Phe đối lập cho là ngày 23/12 là quá gấp để họ chuẩn bị. Trương Phát Khuê can thiệp, ngày 19/12 hai bên nhất trí dời ngày tổng tuyển cử 15 ngày. Không phụ thuộc vào kết quả bầu cử, Việt quốc sẽ có 50 ghế và Đồng MInh Hội có 20 ghế trong quốc hội tương lai. HCM sẽ làm chủ tịch, Hải Thần phó chủ tịch, Việt minh, Việt Quốc, Đồng MInh Hội và Đảng Dân chủ mỗi đảng có 2 ghế bộ trưởng và hai ghế nữa sẽ dành cho các phần tử không đảng phái. Quyết định này bị phản ứng quyết liệt trong đảng. Một đồng chí đã hỏi “Hải Thần có phải là cục phân bẩn thỉu?”. Hồ trả lời “Nhưng nếu dùng để bón lúa được thì tại sao lại không dùng?” Khi một số cho rằng Việt minh và phe đối lập như lửa với nước, cớ sao lại nhượng bộ 70 ghế, Hồ châm biếm: “Nếu lấy lửa để đun sôi nước, thì lại có thể uống được đấy”.
Ngày 1/1/1946, chính phủ liên hiệp lâm thời ra mắt tại Nhà hát Lớn. Hồ Chí Minh kêu gọi bầu cử dân chủ và thống nhất các lực lượng vũ trang. Hải Thần cũng phát biểu, nhận một phần trách nhiệm về sự chậm trễ trong việc hoà hợp dân tộc và hứa sẽ hợp tác chống Pháp. Ngày 6/1 cuộc tổng tuyển cử đầu tiên được tiến hành trên toàn quốc và các vùng do Việt minh kiểm soát ở Nam bộ. Việt minh nhận được 97% phiếu và lẽ ra sẽ có 300 ghế quốc hội, nhưng 70 ghế phải nhường cho phe đối lập. Hồ CHí Minh cũng ra ứng cử tại Hà nội và được 98.4% phiếu bầu.
Trong một cuộc hội nghị tháng 11, TW đã ra nghị quyết hy vọng là Pháp có thể dành độc lập cho Đông dương để đổi lấy những lợi ích kinh tế. Paris thì lại nghĩ khác và không muốn đàm phán gì trước khi chủ quyền của Pháp được phục hồi. Cuối tháng 9, De Gaul điện cho Leclerc “Việc của ngài là khôi phục lại sự cai trị của Pháp và tôi rất lấy làm tiếc là ngài vẫn chưa làm điều đó” . Trong khi đó, Leo Pignon và Alessandri lại coi Hồ Chí Minh là người có bản lĩnh, tin cậy và đáng đàm phán. Cedile cũng điện từ Sài gòn cho rằng có nhiều phần tử ôn hoà trong chính phủ và nên đàm phán. Ngày 10/10 Paris điện cho Alessandri đề nghị thương lượng với Hà nội về các vấn đề trên toàn Đông dương. Hai ngày trước đó, Jean Sainteny trở lại Việt nam với tư cách đại diện toàn quyền cho Pháp tại Bắc bộ và Bắc Trung bộ, sau chuyến đi sang Ân độ thăm tướng D’Argenlieu để xin từ chức vì bất mãn, bị từ chối.
Sainteny ở trong toà nhà Ngân hàng Đông dương. Sainteny gặp Hồ Chí Minh lần đầu tiên vào giữa tháng 10 cùng với một quan chức thực dân cũ là Pignon. Hồ đi cùng với bộ trưởng văn hoá Hoàng Minh Giám. Mặc dù là người đàm phán cứng rắn và yêu nước Pháp, Sainteny rất kính trọng Hồ và tự đáy lòng, ông này cảm thấy Hồ thân Pháp. Nhiệm vụ của Saiteny là thuyết phục để Hồ đồng ý cho quân Pháp quay trở lại Bắc bộ, đổi lấy việc Pháp sẽ thương lượng để đuổi Tưởng đi. Tại lúc đó, tướng Leclerc đang có 8000 quân ở Nam bộ từ Sư đoàn số 2 đã nổi tiếng trong chiến dịch Normandy. Pháp không dễ dàng tràn vào bằng vũ lực bởi ngoại trừ sự chống đối của Việt minh, còn có hơn 30000 quân Tưởng đang thong thả “giải giáp” quân Nhật. Sainteny đã cảnh báo chính phủ Pháp “tuyệt đối chưa dùng vũ lực, vì sẽ vấp phải sự chống đối mạnh mẽ”.
Ngay từ đầu, Hồ Chí Minh đã thành thật thú nhận là ông không yêu cầu độc lập ngay lập tức. Ông đồng ý để Pháp quay lại với một chân trong liên hiệp Pháp nếu Pháp đồng ý độc lập trong vài năm tới. Nhưng mọi việc không dễ dàng, rắc rối đầu tiên là câu chữ, Hồ đề nghị phải dùng chữ “Independence” trong văn bản cuối cùng, trong khi đó De Gaul không chịu chấp nhận. Leclerc, sau khi đi thăm tướng Mountbatten về, định hoà giải bằng cách đề nghị Paris có một thể chế phù hợp cho Đông dương sau chiến tranh ( ông này dùng chữ “Autonomie”), liền bị De Gaul chửi mắng thậm tệ “Nếu tôi mà nghe mấy thứ nhảm nhí này thì đế quốc Pháp đã tiêu vong lâu rồi. Hãy đọc thật kỹ câu chữ trong tuyên bố tháng 3 của Pháp về Đông dương”.
Vấn đề gây tranh cãi thứ hai là quy chế của Nam bộ, Hồ Chí Minh muốn gộp chung cả vào đàm phán nhưng Saiteny cho rằng dân chúng ở thuộc địa cũ của Pháp này phải được tự do lựa chọn thể chế cho mình. Cả hai tranh cãi liên miên mấy tuần liền trong căn phòng mịt mù khói thuốc. Sainteny hút tẩu sang trọng, còn Hồ hút đủ thứ thuốc Tàu, Mỹ và Gaulois Pháp. Thỉnh thoảng Hồ xin nghỉ để hội ý với chính phủ mình, hoặc xin ý kiến “Cố vấn” Vĩnh Thuỵ.
Thái độ của Hồ Chí Minh với Bảo đại làm Sainteny và nhiều người khác ngạc nhiên. Hồ bao giờ cũng tỏ ra rất lễ phép. Hồ còn mắng cán bộ của mình đã gọi là “ông cố vấn” mà không phải là “thưa Ngài”. Có lần Hồ còn đề nghị Bảo đại làm người đứng đầu nhà nước trong tương lai. Như cố vấn tối cao, Bảo Đại dự tất cả các cuộc họp chính phủ và cảm thấy như ở nhà, kể cả trong quan hệ với những kẻ cứng rắn như bộ trưởng tuyên truyền Trần Huy Liệu, trước đây đa số thời gian là sống ở Nga hoặc trong tù.
Thoạt tiên Bảo Đại có cảm tình với Hồ so với mấy tay đối lập bám đít Tưởng. Ông chủ tịch yếu đuối và mềm dẻo này , thích nói chuyện văn thơ hơn chính trị và có vẻ giống một nhà nho hay thầy đồ hơn là điệp viên của Quốc Tế Cộng Sản hay chủ tịch nước. Dần dần Bảo Đại cũng nhận ra bộ mặt thật của Hồ và chính phủ. Khi nghe tin Phạm Quỳnh và Ngô Đình Khôi bị bắt, Bảo Đại đã phản đối và đề nghị thả. Hồ ậm ừ nói rằng nhân dân sẽ không hiểu (hai ông này đều bị thủ tiêu). Khi xung đột giữa các phe phái tăng cao, Bảo Đại được cử đi Thanh hoá lánh nạn. Trở về, ông được bầu vào đại biểu quốc hội và thỉnh thoảng theo Hồ đi thăm thú để nhân dân thấy rằng ông vẫn còn sống.
Trong những tuần đầu 1946, dưới vỏ bọc của chính phủ liên hiệp mới, Hồ Chí Minh nối lại các cuộc thương lượng với Sainteny. Cũng quãng thời gian đó, Kenneth Landon, chuyên gia về các vấn đề châu á của vụ Đông Nam Á Bộ ngoại giao Mỹ đến Hà nội để tìm hiểu tình hình. Sainteny hứa với Landon rằng chính phủ Pháp sẽ tìm cách hoà giải với Việt nam. Nhưng Hồ lại không lạc quan khi trao đổi riêng với Landon. Hồ nghi ngờ sự thành thật của chính phủ Pháp và khẳng định quyết tâm sắt đá của Việt Nam giành lại độc lập. Hồ nhờ Landon chuyển bức thư cho tổng thống Truman kêu gọi Mỹ ủng hộ cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của Việt nam, trong bối cảnh Mỹ đang chuẩn bị trao trả lại độc lập cho Philippines.
Những nghi ngờ của Hồ đối với Pháp xem ra là có cơ sở. Tại Paris, bộ ngoại giao Pháp thông báo cho đại sứ Mỹ Jefferson Caffery rằng Pháp sẽ “thoáng” trong đàm phán, tuy nhiên vấn đề độc lập hoàn toàn của Việt nam chưa được xét đến lúc này. Trong báo cáo sau đó cho Washington, Caffery nhận xét: chính sách về Đông dương của chính phủ Pháp đang bị một số viên tướng thủ cựu lũng đoạn.
Tuy nhiên tình hình biến chuyển theo chiều hướng có lợi cho đàm phán. Paris cần một số tiến bộ tại Hà nội để hỗ trợ cho cuộc đàm phán với Tưởng ở Trùng khánh về việc quân Pháp sẽ thay thế quân Tưởng ở Bắc bộ. Chính phủ xã hội mới của Felix Guin thay thế De Gaul cũng tỏ ra mềm mỏng hơn. D’Arengenlieu quay về Pháp để xin ý kiến chính phủ mới, không quên dặn Leclerc chưa vội nhượng bộ với chữ “Independence”. Ngày 14/2,Leclerc điện về Paris “đang có cơ hội để chính phủ Pháp ra tuyên bố ủng hộ việc dùng chữ Độc lập cho toàn Đông dương, nhưng có giới hạn, trong khuôn khổ khối Liên hiệp Pháp”. Đáng tiếc là D’Argenlieu, một người bảo thủ được mệnh danh là “bộ óc thông minh nhất của thế kỷ 12” đã không chấp nhận ý tưởng này.Trước khi từ chức, De Gaul cũng cử bộ trưởng Max Andre sang thăm dò thái độ của Hồ. Theo Pháp, Hồ sẵn sàng chấp nhận sự quay lại của Pháp với một số điều kiện.
Mặt khác, Hồ phải đối diện với nhiều sức ép bên trong về việc không được nhượng bộ Pháp. Báo chí đối lập ra sức đả kích vụ Hồ đàm phán với Pháp, đòi giải tán chính phủ “của bọn phản bội” đang bán đứng quyền lợi dân tộc cho Pháp. Hồ càng khó thoả hiệp trong bối cảnh Pháp càng ngày càng đẩy mạnh chiến tranh tại phía Nam. Tháng 11/1945, mặc dù bị Việt Minh bao vây, Pháp vẫn chiếm thành phố nghỉ mát Nha trang. Vài tuần sau, quân của tướng Alessandri vượt biên giới tại Lai châu, bắt đầu chiến dịch đóng cửa biên giới, cắt đứt liên hệ của Việt Minh với Nam Trung hoa. Khoảng giữa tháng 2/46 Pháp cảnh báo Việt Nam phải thoả hiệp nhanh vì hiệp định Hoa-Pháp sắp được ký. 18/2, Sainteny điện về Paris thông báo Hồ đã nhượng bộ không dùng chữ “Independence” mà chỉ cần Pháp “công nhận những nguyên tắc tự trị của Việt nam, trong khuôn khổ Liên hiệp Pháp”. D’Argenlieu đồng ý trên nguyên tắc.
Ngày 20/2, hãng Reuters công bố những điều khoản của hiệp định Trùng khánh sắp được ký kết, cho phép quân Pháp vào thay thế quân Tưởng. Paris cũng lệnh cho Leclerc chuẩn bị đổ bộ ra Hải phòng. Hà nội rối loạn. Những phần tử đối lập, vốn đang tức việc Hồ đàm phán với Pháp, kêu gọi tổng bãi công và đòi Hồ từ chức, lập chính phủ mới do “Công dân” Vĩnh Thuỵ đứng đầu. Hai bên đã đụng độ ở khu vực quanh hồ Hoàn kiếm. Ngày 22/2, Hồ trả lời phỏng vấn, không bình luận về tin đồn về hiệp định Hoa-Việt. Trên thực tế, chính phủ tích cực chuẩn bị chiến tranh, thành lập thêm các đơn vị dân quân tự vệ, bắt đầu sơ tán trẻ em và người già khỏi thành phố.
Sainteny, đã đồng ý với nguyên tắc tự trị của Việt Nam (nhưng không nhắc đến từ độc lập), lại nêu yêu cầu mới, đòi hỏi chính phủ Việt nam phải có sự tham gia rộng rãi của các tầng lớp dân chúng mới có thể đứng ra ký hiệp định. Hồ cũng chỉ đạo đẩy nhanh kỳ hạn họp quốc hội lần thứ nhất mới được bầu tháng giêng, lập ra chính phủ liên hiệp. Nhưng Việt quốc được Tưởng ủng hộ, kiên quyết đòi đa số trong chính phủ. Có vẻ như có lúc Hồ đã mất hy vọng. Theo Bảo đại, sáng 23/2, Hồ bất thình lình đến thăm và đề nghị Bảo đại ra nắm quyền.
“Thưa ngài, tôi không biết làm gì hơn. Tình hình căng thẳng. Tôi hiểu rõ người Pháp không muốn nói chuyện với tôi. Tôi không thuyết phục được đồng minh ủng hộ. Cả thế giới bảo tôi đỏ quá. Tôi đề nghị ngài hy sinh một lần nữa và ra nắm chính quyền”.
Bảo Đại từ chối, nhưng sau khi tham khảo ý kiến các cố vấn đã nhận lời. Nhưng Hồ Chí Minh lại đổi ý. Chiều đó, Hồ gặp lại Bảo Đại
“Thưa ngài, hãy quên những điều tôi nói lúc sáng. Tôi không có quyền từ bỏ những trách nhiệm của mình lúc khó khăn. Trả lại quyền lực cho ngài là sự hèn nhát của tôi. Xin ngài hãy tha lỗi cho phút yếu mềm và ý định chuyển gánh nặng trách nhiệm cho ngài. Tôi có kế hoạch từ chức chẳng qua vì sự chống đối quyết liệt của phe đối lập với hiệp định mà tôi đang thảo luận với Pháp.”
Cái gì đã làm Hồ thay đổi ý định? Chỉ biết là ngày hôm sau, thấy các bên thông báo là đã thoả thuận được thành phần chính phủ liên hiệp. Hai bộ quan trọng nhất là Nội vụ và Quốc phòng được trao cho các phần tử trung lập. Việt minh và các đảng khác chia nhau 8 ghế còn lại. Theo Võ Nguyên Giáp, Hồ đã nhờ Tiêu Văn, vốn rất ghét Pháp, thuyết phục phe đối lập thoả hiệp để có thể thành lập chính phủ chống Pháp.
D’Argenlieu quay lại Sài gòn ngày 27/2. Cùng ngày, ông đồng ý bản hiệp định khung do Sainteny đề nghị, công nhận Việt nam là “Nhà nước tự do, có quốc hội, quân đội và tài chính riêng” nhưng không chấp nhận quyền tự trị của Việt Nam trong đối ngoại cũng như sự thống nhất về chính trị và lãnh thổ giữa 3 miền. Tuy nhiên vấn đề thống nhất có thể giải quyết thông qua trưng cầu ý dân. Cùng ngày tại Trùng khánh, Pháp đồng ý bỏ yêu cầu về các lãnh thổ hải ngoại tại Quảng châu và Thượng hải và sẵn sàng ký hiệp định Hoa Việt. Tất cả đã sẵn sàng để quân Pháp quay trở lại Bắc bộ. Paris tức tốc điện cho Leclerc: “Hãy giương buồm lên”
Ngày 2/3, Quốc hội họp phiên đầu tiên tại Nhà hát lớn. Cả toà nhà tràn ngập cờ đỏ sao vàng. Hơn 300 đại biểu, khách mời và phóng viên tham dự. Trong bộ quần áo kaki nổi tiếng Hồ Chí MInh bước lên diễn đàn đề nghị quốc hội chấp nhận 70 đại biểu của Việt quốc và Đồng Minh Hội đang phải đợi ở phòng chờ. Sau khi được chấp nhận, Hồ tuyên bố khai mạc quốc hội đại diện cho toàn thể dân tộc Việt nam và đại diện cho chính phủ liên hiệp lâm thời xin từ chức. Quốc hội đã nhất trí bầu Hồ Chí MInh làm chủ tịch, Nguyễn Hải Thần làm phó chủ tịch mặc dù ông này cáo ốm không đến dự. Hồ Chí MInh tuyên bố thành lập Uỷ ban dân tộc kháng chiến đấu tranh cho độc lập hoàn toàn của dân tộc và Hội đồng cố vấn quốc gia do Bảo Đại làm chủ tịch.Cùng ngày hạm đội Pháp chở đạo quân của tướng Leclerc rời Sài gòn nhằm hướng Hải phòng thẳng tiến.
Ngày 5/3 Hồ Chí MInh triệu tập lãnh đạo đảng họp tại Hương canh ngoại ô Hà nội (sau khi TƯ đã họp ngày 24/2) để đánh giá tình hình và đề ra chiến lược thích hợp. ý kiến rất khác nhau. Một số đòi đánh ngay lập tức, số khác thì đề nghị theo Tàu chống Pháp... Đánh giá là lực lượng vũ trang Việt minh còn quá yếu, Hồ Chí Minh khẳng định cần phải hoà hoãn bằng mọi giá. Có lúc Hồ phải hét lên: “Moi người quên lịch sử rồi sao? Mỗi khi bọn Tàu đến, chúng ở lại hàng ngàn năm. Tây thì bất quá ở vài năm rồi cũng sẽ phải cuốn xéo”. Sau này khi nói chuyện với nhà sử học Pháp Paul Mus, Hồ dùng từ còn kinh hơn: ”Thà ngửi c. Tây một lúc, còn hơn ăn c. Tàu cả đời” (1). Cuối cùng quan điểm của Hồ thắng thế. Nghi quyết cuộc họp nêu rõ: “Vấn đề bây giờ không phải là đánh hay không. Mà là biết ta và biết người, đánh giá đúng tình hình để có hành động thích hợp. Tình hình hiện tại phức tạp hơn nhiều so với lúc xảy ra Cách mạng Tháng 8. Khi đó, các lực lượng đối lập hoặc không muốn hoặc không thể ngăn cản. Bây giờ, được Tưởng giúp sức, chúng sẵn sàng manh động chống chính phủ. Lúc đó, đồng minh đang lộn xộn, chúng ta có thể khai thác những mâu thuẫn. Bây giờ mâu thuẫn đã tạm thời lắng xuống. Lực lượng tiến bộ do Liên Xô lãnh đạo thì ở xa, chẳng cách nào giúp được cách mạng Việt Nam. Bởi vậy “chiến đấu đến cùng” chẳng khác gì tự làm yếu và cô lập mình”. Nghị quyết cũng nêu rõ, hoà hoãn với Pháp sẽ làm cho chính phủ bị chửi là bán nước, giúp Pháp củng cố lực lượng tấn công miền bắc. Nhưng hoà hoãn với Pháp sẽ làm Tưởng suy yếu, kéo theo bọn cơ hội dân tộc chủ nghĩa. Hoà hoãn cũng giúp chính phủ có thời gian chuẩn bị đầy đủ các điều kiện lâu dài cho cuộc đấu tranh giành độc lập hoàn toàn. Cuối cùng nghị quyết yêu cầu Pháp phải công nhận các quyền tự quyết và toàn vẹn lãnh thổ của nhân dân Việt nam.
***************
(1):
Xem “Jours passes aupres Oncle Ho” in Avec l’Oncle Ho (NXB Ngoại ngữ, 1972) p 352
Cùng ngày 5/3, hạm đội Pháp của Leclerc tiến vào vịnh Bắc bộ. Bất ngờ Saiteny nhận được điện từ Sài gòn thông báo, Tưởng từ chối cho Pháp đổ bộ nếu không có những nhượng bộ nữa. Uỷ ban kháng chiến quốc gia cũng ra lời kêu gọi chuẩn bị đứng lên bảo vệ đất nước. Quân Pháp lên bờ chắc chắn sẽ vấp phải sự kháng cự của cả Việt nam lẫn Tưởng. Leclerc hoảng quá, yêu cầu Sainteny phải làm mọi cách để thoả thuận với các bên, kể cả “hứa những điều mà sau này sẽ vứt đi”. Cuối ngày hôm đó, Sainteny gặp Hồ. Cảm nhận được cuộc đàm phán Hoa - Pháp đang gặp khó khăn, Hồ thừa cơ đòi thêm chữ “independence” và toàn vẹn lãnh thổ. Sainteny hứa sẽ tổ chức trưng cầu ý dân 3 miền về việc thống nhất nhưng kiên quyết từ chối dùng từ “Independence”. Cuộc đàm phán chẳng đi đến đâu.
Sáng hôm sau, hạm đội Pháp tiến vào vịnh Hải phòng. 8h30, tàu đổ bộ Pháp được hạ xuống cửa sông Cấm. Quân Tưởng trên bờ nổ súng. Sau chừng 15 phút suy nghĩ, quân Pháp đã bắn trả. Đạn vãi như mưa trên đường phố Hải phòng đến tận 11h. Kết quả, một số tàu Pháp bị hư hại, một kho đạn của Tưởng bốc cháy dữ dội. Tại Hà nội, tình hình lại tiến triển thuận lợi. Sau khi tư vấn với các đồng chí, Hồ quyết định nhượng bộ. Hoàng Minh Giám được phái đến biệt thự của Sainteny thông báo Việt Nam đồng ý những điều kiện của Pháp, thay chữ “indepedence” bằng chữ “Free state”. Khoảng 4h chiều, tại toà biệt thự trên Lý Thái Tổ đối điện với Bắc bộ phủ, toàn văn bản hiệp định đã được công bố trước các đại diện Việt nam, Pháp và một số nhà quan sát khác. Hiệp định thừa nhận Việt nam dân chủ cộng hoà “là một quốc gia tự do, có chính phủ, quốc hội, quân đội và tài chính riêng, nằm trong khối Liên hiệp Pháp”. Pháp cũng đồng ý việc tiến hành trưng cầu ý dân ở cả ba miền để thống nhất đất nước. Đổi lại Việt nam đồng ý để 15.000 quân Pháp vào Bắc bộ thay thế quân Tưởng. Hồ Chí Minh ký trước rồi đưa cho thứ trưởng quốc phòng Vũ Hồng Khanh (Việt quốc) ký tiếp theo. Sau lễ ký, đáp lại sự hài lòng ra mặt của Sainteny, Hồ Chí Minh phát biểu:
“ông đã thắng, ông biết rằng tôi muốn nhiều hơn thế. Nhưng tôi hiểu rằng không thể có mọi thứ ngay một lúc”. Sau đó Hồ bình thản lại ngay, quay sang nói với Pignon và Sainteny: “Tôi có một điều an ủi, đó là tình bạn giữa chúng ta”. Ban chấp hành TƯ họp sau lễ ký bàn cách tuyên truyền về hiệp định. Hoàng Quốc Việt được cử đi Sài gòn, Hoàng Minh Giám đi Huế, Võ Nguyên Giáp đi Hải phòng để giải thích về nội dung bản hiệp định.
Tin về bản hiệp định được loan trên các báo ngay sáng hôm sau và được dân chúng đón nhận với sự thờ ơ chen lẫn ngạc nhiên và giận dữ. Tình hình ở thủ đô khá căng thẳng. Các báo đối lập gọi Hồ là Việt gian. Đảng quyết định tổ chức một cuộc mít tinh của quần chúng trước cửa nhà hát lớn lúc 4h chiều để ủng hộ chính phủ. Phe đối lập đã cài người vào để gây kích động, một kẻ giấu mặt thậm chí đã ném một quả lựu đạn, may mà quên rút chốt. Giáp vừa mới quay về từ Hải phòng, lên diễn đàn giải thích nội dung hiệp định và kêu gọi mọi người bình tĩnh giữ vững trật tự. Giáp so hiệp định này với hiệp định Brest Litovsk mà Lê nin đã ký với Đức năm 1918, tuy có nhượng bộ một phần lãnh thổ Nga nhưng cuối cùng dẫn đến độc lập hoàn toàn. Tiếp theo một số diễn giả, Hồ xuất hiện trên ban công:
Đất nước chúng ta được tự do từ tháng 8/1945. Nhưng đến giờ, chưa có một cường quốc nào công nhận điều đó. Bản hiệp định này mở đường cho việc công nhận quốc tế và nâng cao vị thế của Việt nam trên thế giới. Chúng ta đã trở thành một dân tộc tự do. Quân Pháp sẽ rút khỏi Việt nam. Đồng bào cần phải bình tĩnh, giữ gìn kỷ luật, củng cố khối đoàn kết dân tộc. Tôi, Hồ Chí Minh, đã cùng với các đồng chí của mình chiến đấu suốt đời vì độc lập của Tổ quốc. Tôi thà chết chứ không thể phản bội đất nước của mình.
Sự chân thành và xúc động trong phát biểu của Hồ đã gây ấn tượng. Buổi mitting kết thúc trong tiếng hô vang dậy “Hồ Chí Minh muôn năm”.
Nhưng các lãnh đạo đảng thì thực tế hơn. Hai ngày sau, ủy ban thường vụ ra nghị quyết với tên gọi “Hoà để tiến”, nêu rõ “Tổ quốc đang lâm nguy, thoả thuận với Pháp cho chúng ta thêm thời gian bảo toàn lực lượng, củng cố vị trí để có thể nhanh chóng tiến tới độc lập hoàn toàn”. Võ Nguyên Giáp quay lại Hải phòng để đàm phán với Leclerc về các điều khoản quân sự quy định trong hiệp định tạm thời. Nguyễn Lương Bằng được cử lên Thái nguyên để chuẩn bị căn cứ kháng chiến, Hoàng Văn Hoan được cử đi Thanh hoá cũng với mục đích đó. Hồ Chí Minh gửi thư cho đồng bào Nam bộ thông báo về việc ngừng bắn, nhưng kêu gọi giữ vững kỷ luật và chuẩn bị. Tại Paris, bản hiệp định được chào đón tích cực. Bộ trưởng thuộc địa Marius Moutet trình lên chính phủ và được phê duyệt về nguyên tắc. Thủ tướng Pháp Bidault còn gọi đây là mô hình để giải quyết tình hình ở các nước thuộc địa khác. Trong nước, các phần tử đối lập vẫn đòi chính phủ tìm kiếm sự ủng hộ của Tưởng hoặc Mỹ. Cố vấn Vĩnh Thuỵ xin và được phép đi Trùng khánh để trực tiếp kêu gọi Tưởng Giới Thạch giúp đỡ.
Ngày 18/3, 1200 quân Pháp trên 200 xe quân sự, chủ yếu là của Mỹ, tiến qua cầu Paul Doumer vào nội thành Hà nội trong sự hân hoan của kiều dân Pháp. Quân Tưởng đã rút khỏi thành phố trước đó mấy ngày. Dân Việt nam nhìn thấy đội quân được trang bị tối tân của Pháp đều choáng váng: “Chúng ta thua mất rồi, họ mạnh quá”. Trong khi Leclerc thừa biết rằng 1 sư đoàn khó có thể bình định được giải đất này. Chiều đó, Leclerc, Sainteny, Pignon cùng một số sĩ quan khác đến Bắc bộ phủ để chào Hồ Chí Minh và các thành viên chính phủ. Mặc dù Hồ và Leclerc nâng cốc chúc mừng tình hữu nghị Việt Pháp, không khí trong phòng họp cũng nặng chẳng kém gì ngoài phố. Tối đó, Hồ mở tiệc chiêu đãi. Một trong những khách mời danh dự là thiếu tá Frank White, đại diện mới của OSS. White được xếp ngồi ngay cạnh Hồ làm cho nhiều sĩ quan có cấp cao hơn cùng dự buổi tiệc đó cảm thấy khó chịu. Bản thân White cũng lúng túng. Nhưng Hồ nói: “nếu không nói chuyện với anh thì tôi nói chuyện với ai”. Theo White, không khí rất khách sáo. Bên Pháp thì chẳng có gì mà nói, quân Tàu do Lư Hán đứng đầu thì “say khướt”. Tuy nhiên Hồ cũng bi quan về sự quan tâm của Mỹ tới Đông dương. Sự thực là Truman cũng chẳng buồn động đến lá thư do Hồ gửi kêu gọi Mỹ ủng hộ Việt nam độc lập theo các điều khoản của hiến chương Liên Hiệp Quốc. Khi nghe tin về hiệp định Việt Pháp, ngoại trưởng Mỹ James Byrnes nói “thế là Pháp đã hoàn thành việc thâu tóm Đông dương”. Sau khi Churchil đọc bài diễn văn nổi tiếng về “bức màn sắt” tại Fulton, Missouri, quan tâm hàng đầu của Mỹ là chủ nghĩa cộng sản thế giới, chứ không phải việc công nhận Việt nam là “quốc gia tự do” trong khối liên hiệp Pháp.
Ngày 22/3, một cuộc diễu binh chung được tổ chức gần khu thành cổ Hà nội để hâm nóng “tình hữu nghị Việt Pháp”. Xe của Pháp toàn do Mỹ sản xuất, máy bay Spitfire thì của Anh. Đám đông thì bên nào vỗ tay quân bên đấy. Ngày hôm sau Leclerc rời Hà nội, bàn giao lại cho tướng Valluy. Tuy không có những giao tranh lớn, đã xảy ra đụng độ khi quân Pháp chiếm một số công sở và chỉ chịu rút sau khi nhân dân tổng bãi công.
Khi trao đổi với Sainteny, thống sứ Pháp là D’Argenlier ngỏ lời muốn gặp Hồ Chí Minh trực tiếp. Hồ nhận lời ngay vì thấy đây là cơ hội để có thể đàm phán chính thức tiến tới phê duyệt hiệp định sơ bộ càng nhanh càng tốt. Ngày 24/3, Hồ đội một chiếc mũ rộng vành, cùng với Giám và bộ trưởng ngoại giao mới Nguyễn Tường Tam, lên chiếc thuỷ phi cơ Catalina, bay đến Hạ long gặp D’Argenlier trên chiến hạm Emile Bertin. Sau khi xem những chiến hạm của D’Argenlier biểu dương lực lượng, hai bên trao đổi trong cabin của đô đốc. Hồ muốn phê chuẩn hiệp định ngay lập tức. D’Argenlier ngược lại, muốn các đại diện khác của Pháp làm quen với những điều khoản căn bản của hiệp định trước. D’Argenlier đề nghị tổ chức một cuộc họp trù bị dự kiến ở Đà lạt và sau đó sẽ đàm phán tiếp tục ở đó. Hồ đồng ý họp trù bị, nhưng sợ D’Argenlier sẽ kiểm soát tình hình ở Đà lạt, nên đề nghị chuyển địa điểm đàm phán sang Pháp, hy vọng có thể dùng uy tín cũ ảnh hưởng đến ý kiến của công chúng Pháp vốn đang rất dao động từ sau chiến tranh. Sainteny and Leclerc lại vào hùa với Hồ, cho rằng như thế Hồ sẽ đỡ bị sức ép của phe đối lập và quân Tưởng. Cuối cùng D’Argenlier cũng đồng ý. Cuộc gặp gỡ này là một bài tập hữu ích cho Hồ. Nó giúp ông được đối diện với một tay thực dân lõi đời như D’Argenlier và đã đứng vững trong cuộc nói chuyện. Trên đường về, Hồ chia sẻ với thuộc cấp của D’Argenlier là tướng Salan: “Nếu đô đốc nghĩ rằng hạm đội của ông ta làm tôi sợ thì ông ấy lầm to. Những chiến hạm to đùng đấy làm sao bơi ngược vào các cửa sông của chúng tôi được.”
Hội nghị trù bị được tổ chức tại Đà lạt vào giữa tháng 4/1946. Đoàn Việt nam gồm có Võ Nguyên Giáp và Nguyễn Trường Tam đã không thuyết phục được D’Argenlier thảo luận về tình hình Nam bộ lúc đó đang có giao tranh dữ dội mặc dù đã có lệnh ngừng bắn. Mâu thuẫn cũng phát sinh khi bàn về vị trí tương lai của Việt Nam trong khối Liên Hiệp Pháp. Đoàn Việt Nam cho rằng Việt Nam sẽ là một quốc gia có chủ quyền trong Liên hiệp. Pháp thì cho rằng Liên Hiệp Pháp là một nhà nước liên bang, mỗi quốc gia tự do cần phải nhượng bộ phần lớn chủ quyền cho cơ chế liên bang và thống sứ do Paris bổ nhiệm. Giáp quay về Hà nội rất thất vọng. Hồ an ủi, hai bên dù sao đã hiểu nhau hơn, các vấn đề khác biệt không phải là quá đối kháng và có thể thoả hiệp trong cuộc đàm phán sắp tới tại Pháp.Năm ngày sau, D’Argenlier bay ra Hà nội định thuyết phục Hồ hoãn chuyến đi với lý do cuộc vận động tranh cử ở Pháp đang đến hồi cao trào. D’Argenlier còn doạ hình như sắp tới sẽ thành lập Nhà nước Nam bộ tự trị, hoàn toàn đi ngược lại với những gì đã quy định trong hiệp định tạm thời giữa Hồ và Sainteny. Hồ quyết định không nhượng bộ.
Ngày 30/5/1946, hơn 50,000 dân đã đội mưa đến khuôn viên Đại học Đông dương để tiễn phái đoàn chính phủ đi Pháp đàm phán hoà bình. Phái đoàn do Phạm Văn Đồng dẫn đầu. Hồ không có trong thành phần đàm phán chính thức mà tham gia với tư cách “Khách mời danh dự” của chính phủ Pháp. Cùng đi có Salan. Hồ thề trước đám đông sẽ phục vụ quyền lợi Tổ quốc và nhân dân Việt nam, kêu gọi nhân dân tuân thủ các yêu cầu của chính quyền khi Hồ vắng mặt và tôn trọng người ngoại quốc. Sáng hôm sau, cả đoàn khởi hành từ Bắc bộ phủ, sang sân bay Gia lâm và cất cánh trên 2 chiếc Dakota. Tất cả đều mặc âu phục trừ Hồ vẫn chiếc áo khoác kaki và đi giày đen.
Paris chỉ thị cho phi công bay lòng vòng, bảo đảm phái đoàn chỉ đến Pháp khi kết quả bầu cử đã ngã ngũ. Chặng nghỉ đầu tiên là ở Calcuta (sau khi dừng tại Miến điện). Ra đón đoàn có Lãnh sự Pháp và đại diện chính quyền Anh. Cả hội được bố trí ở khách sạn Great Eastern hai ngày đi ngắm cảnh. Ngày thứ 4 đi Agra thăm Taj Mahal, sau đó đi Karachi, Iraq, đến Cairo ngày thứ bảy và ở lại đó 3 ngày. Trước khi rời Ai cập, Hồ nhận được tin D’Argenlier đã lập nhà nước Nam bộ tự trị và được chính phủ Pháp công nhận. Hồ yêu cầu Salan hành động để đừng biến Nam bộ thành “Alsace-Lorraine mới” có thể dẫn đến cuộc chiến tranh Trăm năm.
Cuộc bầu cử ở Pháp ngày 2/6 đã đánh đổ chính phủ xã hội của thủ tướng Guin. Trong khi chính phủ mới đang được thành lập, không rõ ai sẽ đứng ra tiếp đón chính thức phái đoàn. Paris đành phải lái chuyến bay đến bãi biển Biarritz trên vịnh Biscay. Các quan chức địa phương đã ra đón và đưa Hồ đến khách sạn Carlton ngay bờ biển, còn các thành viên khác được mời đến chỗ ít sang trọng hơn. Sau đó các thành viên khác được đưa đến Paris, còn thủ tướng bảo thủ mới bầu Georges Bidault phái Sainteny đến hầu chuyện Hồ mấy ngày ở Biarritz cho đến khí chính phủ mới được thành lập xong. Hồ rất lo lắng về diễn biến tình hình Paris và đặc biệt ở là Đông dương. Có vẻ như D’Argenlier đang làm mọi cách để phá hoại hiệp định sơ bộ giữa Hồ và Sainteny. Sainteny ra sức trấn an Hồ là quốc hội Pháp sẽ không công nhận Nam bộ nếu không có kết quả trưng cầu ý dân. Saiteny cố gắng làm cho Hồ khuây khoả. Thỉnh thoảng hai người đến thăm biệt thự của em gái Sainteny tại Hendaye, ở đó Hồ chơi đùa hàng giờ với cháu gái của Sainteny trên bãi biển. Hồ còn đi xem đấu bò ở biên giới Tây ban nha, thăm tu viện Lourdes. Khi ăn trưa tại làng đánh cá nhỏ Biristou, Hồ đã để lại dòng lưu niệm: “Đại dương và biển cả không thể chia cắt những người anh em gắn bó với nhau”. Có hôm, họ dành cả ngày đi đánh cá trên biển ở St-Jean de Luz. Hồ có vẻ thích thú, tự câu được mấy con cá ngừ và tán ngẫu với thuyền trưởng. Khi bàn đến phong trào ly khai xứ Basque ở trong vùng, Hồ nhấn mạnh: “Riêng khoản này tôi có kinh nghiệm hơn anh, tôi e rằng người anh em Basque nên nghĩ rất kỹ trước khi hành động”. Vào những năm sau này, thỉnh thoảng Hồ có nhắc lại đây là một trong những ngày hạnh phúc nhất của đời ông.
Hồ còn dành một số thời gian cho việc nhà nước. Ông vào vai “Bác Hồ” tiếp các đại diện Việt kiều, công đoàn và phóng viên báo Nhân đạo. Hồ quan tâm đến mọi thứ, mọi người, cư xử hết sức giản dị và nhũn nhặn. Nhưng cũng có lúc Hồ tỏ ra cứng rắn. Khi được một đảng viên xã hội Pháp thông báo là Việt minh đã ám sát phần tử Troskit Tạ Thu Thâu tại Sài gòn, Hồ đã khóc “người yêu nước vĩ đại” nhưng sau đó nói thêm “Tất cả những người đi sai đường đều sẽ bị loại bỏ”.
Ngày 22/6 Hồ và Sainteny bay đến Paris qua vùng đồng bằng sông Loa tuyệt đẹp. Sainteny kể lại, khi máy bay chuẩn bị hạ cánh “ Hồ Chí Minh tái mặt, mắt chớp liên tục, thậm chí cổ họng nghẹn lại, không nói được nên lời”. Khi máy bay chạy chậm trên đường băng, Hồ cầm tay Sainteny: “Hãy ở gần tôi. Đông người quá”
Sân bay Bourger quả thật hôm đó rất đông. Cờ Việt nam và cờ Pháp tung bay trong gió. Đón Hồ Chí Minh tận sân bay là Maurius Moutet, bộ trưởng hải ngoại, cũng là bạn cũ của Hồ thời sau Thế chiến I. Sau vài nghi lễ ngoại giao, Hồ được bố trí đưa về căn phòng suit (- cao cấp), khách sạn Royal Monceau phố Hoche. Hình ảnh lãnh tụ du kích loay hoay xoay xở với những đồ vật sang trọng của căn phòng khắc đậm trong trí nhớ của Saiteny. Sainteny còn nghi ngờ là thể nào Hồ cũng ngủ trên thảm sàn chứ không phải trên giường.
Chính phủ Bidault đến tận ngày 26 mới chính thức nhậm chức, bởi thế đàm phán chỉ có thể bắt đầu vào tháng 7. Hồ loanh quanh thăm thú những chỗ trước đây, ra rừng Boulogne rồi đến ngõ Compoint. Hồ còn đề nghị Sainteny đưa đến bãi biển Normandy nơi đồng minh đổ bộ. Hồ ngủ tại biệt thự của Sainteny ở gần đó và dậy rất sớm để tán gẫu và hỏi kinh nghiệm chăn nuôi của các nông dân Pháp.
Hồ còn phải tiếp đón vô số khách khứa, dưới sự chỉ đạo của vụ trưởng lễ tân Jacques Dumaine. Nhưng nói chung là Hồ làm đơn giản, mời tất cả những người muốn phỏng vấn đến ăn sáng với ông từ 6h sáng và ăn mặc bình thường. Kể cả tại tiệc chiêu đãi tân thủ tưởng Bidault tối 4/7, Hồ cũng chỉ cài kín cổ chiếc áo kaki của mình cho trang trọng, tuy nhiên vẫn diện đôi dép cao su. Trong một bữa tiệc do Sainteny tổ chức tại nhà riêng, Hồ đã gặp lại Albert Sarraut. Ông này kêu lên: “Cuối cùng thì tôi cũng tóm được ngài, tôi đã phải tốn gần cả đời để theo đuổi ngài” rồi ôm chầm lấy rất thân thiết. Saraut chỉ quan tâm không biết trường A. Saraut ở Hà nội có còn không? Hồ cũng xin gặp De Gaule nhưng không được vì Charle “Lớn” không thích can thiệp vào công việc của chính phủ sau khi ra nghỉ hưu ở Colombey. Lạ nhất là Leclerc lại tìm cách tránh Hồ mặc dù cả hai có vẻ rất thân nhau ở Đông dương. Sainteny cho rằng các hoạt động của Leclerc tại Đông dương bị các giới chức quân sự Pháp phê phán dữ dội nên ông này tránh đổ thêm dầu vào lửa. Cũng có thể là Leclerc cho rằng Hồ đã lừa mình khi khăng khăng khẳng định là chính phủ Việt Nam không chuẩn bị chiến tranh.
11h sáng 2/7, ôtô cùng với Dumaine đón Hồ đến khách sạn Matignon dự lễ tiếp đón chính thức của Bidault. Trong bài phát biểu khai mạc, Bidault xin lỗi về sự chậm trễ tiến hành đàm phán hoà bình và nhắc đến tình hữu nghị lâu đời giữa hai dân tộc. Ông này miêu tả Khối Liên hiệp Pháp mới sẽ thấm đẫm tính nhân đạo và hy vọng hai bên sẽ đàm phán chân thành và trên tinh thần hiểu biết lẫn nhau. Đáp lời, Hồ nhắc lại Paris là cái nôi của những lý tưởng cao cả của cách mạng Pháp năm 1789. Hồ dự đoán đàm phán sẽ khó khăn nhưng sẽ thành công nếu cả hai bên đều “không làm với người khác những điều mà không muốn người khác làm với mình”. Ngày hôm sau, Hồ đi bộ trên đại lộ Champ-Elysees, đặt hoa tại mộ chiến sĩ vô danh cạnh Khái hoàn môn, kéo theo một đám đông người tò mò. Hồ nói đùa “Họ muốn xem Charlie Chaplin của châu á như thế nào.” Hồ cũng đến điện Versailles nơi ông đã trao “Bản kiến nghị” cho lãnh đạo các nước đồng minh thắng trận sau Thế chiến I, thăm mộ Napoleon tại điện Les Invalides và thăm tượng đài kỷ niệm các chiến sĩ du kích bị Đức hành hình trên núi Valerian ở Monmartre.
Cuộc đàm phán chính thức bắt đầu từ ngày 6/7 tại cung Fontainebleau cổ kính. Đoàn Pháp do Max André (đã được De Gault cử sang Đông dương hồi tháng Giêng) lãnh đạo. D’Argenlier đã đề nghị bay về Paris làm trưởng đoàn nhưng Bidault từ chối vì sợ phản ứng của Việt nam và công chúng Pháp. Thành phần chính trị tương đối hỗn hợp gồm cả đảng viên Đảng CS Pháp (FCP), đảng Xã hội và đảng Nhân dân cộng hoà (MRP) của Bidault.
Tình hình Việt nam trước đàm phán xấu đi nhanh chóng. Ngày 1/6, chính quyền Nam bộ do Nguyễn Văn Thịnh lãnh đạo đã nhậm chức ở Sài gòn. Tại Hà nội, quân Pháp chiếm toà nhà Thống sứ, biểu tượng quyền lực ở Đông dương. Chỉ sau khi bị phía Việt nam phản đối kịch liệt, Valluy mới chịu rút ra và tổ chức canh gác chung cùng với quân đội Việt nam đợi kết quả đàm phán ở Paris. Phạm Văn Đồng đã đả kích những hành động này của Pháp ngay trong phiên khai mạc. Hai bên cũng thống nhất được nội dung gồm 3 phần: vị trí Việt nam trong Liên hiệp Pháp, quan hệ với các nước thứ ba và thống nhất 3 miền. Tuy nhiên các bên vẫn giữ nguyên ý kiến như tại Hội nghị tháng Tư ở Đà lạt. Người Pháp đặc biệt khó chịu khi nói đến chuyện Nam bộ, đòi rút tất cả các quân của miền Bắc trước khi có ngừng bắn, họ cũng đưa ra một định nghĩa rất hẹp cho khái niệm “quốc gia tự do”. Một số còn tỏ thái độ coi thường bằng cách thường xuyên vắng mặt tại các cuộc họp. Đoàn Việt Nam hy vọng sự ủng hộ từ FCP và may ra thì từ cả đảng Xã hội. Báo chí hai đảng này đều có thái độ ủng hộ Hồ Chí Minh rõ rệt.
Trước đó đoàn đại biểu quốc hội cũng đã đến Pháp và nối lại quan hệ với FCP. Tuy vậy, mặc dù nhiều đảng viên FCP có thiện chí với ước vọng của Việt Nam, lãnh đạo đảng FCP tỏ ra nghi ngờ trước động thái giải tán Đảng CS Đông Dương (ICP) hồi tháng 11 năm ngoái. FCP cũng đang bị cuốn vào làn sóng khôi phục tinh thần dân tộc chủ nghĩa sau chiến tranh tại Pháp. Sainteny đã biết thái độ của FCP khi ông trình bản hiệp định sơ bộ lên Maurice Thorez, một thợ mỏ được đôn lên phó thủ tướng. Thorez duyệt bản hiệp định và nói thêm: “Nếu Việt nam không tuân thủ những điều khoản này, hãy để nòng súng nói chuyện hộ chúng ta”.
Hồ không tham gia vào cuộc đàm phán chính thức mà lợi dụng tất cả các cơ hội bằng uy tín và sự cuốn hút của mình để tìm kiếm sự ủng hộ cho sự nghiệp của Việt nam. Có người gọi những hoạt động này là “Chiến dịch làm duyên” của Hồ. Hồ gặp đại diện tất cả các đảng phái chính trị, nói chuyện với tất cả các nhà báo và trí thức nổi tiếng. Hồ còn đề nghị ông bạn cũ là Thorez giúp ảnh hưởng đến chính phủ Pháp. Không rõ Thorez trả lời thế
nào.
Do không có thông tin từ các cuộc hội đàm, xem ra công chúng thì ủng hộ Việt nam còn phe bảo thủ chống lại. Không khí khá nóng trong xã hội Pháp. Ngày 12/7 Hồ Chí Minh tổ chức cuộc họp báo để trình bày quan điểm của chính phủ mình. Hồ nhấn mạnh, Việt Nam tìm kiếm độc lập dân tộc và không tán thành phương án liên bang. Tuy nhiên Việt Nam sẵn sàng chấp nhận độc lập trong khuôn khổ Liên hiệp Pháp. Hồ tuyên bố các tỉnh Nam bộ là một phần không thể tách rời của Việt nam và không thể đàm phán riêng rẽ. Hồ hứa sẽ bảo vệ tất cả các tài sản và quyền lợi kinh tế của Pháp ở Đông dương, bảo đảm quyền ưu tiên cho Pháp khi Việt nam cần sự trợ giúp của nước ngoài. Khi một phóng viên Mỹ hỏi, có phải Hồ là cộng sản? Hồ thừa nhận là học trò của Marx, tuy nhiên cho rằng chủ nghĩa cộng sản đòi hỏi một nền công nghiệp phát triển do đó không có điều kiện xây dựng ở Việt Nam. Ai mà biết được bao giờ giấc mơ thế giới đại đồng của Marx được thực hiện. 2000 năm trước Jesus cũng đã dạy ta phải yêu kẻ thù của mình, bây giờ có thấy ở đâu đâu?
*************
FCP : Đảng CS Pháp
ICP : Đảng CS Đông Dương
Tại Sài gòn, D’Argenlier bắt đầu các hành động nhằm gây ảnh hưởng đến cuộc đàm phán. Ngày 23/7, có tin đồn là D’Argenlier dự kiến sẽ tổ chức hội nghị tại Đà lạt ngày 1/8 để thành lập liên bang Đông dương gồm Nam bộ, Nam Trung bộ, Tây nguyên, Lao, Cambodia. Phạm Văn Đồng lập tức bỏ cuộc họp, phía Pháp phải hứa trình chính phủ xem xét. Việt minh cũng tiến hành một loạt các cuộc tấn công vào các quyền lợi của Pháp. Ngày 26/7, Hồ Chí Minh đến Fontenebleau và thuyết phục được 2 bên ngồi lại bàn đàm phán. Nhưng không được bao lâu. Ngày 1/8, D’Argenlier vẫn tiến hành hội nghị Đà lạt, đoàn Việt Nam sau khi chính thức phản đối, không được chính phủ Pháp trả lời, đã rời bàn họp. Hồ lại phải nhờ đến ông bạn cũ Moutet để tìm ra công thức nối lại đàm phán. Moutet cho rằng đàm phán với Hồ vẫn là tốt hơn cả, trên tinh thần hiệp định sơ bộ 6/3. Tuy nhiên hai bên phải giảm cường độ phê phán, tuyên truyền và khiêu khích. Moutet dự đoán là Việt Minh sẽ thắng trong bất cứ cuộc bầu cử tại Nam bộ nếu pháp luật ở đó không được khôi phục. Cuối tháng 8, các cuộc đàm phán được nối lại. Tuy nhiên phía Pháp kiên quyết không chịu chấp nhận độc lập của Việt Nam cũng như định chính xác ngày trưng cầu ý dân tại Nam bộ, ngày 10/9 đoàn Việt nam bỏ bàn họp. Ba ngày sau, họ lên tàu về nước để Hồ Chí Minh ở lại một mình.
Khi đàm phán rơi vào bế tắc, Sainteny đã đề nghị Hồ Chí Minh về nước để dẹp những tư tưởng chống Pháp ở trong nước, nhưng Hồ không thể ra về “tay trắng” và quyết định ở lại. Chính phủ Pháp gây sức ép bằng cách không trả tiền tại Roayl Monceau. Hồ chuyển đến nhà người quen là Raymond Aubrac tại Soysy-sous-Montmorency và tiếp tục tiếp khách, trả lời phỏng vấn. Hồ kêu gọi Moutet “đừng để tôi rời Pháp trong tình trạng này, hãy trang bị cho tôi chống lại những kẻ muốn tiêu diệt tôi, ông sẽ không phải tiếc”.
Ngày 11/9, Hồ tổ chức họp báo nhấn mạnh Việt Nam muốn tìm kiếm thoả thuận. Hồ cho rằng những mâu thuẫn hiện tại cũng như mâu thuẫn trong gia đình, dự đoán có thể ký hiệp định trong 6 tháng và hứa sẽ ổn định tình hình tại Đông dương. Cùng ngày Hồ gặp đại sứ Mỹ Jefferson Caffery tại đại sứ quán. Caffery trong báo cáo về Washington đã nhận định rằng Hồ Chí Minh rất có tư cách và đúng mực trong nói chuyện, dự định lôi kéo Mỹ vào đàm phán để gây sức ép với Pháp. Ngày hôm sau, Hồ gặp George Abott, bí thư thứ nhất sứ quán Mỹ sau này là tổng lãnh sự Mỹ tại Sài gòn. Hồ nhắc lại chuyện hợp tác với Mỹ trong chiến tranh, bày tỏ sự ngưỡng mộ với Rousevelt, kêu gọi Mỹ giúp đỡ kinh tế cho Việt nam vì Pháp quá nghèo không thể làm gì được. Cuối buổi, Hồ nhắc khéo về chuyện Mỹ có thể sử dụng Cam Ranh làm căn cứ hải quân cho mình.
Một số chuyên gia châu á của Bộ ngoại giao Mỹ cũng tỏ ra lo ngại. Abott Low Moffat của vụ Đông Nam Á trong một bức thư gửi thứ trưởng phụ trách các công việc Viễn đông John Carter Vincent đã cảnh báo: “tình hình đã trở nên nghiêm trọng” ở Đông dương do Pháp vi phạm hiệp định 6/3. Người Việt rất phẫn nộ về các hành động của Pháp dẫn đến Pháp sẽ sử dụng vũ lực để tái chiếm Đông dương. Moffat khuyến cáo bộ ngoại giao nên “bày tỏ Mỹ hy vọng Pháp sẽ tuân thủ các điều khoản của hiệp định 6/3, ổn định trật tự và bảo đảm quyền lợi của các dân tộc phụ thuộc”. Tất nhiên chính phủ Truman chẳng dại gì mà dây với Pháp vào thời điểm chính trị nhạy cảm này của nước Pháp. Thêm nữa, có tin báo chính phủ Hà nội chẳng qua là công cụ của Kremlin để mở rộng ảnh hưởng sang châu Á. Tháng 8, tổng lãnh sự Charles Reed nhận được điện phải tìm hiểu tương quan giữa cộng sản và không cộng sản trong chính phủ, cũng như đường lối của Hồ và các đồng chí. Reed đã thông báo cho Washington rằng người Việt Nam đều tin là Mỹ ủng hộ Pháp, bằng chứng là lính Pháp cưỡi xe Jeep chạy trên đường, khí tài quân sự mà Pháp sử dụng được lấy từ kho quân dụng của Mỹ ở Manila nên vẫn còn nguyên phù hiệu của quân đội Mỹ. Bộ ngoại giao đã báo cho Nhà trắng về tình hình này, nhưng Truman quyết định không can thiệp.
Quyết định của Hồ Chí Minh ở lại Paris sau khi cả đoàn đàm phán đã về nước đã gây nên tranh luận lớn. Một số nhà quan sát Pháp cho rằng Hồ muốn ăn vạ chính phủ Pháp những điều mà Hồ không thoả thuận được trên bàn đàm phán. Một số cho rằng lời kêu gọi tới Moutet là không chân thành vì cuối cùng Hồ đã ra lệnh cho chính phủ tiến hành chiến tranh chống Pháp, mà nếu có chân thành thì đã chắc gì Hồ bảo được đám thuộc cấp cũng như kiểm soát được tình hình lộn xộn ở Đông dương. Đúng thế, ở Việt nam, và thậm chí ngay trong giới Việt kiều ở Pháp, tinh thần chống Pháp đang lên cao và Hồ chịu sức ép to lớn trước bất kỳ thoả hiệp nào. Saiteny thì tin rằng Hồ chân thành, bằng chứng là Hồ đã bỏ nhiều công sức để xoa dịu lòng căm thù Pháp trong dân chúng. Bidault thì cho rằng Hồ chỉ diễn “tình hữu nghị” còn trên thực tế đã chỉ đạo Hà nội chuẩn bị chiến tranh.
Bidault không phải là không có lý, Trong một cuộc phỏng vấn Hồ ngày 11/9, phóng viên Newyork Times David Schoenbrun đã hỏi thẳng: “Liệu ông có nghĩ chiến tranh là không thể tránh khỏi?”. Hồ đã trả lời “Chắc chắn chúng tôi sẽ phải chiến đấu. Người Pháp ký hiệp định và vẫy cờ chào đón tôi. Nhưng tất cả chỉ là để che mắt”. Khi David cho rằng bắt đầu cuộc chiến tranh mà thiếu quân đội và vũ khí thì thật là vô vọng, Hồ đã phản đối: "Không, không vô vọng. Đó sẽ là một cuộc chiến gay go và quyết liệt nhưng chúng tôi sẽ thắng. Chúng tôi có một vũ khí mạnh chẳng kém những cỗ đại bác: đó là tinh thần dân tộc! Đừng có đánh giá thấp điều đó. Người Mỹ chắc hẳn phải nhớ là một đám nông dân chân đất Mỹ đã đánh thắng quân đội hoàng gia Anh như thế nào ". David cho rằng đó là chuyện xưa rồi. Còn bây giờ vũ khí đã phát triển đến mức quyết định. Hồ nhấn mạnh, vũ khí lúc nào cũng có thể mua được, và tinh thần anh dũng của con người mới là quyết định, như các du kích Nam tư đã đánh thắng phát xít Đức. “Hàng triệu cây tầm vông sẽ mọc lên sau lưng quân thù” và đây sẽ là cuộc chiến Giữa hổ và voi. Nếu hổ đứng yên, chắc chắn voi sẽ dẫm bẹp. Nhưng hổ nấp trong rừng và sẽ xuất hiện ban đêm, cắn một miếng rồi lại biến mất vào rừng sâu. Dần dần voi sẽ chảy hết máu mà chết. Đó sẽ là cuộc chiến tranh Đông dương .
Do vẫn có hy vọng là Đảng CS Pháp - FCP sẽ lên nắm quyền ở Pháp, Thorez đã thuyết phục Hồ hoãn tiến hành các hoạt động quân sự để tìm biện pháp ngoại giao. Ngày 14/9 ngay trước khi đi gặp Moutet, Hồ đã cảnh cáo Sainteny là nếu không đạt được thoả thuận, chắc chắn chiến tranh sẽ xảy ra. “Mỗi người các ông bị giết, các ông sẽ giết 10 người của chúng tôi. Nhưng các ông mới là người bỏ cuộc trước”. Trong cuộc gặp Hồ đã đề nghị hai bên cùng chịu trách nhiệm về tình hình ở Nam bộ, nhưng Moutet từ chối, cho rằng Việt nam tham gia vào uỷ ban theo dõi tình hình là vi phạm chủ quyền của Pháp. Moutet đề nghị ký bản Ghi nhớ (modus vivendi) để tránh cho đàm phán đổ vỡ hoàn toàn. Bản ghi nhớ kêu gọi ngừng bắn tại Nam bộ từ ngày 30/10 và nối lại đàm phán vào tháng Giêng 1947. Hồ không đồng ý và rời bàn đàm phán lúc 11h đêm, tuyên bố sẽ trở về Đông dương vào thứ hai 16/9. Sau nửa đêm, Hồ liên lạc lại với Moutet. Hai bên đồng ý về nguyên tắc là đại diện VN được uỷ quyền hợp tác với D’Argenlier để tiến tới hoà bình tại Đông dương. Hồ đã đồng ý ký bản Ghi nhớ. Bản Ghi nhớ là tất cả những gì Hồ có được sau 2 tháng đàm phán tại Fontenableau. Saiteny nhớ lại mẩu giấy “nóng bỏng” đó đã được soạn thảo vội vã ngay trong phòng làm việc của ông và cho Hồ “ít hơn nhiều cái mà ông ta hy vọng”. Tại Đông dương, người Pháp thở phào, còn người Việt cảm thấy bị làm nhục. Hồ đã nói với
Sainteny khi cuộc họp kết thúc lúc 3h sáng: “Tôi đã ký vào bản án tử hình của tôi”
Kỳ lạ là sau khi ký kết thoả thuận, Hồ Chí Minh cũng có vẻ không vội vàng gì quay về Việt nam. Hồ từ chối chiếc máy bay do chính phủ Pháp bố trí, lấy cớ là sức khoẻ yếu và đề nghị được đi tàu thuỷ. Trong khi Sainteny đang lưỡng lự, Hồ liên lạc thẳng với bộ trưởng hàng hải và được đồng ý lên tàu Dumont D’Urville khởi hành từ Toulon. Ngày 16, Hồ và Sainteny lên tàu đi Toulon. Tại Montelimar, Hồ đã xuống tàu và gặp đoàn đại biểu sinh viên Việt Nam để giải thích về Bản ghi nhớ và khuyên sinh viên cố gắng học tập. Tại Marseill, Hồ cũng làm tương tự, mặc dù trong đám đông có nhiều tiếng kêu “Việt gian”. Ngày 18/9 Hồ đến Toulon và lên tàu về nước. (Đoàn Việt nam cũng khởi hành từ đây 4 ngày trước đó trên tàu Pasteur). Cùng đi với Hồ là một số trợ lý và 4 sinh viên mới kết thúc năm học trở về Việt nam. Sáng ngày 19/9, con tàu mang cờ đỏ sao vàng do thuyền trưởng Gerbaud chỉ huy nhổ neo nhằm hướng Địa trung hải thẳng tiến.
Ngay ngày đầu, Hồ đã điện về Hà Nội để giải thích những điều khoản của Bản ghi nhớ. Hồ cũng gửi điện cảm ơn Moutet và hy vọng ông này sẽ giúp đỡ thực hiện hiệp định. Vài ngày sau, Hồ nhận được điện của Bidault và lập tức trả lời, cảm ơn về lòng hiếu khách, nhưng cũng nhận xét rằng nhân dân Việt nam không hài lòng về Bản ghi nhớ. Theo Hồ, đó cũng là chuyện thường tình “Tôi đã làm tất cả và chắc đã thành công, nếu những người bạn Pháp áp dụng những quyền tự do dân chủ tại Nam bộ, chấm dứt những khiêu khích vũ trang, trả lại tự do cho tù nhân và tránh dùng những từ ngữ xúc phạm. Tôi hy vọng vào sự hỗ trợ tích cực của ông để tiến hành công việc vì lợi ích của hai dân tộc”.
Ngày 22/9, tàu cập bến Port Said, cửa ngõ phía bắc của kênh Suez. Hồ gửi thư trả lời một phụ nữ Pháp kêu gọi ông đừng để xảy ra chiến tranh. Hồ nói Việt nam cũng như Pháp rất ghét đổ máu, nhưng cũng như dân Pháp, dân Việt mong muốn độc lập và thống nhất. Nếu Pháp công nhận những ước vọng chính đáng đó, Pháp sẽ chiếm được trái tim của cả dân tộc Việt nam. Điểm đến tiếp theo là cảng Djibuti thuộc Pháp, Hồ đã xuống tàu đến thăm Thống sứ. Sau đó tàu đến Ceylon, Colombo và Hồ được các đồng chí của Gandhi và Nehru chào đón.
Tàu đi chậm vì thỉnh thoảng phải dừng lại vài ngày để duy tu hoặc bắn vài loạt đại bác để hoàn thành nhiệm vụ tuần tiễu. Hồ sống đơn giản, chỉ có một bộ quần áo để thay và tự giặt lấy. Lúc rỗi rãi Hồ tán gẫu với các thuỷ thủ và sinh viên, dĩ nhiên là không quên công tác tuyên truyền. Một sinh viên cùng đi nhớ lại, Hồ đã nói: “Chúng ta không có gì, không có máy móc, nguyên liệu và cả thợ lành nghề. Bù lại chúng ta có sông núi, biển khơi và những con người mạnh mẽ, dũng cảm và sáng tạo”. Có người hỏi Hồ khi thuyền trưởng cho tàu thử pháo: “Họ thử thần kinh ông đấy, ông có sợ không?” Hồ đã cười phá lên. Đối với thuyền trưởng Gerbaud thì Hồ là một người “thông minh nhưng lý tưởng hoá, hiến dâng đời mình cho sự nghiệp mà ông ta tưởng tượng ra”
Ngày 18/10, tàu đến vịnh Cam ranh. D’Argenlier và tướng Morliere (người thay thế Sainteny, đại diện cho Pháp với chính phủ Hà nội) đón tiếp Hồ trên chiến hạm Suffren, lần thứ hai trong vòng 7 tháng, Hồ được xem diễu binh của hải quân Pháp. Hồ và D’Argenlier bàn về việc triển khai Bản ghi nhớ. D’Argenlier nhất trí hợp tác với đại diện của Việt nam để ngưng bắn, D’Argenlier cũng bày tỏ sự phản đối trước những hành động khủng bố diễn ra gần đây. Mặc dù 2 bên không thống nhất được về việc rút quân miền bắc ra khỏi miền nam, cuộc gặp đã kết thúc vui vẻ. D’Argenlier báo cáo về Paris, tất cả phụ thuộc hành động của chính phủ Việt Nam khi Hồ về đến Hà nội. 2 ngày sau, Dumont d’Urville vào cửa Cấm trong sự chào đón của đám đông hát Tiến quân ca và Marseillaise (theo đề nghị của Hồ). Tối hôm đó, Hồ chiêu đãi các đồng chí và báo cáo sơ bộ tình hình đàm phán 4 tháng qua. Sáng hôm sau Hồ lên tàu hoả về Hà nội và được đưa về Bắc bộ phủ nơi đã có hơn 100,000 người tụ tập chào đón.
Cho đến giờ, các nhà sử học vẫn băn khoăn là tại sao Hồ Chí Minh không trở về nước ngay. Lý do Hồ viện ra với chính phủ Pháp là sức khoẻ là không thể chấp nhận được vì Hồ chưa bao giờ để sức khoẻ của mình ảnh hưởng đến các mục đích chính trị. Một số người cho rằng, Hồ dành thời gian để Giáp tranh thủ diệt bớt bọn đối lập, tập trung quyền lực để chuẩn bị chiến tranh. Số khác thì nghĩ Hồ muốn những phản ứng tức thời về Bản Ghi nhớ lắng xuống đã. Sainteny thì đoán là Hồ sợ bị ám sát. Nhiều năm sau này, Hồ thừa nhận với các đồng chí ở Hà nội, đó là một trong những lo ngại lớn nhất của ông. Ông còn thêm vào “đi tàu thuỷ để xem nhiều sự thay đổi cũng hay”
Không hề nghi ngờ gì là Võ Nguyên Giáp đã sử dụng thời gian Hồ vắng mặt để tăng cường sự quản lý của Đảng với chính phủ. Đầu hè, Pháp đề nghị được tổ chức diễu binh nhân ngày 14/7. Theo tin tình báo, Giáp được biết là các phần tử đối lập sẽ tổ chức khiêu khích quân Pháp để phá vỡ đàm phán. Giáp từ chối Pháp vì lý do an ninh và ngày hôm sau tổ chức đột nhập trụ sở Việt quốc, phát hiện ra phòng tra tấn và một số tù nhân, cùng với kế hoạch bắt cóc con tin Pháp. Cuộc tấn công này đã chặn đứng âm mưu chống chính phủ nhưng đã làm sự căng thẳng giữa hai bên lên cao dẫn đến Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh và Nguyễn Tường Tam rút khỏi chính phủ. Quan hệ giữa chính phủ Viẹt Nam và Pháp cũng không lấy gì làm tốt. Mặc dù Morliere là người khá ôn hoà, sau khi hội nghị Fontenebleau thất bại, các cuộc đụng độ giữa người Pháp và người Việt xảy ra như cơm bữa. Mỗi lần lại thấy Morliere ra tối hậu thư để tìm thủ phạm nên nhân dân gọi ông này là “Tướng tối hậu thư”.
Cuộc chiến Nam bộ, đương nhiên là làm xấu thêm tình hình. Trần Văn Giàu bị phê phán vì những hành động tàn bạo được thay bằng Nguyễn Bình. Ông này trông võ biền, một mắt chột sau cặp kính đen. Đặc biệt ghét Pháp. Đã tham gia Quốc dân đảng từ cuối những năm 20, sau đó biến mất và đột ngột xuất hiện lại ở Việt bắc vào cuối thế chiến II tham gia Việt minh. Có thiên tài quân sự và mặc dù không phải là đảng viên vẫn được trao trách nhiệm tổng chỉ huy quân kháng chiến ở Nam bộ từ tháng 1/1946. Bình đã tổ chức những khu căn cứ du kích lớn ở phía bắc Sài gòn (sau này được biết đến như là chiến khu D), Đồng tháp mười và trong rừng U minh để từ đó quấy phá quân Pháp. Tuy nhiên Bình đã bỏ qua lời dặn của Hồ phải tránh vũ lực và tập hợp được đông đảo dân chúng. Bình đã đưa những hành động khủng bố lên tầm cao mới, đăch biệt là vụ ám sát Huỳnh Phú Sổ “mad bonze”, người sáng lập ra giáo phái Hoà Hảo.
Bốn tháng đi xa, chắc chắn làm Hồ Chí Minh phải nhìn nhận tình hình với con mắt khác. Một mặt các đồng chí đã giúp ông củng cố quyền lực dễ bề đưa ra các chính sách. Mặt khác những hành động đấy sẽ thu hẹp sự ủng hộ của đông đảo nhân dân mà Hồ Chí Minh đã dày công vun đắp trong những ngày sau Cách Mạng Tháng 8, sẽ đặt Hồ vào thế khó để thống nhất dân tộc trong cuộc chiến tranh dự kiến. Các đồng chí của Hồ như Giáp, Đồng, Việt, Chinh cũng lợi dụng khoảng thời gian này để thể hiện mình nhiều hơn trong Đảng. Nhiều người không tin là có thể hoà hoãn với Pháp mà phải nhanh chóng chuẩn bị chiến tranh. Trong bài diễn văn kỷ niệm 1 năm quốc khánh, Trường Chinh đã áp đặt tầm nhìn của mình cho cách mạng Việt nam, phê phán xu hướng “thoả hiệp không nguyên tắc”, không tin tưởng vào quần chúng, nhấn mạnh rằng chúng ta không sợ quân thù mà chỉ sợ “sai lầm của các đồng chí của chúng ta”. Mặc dù không ai dám phê bình Hồ công khai, rõ ràng là Hồ sẽ phải mất công hơn nhiều để thuyết phục các đồng chí của mình.
Đối với nhân dân, đặc biệt phía bắc, Hồ vẫn được coi là người mang những khát vọng của dân tộc. Ngày 23/10 Hồ tuyên bố với dân chúng, dù tình hình rất khó khăn nhưng nhất định Việt nam sẽ là một nước độc lập và thống nhất. Do Hồ thường từ chối nói về quá khứ mà chỉ nhận mình là “người yêu nước già” nên ít người biết được Hồ chính là Nguyễn Ái Quốc. Chị Hồ là Nguyễn Thị Thanh tình cờ nhận ra ảnh của em trên báo đã ra tận Hà nội thăm Hồ tại Bắc bộ phủ. Anh trai Hồ là Khiêm cũng lên thăm và được tiếp đón tại một căn nhà ngoại ô. Cả Thanh và Khiêm đều sống ở Kim liên, Khiêm chết năm 1950, Thanh chết 4 năm sau đó.
Việc đầu tiên của Hồ khi về đến Việt Nam làm họp ngay Ban thường vụ để phân tích tình hình và định ra kế hoạch hành động. Hai vấn đề chủ chốt là có đồng ý ngày ngừng bắn 30/10 và đối phó với phe đối lập. Hồ đề xuất triệu tập họp quốc hội để thông qua hiến pháp tiến tới thành lập chính phủ mới thay thế cho chính phủ liên hiệp đã bị yếu đi rất nhiều sau khi những người như Hải Thần từ chức.
Phiên họp quốc hội ngày 28/10 thật khác xa không khí thống nhất dân tộc của kỳ họp 7 tháng trước. Có tổng cộng 291 đại biểu trong số 444 đại biểu được bầu tham dự. Trong số 70 đại biểu chỉ định chỉ có 37 người đến. Khi một đại biểu đứng lên hỏi những người còn lại đâu, ông này được trả lời là cả lũ đã bị bắt theo yêu cầu của uỷ ban thường vụ quốc hội vì những tội hình sự. Trước đó vài ngày, hàng trăm nhân vật đối lập đã bị bắt, đã xảy ra xung đột vũ trang làm nhiều người chết trong đó có hai nhà báo. Tình hình khá căng thẳng. Các đại biểu ngồi thành 3 khối: bên trái là các đại biểu Đảng CS Đông Dương - CIP, đảng xã hội và đảng dân chủ đeo cà vạt đỏ. Trung tâm là các đại biểu Việt minh không cộng sản, bên phải là các đại biểu Việt quốc và Đồng minh hội. Sang ngày thứ hai, chính phủ xin từ chức và ba ngày sau quốc hội phê duyệt danh sách chính phủ mới do Hồ Chí Minh đệ trình. Danh sách chính phủ mới chỉ còn 2 phần tử ngoài Việt minh, trái ngược lại những gì Hồ hứa khi rời Paris là sẽ mở rộng thành phần chính phủ. Giáp giữ chân bộ trưởng Quốc phòng, Đồng bộ trưởng Kinh tế. Hồ là chủ tịch kiêm thủ tướng, kiêm bộ trưởng ngoại giao. Mặt trận liên hiệp với các đảng dân tộc tan vỡ. Có thể do các đảng dân tộc công khai đối lập chính phủ buộc ICP không thấy sự cần thiết phải thoả hiệp. Cũng có thể phe cứng rắn như Chinh, Việt, Liệu đang thắng thế (bằng chứng là mấy tuần sau, Chinh công bố một bài báo phê phán chủ trương cách mạng từng giai đoạn của Hồ).
Mấy ngày sau, quốc hội dự thảo Hiến pháp mới, mặc dù bị Chinh phê phán, rõ ràng là nội dung bản Hiến pháp rất ôn hoà và đáp ứng mong ước của đại đa số dân chúng. Chương về tổ chức chính trị nhấn mạnh bảo đảm các quyền tự do dân chủ và nhu cầu liên kết rộng rãi để chống lại việc khôi phục chế độ thực dân Pháp. Chương kinh tế bảo đảm quyền tư hữu và không đả động gì đến việc thành lập xã hội phi giai cấp. Người Pháp hẳn phải rất thất vọng khi bản Hiến pháp tuyên bố nền độc lập hoàn toàn cho Việt nam mà chẳng thấy đả động gì đến liên bang Đông dương hoặc khối Liên hiệp Pháp cả. Quốc hội đã phê duyệt Hiến pháp và uỷ quyền cho chính phủ quyết định ngày đưa vào hiệu lực. Ngày 14/11 Quốc hội giải tán, chỉ còn 242 đại biểu, trong đó chỉ có 2 thuộc phe đối lập
Trong khi quốc hội họp, hai bên cũng đã thử cố gắng tuân thủ điều khoản ngừng bắn của Bản ghi nhớ vào ngày 30/10, nhưng không ăn thua. D’Argenlier đề phòng Việt minh bất ngờ tấn công mình ở miền Bắc và miền Trung, đã chuẩn bị kế hoạch thay thế Hồ Chí Minh bằng một chính phủ ôn hoà hơn. Từ tháng 9, Pháp đã liên lạc với Bảo đại khi đó đang ở HongKong về khả năng ông này trở lại chính trường. Vào giữa tháng 11 D’Argenlier cũng đã chỉ thị Valluy chuẩn bị phương án tấn công nhanh cho trường hợp đàm phán đổ vỡ.
Với nguy cơ chiến tranh đã cận kề, Đảng cũng ra sức chuẩn bị vũ khí qua cảng Hải phòng để trang bị cho quân đội vì trên thực tế biên giới đường bộ đã bị quân Pháp phong toả. Hải phòng trở thành điểm nóng trong đàm phán giữa hai bên, nhất là vấn đề hải quan vì thuế nhập khẩu vốn là nguồn thu nhập chính của chính phủ thuộc địa trước đây. Được D’Argenlier bật đèn xanh, đầu tháng 11, quân Pháp chiếm trụ sở hải quan Hải phòng mặc cho phía Việt nam ra sức phản đối. Ngày 20/11, quân Pháp bắt một tàu Trung quốc chở xăng lậu được nghi là cho mục đích quân sự và kéo vào bờ. Các dân quân Việt nam đã nổ súng và Pháp lập tức đáp trả. Cuộc bắn nhau lan nhanh khắp thành phố trước khi được dập tắt bằng một lệnh ngừng bắn. Hai ngày sau, Valluy ra lệnh cho quân Pháp chiếm thành phố. Ngày 23/11, Pháp nã pháo vào khu phố Tàu đòi Việt minh phải hạ vũ khí. Hàng trăm thường dân chết, hàng ngàn người bị thương. Hơn 2000 quân Pháp tràn vào khu vực và vấp phải sức kháng cự mãnh liệt, trước khi Việt minh bỏ trận địa vào ngày 28/11.
Sự cố Hải phòng ngay lập tức được James O’Sullivan báo về Nhà trắng. Ông này nói mặc dù Việt minh khai hoả trước nhưng thái độ của Pháp là không thể chấp nhận được. Đại sứ Mỹ tại Pháp Caffery được lệnh bày tỏ sự không hài lòng với chính phủ Pháp. Phía Pháp trưng ra bằng chứng là chính phủ Hồ nhận chỉ thị từ Moscow. Từ Sài gòn, lãnh sự Mỹ là Charles Reed cũng cảnh báo là nếu Nam bộ rơi vào tay Việt minh, thì Lào và Cambodia sẽ nguy hiểm. Đây là một trong những phát biểu đầu tiên của một quan chức về cái sau này được gọi là “học thuyết domino”
Cuối tháng 11, bộ ngoại giao Mỹ cử Moffat vụ trưởng vụ Đông Nam á sang Đông dương để đánh giá tình hình và tìm hiểu bản chất của chính phủ Hà nội. Moffat là người công khai ủng hộ độc lập của Việt nam và được uỷ quyền thông báo với Việt Nam là Mỹ ủng hộ hiệp định 6/3 và có thể bảo được chính phủ Pháp. Moffat cũng dự kiến sẽ khuyên Hồ Chí Minh không dùng vũ lực và thoả hiệp trong vấn đề Nam bộ. Moffat đến Sai gon ngày 3/12 và ra Hà nội ngày 7/12.
Sullivan cho rằng Hồ đang “cực kỳ cô đơn” và thông tin công khai về chuyến viếng thăm của Moffat sẽ làm tăng uy tín của Hồ. Mặc dù rất ốm do lao phổi trở lại, Hồ vẫn mời Moffat đến Bắc bộ phủ. Hồ khẳng định mình không phải là cộng sản mà chỉ đấu tranh vì độc lập, kêu gọi Mỹ ủng hộ và nhắc lại đề nghị cho Mỹ sử dụng Cam ranh. Do không chuẩn bị trước vấn đề này, Moffat “không nói được câu nào” như về sau ông này điều trần trước Thượng viện Mỹ. Moffat khẳng định rằng Mỹ không thể có quan hệ ngoại giao chính thức với Việt Nam nếu Việt nam không thoả thuận được với Pháp về thể chế. Trong báo cáo sau khi rời Đông dương, Moffat nhận định chính phủ Hà nội đang nằm dưới sự kiểm soát của cộng sản và có thể có quan hệ với Nga - Xô và Trung cộng. Tuy nhiên ông này cũng thấy sự khác biệt giữa những phần tử ôn hoà xung quanh Hồ và các phần tử cứng rắn như Giáp. Moffat kết luận, hiện tại cần có sự hiện diện của Pháp để không những chống ảnh hưởng của Nga mà đề phòng Trung Quốc tấn công. Moffat đề nghị Mỹ ủng hộ thoả thuận trước khi tình hình tiếp tục xấu đi cho Pháp. Nhà sử học Pháp Philippe Devillers cũng nhận thấy sự chia rẽ trong lãnh đạo Việt minh giữa Hồ và những phần tử hiếu chiến hơn như Giáp, Việt. Bản thân Hồ cũng thường xuyên kêu gọi Pháp và các nước phương Tây giúp ông củng cố quyền lực với đối thủ. Nhưng cũng có người bi quan cho rằng đó là đòn của Hồ sử dụng để gây sức ép với Pháp.
Nhận xét của Moffat về quan hệ của Hà nội và Nga có vẻ không đúng, thực tế thì Hồ và các đồng chí của mình chỉ có thể biết được tình hình Nga xô qua Đảng CS Pháp - FCP. Báo cáo của Moffat cùng với cuộc nội chiến đang nóng lên ở Trung quốc đã dẫn Bộ ngoại giao Mỹ đi đến kết luận “Sự có mặt của Pháp ở khu vực là quan trọng, không chỉ để ngăn ảnh hưởng của Nga- Xô mà còn bảo vệ Việt nam và Đông nam á khỏi đế quốc Trung Quốc”.
Ngày 13/11 D’Argenlier đi Pháp xin thêm quân để có thể tiến hành tiến công phủ đầu. Không ngờ chính phủ Pháp vẫn đang hy vọng hoà hoãn. Bidault đang chuẩn bị chuyển giao quyền lực cho đảng Xã hội mới thắng cử, hứa là sẽ có thêm quân nhưng cũng cảnh báo rằng Đông dương không thể giữ được chỉ bằng quân sự. Trong khi đợi chính phủ mới được thành lập, Sainteny được bổ nhiệm thay thế cho Morliere. Saiteny đến Sài gòn ngày 23/11, chỉ vài giờ sau sự cố Hải phòng. Đợi ở đó vài ngày cho tình hình lắng xuống, ngày 2/12 Sainteny ra Hà nội với chỉ thị của D’Argenlier trong túi: “Danh dự quân sự đã được bảo vệ, uy tín của Pháp đang tăng, không nên làm tình hình căng thẳng thêm dồn chính phủ của Hồ vào những hành động cùng quẫn. Tôi cho rằng ông không nên ở trong dinh Thống sứ, dễ bị coi là hành động khiêu khích và quay trở lại phương pháp thống trị cũ” . Valluy cũng ủng hộ hoà hoãn, cho rằng “có thể Hồ không muốn chiến tranh”
Do ốm, Hồ Chí Minh không đón được Sainteny tại phi trường mà tiếp ông này vào ngày hôm sau, đúng ngày Pháp đổ thêm quân vào cảng Đà nẵng. Tuy nhiên Hồ đã được Hoàng Minh Giám tư vấn về thái độ hoà hoãn của Pháp. Hai bên không bàn chuyện gì nghiêm túc mà chỉ xoay quanh sức khoẻ của Hồ và chuyến đi từ Pháp về Việt nam. Mấy ngày sau, Sainteny mất luôn liên lạc với Hồ nên cứ bán tin bán nghi không biết Hồ có còn kiểm soát được tình hình nữa không? Mặc dù ghi nhận lo ngại của Hồ về sự thay đổi bất chợt nhưng Sainteny đã yêu cầu Hồ phải khai trừ những phần tử cực đoan khỏi chính phủ, bằng không Pháp sẽ dùng các biện pháp “cảnh sát”. Sainteny chia sẻ quan điểm của mình với Sullivan nhưng ông này tỏ ra bi quan: “Nếu ông muốn đuổi Việt minh đi thì e rằng sẽ mất thời giờ hơn nhiều”
Quãng giữa tháng 12, Hồ điện cho Blum- Thủ tướng mới của Pháp nêu ra những giải pháp cụ thể để giải quyết căng thẳng. Nhưng rõ ràng là Hồ đã không hy vọng vào các giải pháp chính trị. Tháng 10, Đảng CS Đông Dương - ICP thiết lập Uỷ ban quân sự để có thể bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng trong quân đội, cử chính uỷ cho từng đơn vị, lập cơ sở đảng tại tất cả các vùng quân sự. Văn Tiến Dũng, người sau này sẽ là tổng tư lệnh cuộc tiến công vào Sài gòn, chỉ đạo toàn bộ việc này. Theo tin tình báo Pháp, quân Việt minh nay được đổi thành Quân đội Nhân dân Việt nam - VPA có khoảng 60,000 quân ở phía Bắc được tổ chức thành 35 tiểu đoàn bộ binh và 3 tiểu đoàn pháo binh, cộng với khoảng 12.000 quân ở Nam bộ. Về vũ khí VPA có khoảng 35.000 khẩu súng trường, 1000 tiểu liên và 55 pháo. Việt minh đang tích cực chuẩn bị căn cứ, các quân xưởng ở Tân trào, Việt bắc và sơ tán các cơ quan chính phủ đến đó khi chiến tranh xảy ra. Đa số quân Việt Minh được bố trí ở ngoại ô, trong thành phố chỉ có khoảng 10,000 dân quân và thanh niên xung phong. Quân Pháp có vài ngàn lính lê dương, đóng chủ yếu trong thành và các điểm quan trọng như Dinh Thống sứ, nhà Ga, cầu Doumer- Long Biên và sân bay Gia lâm. Giáp nhận định là có thể giữ Hà nội được trong vòng 1 tháng để các cơ quan có thời gian rút ra chiến khu. Ngày 6/12, Hồ kêu gọi quân Pháp rút lui về các vị trí trước ngày 20/11 nhưng không được đáp lại. Trả lời phỏng vấn báo Pháp vào ngày hôm sau, Hồ nói “chúng tôi bị áp đặt chấp nhận cuộc chiến này, chúng tôi thà đấu tranh chứ không hy sinh sự tự do của mình”
Cũng lúc đó, tướng Valluy hiểu rằng Hồ không hề có ý định loại các phần tử cực đoan ra khỏi chính phủ. Valluy xin chỉ thị được hành động ngay sau khi quân tăng viện đến, nếu để đến sang năm sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi của Pháp. Nhưng thủ tướng Blum có vẻ chưa muốn dùng đến quân sự. Ngày 12/12, Blum tuyên bố sẽ xem xét việc công nhận độc lập của Việt nam. Ba ngày sau, Hồ trao cho Sainteny bức thư gửi thủ tướng Pháp với những đề nghị cụ thể. Sainteny điện vào Sài gòn nhờ chuyển sang Paris. Không rõ là các nhà lãnh đạo khác của Việt nam có thực sự hy vọng gì vào tuyên bố của Blum? Còn Giáp trong hồi ký của mình cho rằng Blum chỉ là công cụ của tư bản Mỹ và Pháp. Rõ ràng là Blum không lựa chọn một bộ trưởng cộng sản nào và tiếp tục bổ nhiệm D’Argenlier làm Đại diện toàn quyền ở Đông dương. Tuy nhiên nội các mới của Blum đã không quyết định được có tăng viện cho D’Argenlier hay không và có nên tiến hành những hành động quân sự tức thời hay không. Valluy, cũng như D’Argenlier quyết tâm duy trì sự có mặt của Pháp ở Việt nam đã quyết định cần phải khiêu khích để Việt nam khởi xướng những hoạt động thù địch đặt Paris vào sự đã rồi. Valluy ra lệnh cho Morliere phá huỷ các chiến luỹ trên đường phố. Khi nhận được điện của Hồ do Sainteny chuyển vào, Valluy đã tự bình phẩm thêm vào là phải tiến hành các hoạt động quân sự vào trước cuối năm. Bức điện chỉ được chuyển đến Paris vào ngày 19, khi đã quá muộn
Ngày 17, các chiến xa bắt đầu xô đổ các chiến luỹ, lính lê dương đứng đầy từ thành cổ ra đầu cầu Doumet - Long biên dọc đường đến sân bay. Ngày hôm sau, Pháp ra tối hậu thư cấm được xây các công sự trên đường phố, ngay buổi trưa hôm đó, lại ra tiếp tối hậu thư từ ngày 20, quân Pháp sẽ bảo đảm trật tự an ninh trên đường phố. Sáng ngày 19, Pháp yêu cầu Việt nam ngưng tất cả các hoạt động chuẩn bị chiến tranh, giải tán các đơn vị dân quân và chuyển giao toàn bộ việc bảo đảm an ninh cho Pháp. Tình hình rất giống ở Hải phòng, khi trung tá Debes ra hết tối hậu thư này đến tối hậu thư khác trước khi ném bom Hải phòng. Ngày 18, Hồ Chí Minh chỉ thị chuẩn bị tấn công các cơ sở của Pháp vào ngày 19. Cùng ngày, sợ thư gửi qua Sainteny không tới được Paris, Hồ đã điện thẳng cho Blum - Thủ tướng Pháp. Sáng 19, Hồ viết một bức thư cho Sainteny nhờ Hoàng Minh Giám chuyển hộ, nội dung viết: “Tình hình đã trở nên rất nghiêm trọng, trong lúc chờ đợi quyết định từ Paris, tôi hy vọng là ông sẽ cùng với ông Giám tìm được giải pháp để cải tiến tình hình hiện tại”. Theo giọng văn mà đoán thì rõ ràng Hồ cũng chẳng đợi trả lời một cách nghiêm túc. Chưa kể sáng hôm đó, Sainteny đã gửi cho Hồ một bức thư dài phản đối Việt minh nổi loạn giết chết và làm bị thương mấy người Pháp, đòi phải trừng trị ngay lập tức kẻ phạm tội. Do đã đồng thuận để Valluy khiêu khích, Sainteny hẹn gặp Giám sang sáng hôm sau. Khi được Vũ Kỳ báo tin Sainerny từ chối gặp Giám, ngay lập tức Hồ triệu tập họp uỷ ban thường vụ gồm Võ Nguyên Giáp , Lê Đức Thọ và Trường Chinh. Uỷ ban đã nhận xét trong hoàn cảnh hiện tại, không thể tiếp tục nhượng bộ và quyết định toàn dân kháng chiến. Uỷ ban cũng xem xét lời kêu gọi của Hồ gửi toàn thể đồng bào mới được Hồ dự thảo lúc trưa. Giáp được giao chỉ huy các hoạt động quân sự. Thời điểm tiến công được xác định là 8h tối. Sau đó Uỷ ban giải tán.
Buổi tối hôm đó 19/12. Sainerny đang chuẩn bị rời nhiệm sở về nhà riêng. Cũng như mọi người Sainteny biết rằng cuộc chiến đã có thể nổ ra bất cứ lúc nào. Khi đồng hồ tại bệnh viên Yersin điểm 8h, Sainteny nói với đồng nghiệp “Thế là không phải hôm nay rồi, tôi đi về nhà đây”. Đúng lúc Sainteny đang chuẩn bị bước vào xe, một tiếng nổ lớn phát ra. Điện tắt phụt, toàn thành phố chìm vào bóng tối. Sainteny chạy vội về nhà, lên chiếc xe bọc thép chạy thẳng vào thành. Được một đoạn, chiếc xe trúng mìn. Sainteny bị thương nặng nằm trong vũng máu trong gần 2h giữa các đồng đội quằn quại hấp hối.
Theo đúng kế hoạch, Việt minh đã đặt mìn nhà máy điện. Các đội dân quân tấn công các cơ sở của Pháp, còn biệt động thì thâm nhập vào tư dinh trong khu phố Tây. Giáp có 3 sư đoàn bố trí ở ngoại ô phía tây nam và cạnh Hồ Tây, nhưng quyết định không sử dụng. Quân Pháp bị bất ngờ lúc ban đầu nhưng nhanh chóng giành lại thế chủ động. Gần đến nửa đêm Pháp đã kiểm soát hầu hết những điểm trọng yếu. Một cánh quân tấn công Bắc bộ phủ suýt bắt được Hồ. Cuộc chiến tranh Đông dương lần thứ nhất bắt đầu.
Sự kiện 19/12 gây nên phản ứng dữ dội tại Pháp. Đa số cho rằng Việt minh đã tấn công khiêu khích các lợi ích và công dân Pháp. Nhưng nhìn kỹ có thể thấy vai trò của Pháp cũng rất quan trọng. Mặc dù, chính phủ Paris còn đang lưỡng lự trong việc có tiến hành chiến tranh không, thì các tướng Pháp ở Đông dương đã tự cho mình quyền hành động. Valluy cho rằng Hồ không thể hoặc không muốn kiểm soát các phần tử cực đoan trong chính phủ, nên đã quyết định ra tay trước khi lực lượng Pháp tại khu vực yếu đi. Tối hậu thư 17/12 đòi hỏi chuyển quyền kiểm soát an ninh trật tự ở thành phố cho Pháp rõ ràng là đã được tính toán để khiêu khích Việt minh. Liệu Hồ có thực sự muốn tránh chiến tranh hay chỉ “động tác giả” để có thêm thời gian chuẩn bị chiến tranh? Thực ra cũng chẳng cần trả lời. Là học trò của Tôn Tử, Hồ tin rằng chiến thắng đẹp nhất là chiến thắng không cần vũ lực. Để đạt được nó, ngoại giao và tuyên truyền là các vũ khí sắc bén làm chia rẽ và giảm năng lực chiến đấu của đối thủ. Đến ngày 19/12, Hồ và các đồng chí của mình hiểu rằng, không thể thoả hiệp được nữa. Vấn đề phải được quyết định trên chiến trường