Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
VĂN HÓA - ĐỜI SỐNG
Sách hay mỗi ngày
Hoàng Sa - Trường Sa
Công ước Luật biển 1982
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="Trang Dimple" data-source="post: 173651" data-attributes="member: 288054"><p style="text-align: center"><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="font-size: 18px"><span style="color: #ff0000"><strong>CÁC QUY ĐỊNH CỦA VIỆT NAM VỀ BIỂN </strong></span></span></span></p> <p style="text-align: center"><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="font-size: 18px"></span></span></p><p><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="font-size: 18px">Phù hợp với quá trình phát triển của Luật biển quốc tế, Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản pháp lý quy định chế độ pháp lý các vùng biển thuộc chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam, trong đó phải kể đến: Tuyên bố của Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam ngày 12/5/1977 về lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam (Tuyên bố về các vùng biển); Tuyên bố của Chính phủ ngày 12/11/1982 về đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải Việt Nam (Tuyên bố về đường cơ sở); Nghị định 30/CP ngày 29/01/1980 về hoạt động của tàu thuyền nước ngoài trong vùng biển Việt Nam; Nghị định 242/HĐBT ngày 05/8/1991 về việc nghiên cứu khoa học biển của các bên nước ngoài trong vùng biển Việt Nam; Nghị định 55/CP ngày 01/10/1996 về hoạt động của tàu thuyền quân sự nước ngoài vào thăm Việt Nam; Nghị định 49/1998/NĐ-CP ngày 13/7/1998 về quản lý hoạt động nghề cá của người và phương tiện nước ngoài trong các vùng biển Việt Nam; Nghị định 137/2004/NĐ-CP ngày 16/6/2004 về xử phạt vi phạm hành chính trên các vùng biển và thềm lục địa của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Luật Dầu khí năm 2000; Luật Thủy sản năm 2003; Luật Biên giới quốc gia năm 2003; Luật bảo vệ môi trường 2005; Pháp lệnh Bộ đội Biên phòng năm 1997; Pháp lệnh Cảnh sát biển năm 2008… Hiện tại, Việt Nam đang hoàn thiện để ban hành Luật về các vùng biển. Các văn bản pháp lý được nhà nước Việt Nam ban hành ngày càng hoàn thiện, tạo thành một hệ thống đồng bộ các quy định pháp luật điều chỉnh các hoạt động đa dạng của mọi cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước trên các vùng biển thuộc chủ quyền và quyền chủ quyền của Việt Nam nhằm bảo vệ vững chắc chủ quyền và các lợi ích chính đáng của nhà nước ta trên biển. </span></span></p><p><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="font-size: 18px"></span></span></p><p><strong><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="font-size: 18px"><span style="color: #ff0000">1. Quy định của Việt Nam về nội thủy</span></span></span></strong></p><p><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="font-size: 18px"></span></span></p><p><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="font-size: 18px">Năm 1982 Việt Nam đã ra Tuyên bố xác định đường cơ sở của mình, theo đó Điểm 5 quy định nội thủy là vùng nước phía trong đường cơ sở và giáp với bờ biển, hải đảo của Việt Nam. Để quản lý các hoạt động có yếu tố nước ngoài trong nội thủy, Việt Nam đã có các Nghị định 30/CP ngày 20/01/1980 về quy chế hoạt động của tàu thuyền nước ngoài hoạt động trên các vùng biển Việt Nam; Nghị định số 13/CP ngày 25/02/1994 ban hành Quy chế hoạt động hàng hải tại cảng biển và các khu vực hàng hỉa Việt Nam; Nghị định 55/CP ngày 01/10/1996 về hoạt động của tàu quân sự nước ngoài thăm Việt Nam… Các quy định của Việt Nam đều tương đồng với các quy định có liên quan của Công ước 1982.</span></span></p><p><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="font-size: 18px"></span></span></p><p><strong><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="font-size: 18px"><span style="color: #ff0000">2. Quy định của Việt Nam về Lãnh hải </span></span></span></strong></p><p><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="font-size: 18px"></span></span></p><p><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="font-size: 18px">Điểm 1 Tuyên bố về các vùng biển quy định: Lãnh hải của Việt Nam rộng 12 hải lý tính từ đường cơ sở. Việt Nam thực hiện chủ quyền đầy đủ và toàn vẹn đối với lãnh hải của mình cũng như đối với vùng trời, đáy biển và lòng đất dưới đáy biển của lãnh hải.</span></span></p><p><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="font-size: 18px"></span></span></p><p><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="font-size: 18px">Điểm 1 trong Tuyên bố về đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải quy định: Đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải của lục địa Việt Nam là đường gãy khúc nối liền các điểm có tọa độ ghi trong Phụ lục đính kèm theo Tuyên bố này.</span></span></p><p><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="font-size: 18px"></span></span></p><p><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="font-size: 18px">Luật biên giới quốc gia năm 2003 quy định: <em>Lãnh hải</em> của Việt Nam rộng mười hai hải lý tính từ đường cơ sở ra phía ngoài. Lãnh hải của Việt Nam bao gồm lãnh hải của đất liền, lãnh hải của đảo, lãnh hải của quần đảo (Điều 9). <em>Đi qua không gây hại trong lãnh hải</em> là việc tàu thuyền nước ngoài đi trong lãnh hải Việt Nam nhưng không làm phương hại đến hoà bình, an ninh, trật tự, môi trường sinh thái của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo quy định của pháp luật Việt Nam và Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982 (Khoản 9, Điều 4). Tàu thuyền nước ngoài khi thực hiện quyền đi qua không gây hại trong lãnh hải Việt Nam phải tuân theo quy định của pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập; tàu ngầm và các phương tiện đi ngầm khác phải đi nổi và treo cờ quốc tịch (Điều 18).</span></span></p><p><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="font-size: 18px"></span></span></p><p><strong><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="font-size: 18px"><span style="color: #ff0000">3. Quy định của Việt Nam về vùng ĐQKT</span></span></span></strong></p><p><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="font-size: 18px"></span></span></p><p><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="font-size: 18px">Điểm 3 trong Tuyên bố về các vùng biển quy định: Vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam tiếp liền với lãnh hải Việt Nam và hợp với lãnh hải thành một vùng biển rộng 200 hải lý tính từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải Việt Nam. Việt Nam có chủ quyền hoàn toàn về việc thăm dò, khai thác, bảo vệ và quản lý tất cả các tài nguyên thiên nhiên, sinh vật và không sinh vật ở vùng nước, ở đáy biển và trong lòng đất dưới đáy biển của vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam; có quyền và thẩm quyền riêng biệt về việc thiết lập, sử dụng các công trình, thiết bị, đảo nhân tạo; có thẩm quyền riêng biệt về các hoạt động khác phục vụ cho việc thăm dò và khai thác vùng đặc quyền kinh tế nhằm mục đích kinh tế; có thẩm quyền riêng biệt về nghiên cứu khoa học biển trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam; có thẩm quyền về bảo vệ môi trường, chống ô nhiễm môi trường trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.</span></span></p><p><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="font-size: 18px"></span></span></p><p> <span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="font-size: 18px">Cụ thể hóa Tuyên bố nêu trên, Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản pháp luật quy định chi tiết các hoạt động trong vùng đặc quyền kinh tế như Nghị định 242/HĐBT về trình tự, thủ tục, yêu cầu đối với việc bên nước ngoài (bao gồm cả tổ chức, cá nhân nước ngoài) tiến hành nghiên cứu khoa học trên các vùng biển Việt Nam, trong đó có vùng đặc quyền kinh tế; Nghị định 49/1998/NĐ-CP; Pháp lệnh Bảo vệ và Phát triển nguồn lợi thủy sản 1989 (được thay thế bằng Luật thủy sản 2003) quy định vấn đề quản lý nhà nước đối với hoạt động khai thác thủy sản của tàu thuyền nước ngoài trong các vùng biển Việt Nam, trong đó có cấp phép khai thác thủy sản; Quy định của Bộ Bưu chính Viễn thông về việc cấp phép cho các cá nhân, tổ chức nước đặt dây cáp trong vùng đặc quyền kinh tế; Nghị định 137/2004/NĐ-CP ngày 16/6/2004 về xử phạt vi phạm hành chính trên các vùng biển và thềm lục địa của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam…</span></span></p><p><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="font-size: 18px"></span></span></p><p><strong><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="font-size: 18px"><span style="color: #ff0000">5. Quy định của Việt Nam về thềm lục địa </span></span></span></strong></p><p><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="font-size: 18px"></span></span></p><p><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="font-size: 18px">Tuyên bố của Chính phủ ngày 12/5/1977 về các vùng biển quy định: thềm lục địa của nước CHXHCN Việt Nam bao gồm đáy biển và lòng đất dưới đáy biển thuộc phần kéo dài tự nhiên của lục địa Việt Nam mở rộng ra ngoài lãnh hải Việt Nam cho đến bờ ngoài của rìa lục địa; nơi nào bờ ngoài của rìa lục địa cách đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải Việt Nam không đến 200 hải lý thì thềm lục đại nơi ấy mở rộng ra 200 hải lý kể từ đường cơ sở đó. Nhà nước Việt Nam có chủ quyền hoàn toàn về mặt thăm dò, khai thác, bảo vệ và quản lý tất cả các tài nguyên thiên nhiên ở thềm lục địa Việt Nam bao gồm tài nguyên khoáng sản, tài nguyên không sinh vật và tài nguyên sinh vật thuộc loài định cư ở thềm lục địa Việt Nam.</span></span></p><p><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="font-size: 18px"></span></span></p><p><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="font-size: 18px">Thềm lục địa của Việt Nam trải dài tự nhiên từ lục địa và có những khu vực vượt quá 200 hải lý tính từ đường cơ sở. Do đó, Việt Nam có đầy đủ cơ sở pháp lý để yêu sách khu vực thềm lục địa mở rộng theo đúng quy định của Công ước 1982. Việt Nam đã nộp 02 báo cáo (trong đó có Báo cáo chung với Ma-lai-xi-a về khu vực thềm lục địa phía Nam Biển Đông) và đã trình bày 02 báo cáo này tại Khóa họp 24 của Ủy ban ranh giới thềm lục địa (ngày 27-8/8/2009).</span></span></p><p><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="font-size: 18px"></span></span></p><p><strong><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="font-size: 18px"><span style="color: #ff0000">6. Chủ trương của Việt Nam về hợp tác quốc tế trong việc giữ gìn và bảo vệ môi trường biển</span></span></span></strong></p><p><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="font-size: 18px"></span></span></p><p><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="font-size: 18px">Biển và đại dương chiếm 72% diện tích bề mặt trái đất, là nguồn cung cấp thực phẩm, nhiên liệu, khoáng sản cho loài người và đặc biệt hơn, biển và đại dương còn góp phần vào việc điều hòa khí hậu trên trái đất. Chính vì lẽ đó, biển và đại dương được coi là “<em>cái nôi của sự sống</em>”. </span></span></p><p><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="font-size: 18px"></span></span></p><p><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="font-size: 18px">Vai trò, lợi ích của biển và đại dương mang lại đối với loài người càng lớn thì mức độ sử dụng và khai thác biển và đại dương càng gia tăng với một quy mô ngày càng rộng lớn. Điều này đã dẫn đến nhiều tác động tiêu cực đối với biển và đại dương như việc ô nhiễm môi trường biển, cạn kiệt nguồn tài nguyên sinh vật biển, mất cân bằng sinh thái, ảnh hưởng đến biến đối khí hậu toàn cầu…. ảnh hưởng nghiêm trọng đến “<em>cái nôi của sự sống</em>”.</span></span></p><p><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="font-size: 18px"></span></span></p><p><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="font-size: 18px">Nhận thức ý nghĩa và tầm quan trọng của việc giữ gìn và bảo vệ môi trường biển, tại Hội nghị thượng đỉnh về Môi trường và Phát triển (Rio de Janeiro, 1992), Chính phủ Việt Nam tuyên bố “<em>Việt Nam nhận thức rõ thực tế rằng biển và đại dương có một ý nghĩa đặc biệt đối với sự sống trên hành tinh chúng ta, và nước chúng tôi ủng hộ cuộc đấu tranh chống việc biến biển hay đại dương thành các bãi phế thải và rác vì điều này sẽ nhanh chóng hủy hoại hệ sinh thái biển và tài nguyên thiên nhiên, hậu quả là gây ra các ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ con người. Cần phải có các biện pháp thống nhất để quản lý biển và đại dương thông qua việc tăng cường sự hợp tác quốc tế và khu vực, và thông qua các cố gắng có phối hợp nhằm giảm bớt tình trạng ô nhiễm biển và duy trì tính đa dạng sinh học của biển</em>”.</span></span></p><p><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="font-size: 18px"></span></span></p><p><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="font-size: 18px">Bên cạnh việc tiến hành nhiều biện pháp, chiến lược quốc gia bảo vệ môi trường biển, Việt Nam cũng đã tích cực hợp tác với các nước, các tổ chức quốc tế có liên quan trong việc gìn giữ môi trường biển, thể hiện qua việc:</span></span></p><p><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="font-size: 18px"></span></span></p><p><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="font-size: 18px">- Gia nhập nhiều điều ước quốc tế (trên 20 công ước) có liên quan đến việc bảo vệ và gìn giữ môi trường biển như Công ước 1982, Công ước về đa dạng sinh học, Công ước trách nhiệm dân sự về bồi thường thiệt hại do tràn dầu (CLC); Công ước về ngăn ngừa ô nhiễm do tàu thuyền (MARPOL); Thỏa thuận về ứng phó sự cố tràn dầu trong Vịnh Thái Lan với Campuchia và Thái Lan…..</span></span></p><p><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="font-size: 18px"></span></span></p><p><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="font-size: 18px">- Tham gia nhiều chương trình liên quan đến môi trường biển khu vực và quốc tế như IOC UNESCO; UNEP/COBSEA; PEMSEA; ASOEN…</span></span></p><p><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="font-size: 18px"></span></span></p><p><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="font-size: 18px">- Hợp tác song phương với các nước, các tổ chức quốc tế nhằm thực hiện các dự án, chương trình nghiên cứu về môi trường biển như JOMSRE với PLP; SEAPOL…. </span></span></p><p><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="font-size: 18px"></span></span></p><p><strong><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="font-size: 18px"><span style="color: #ff0000">7. Chủ trương của Việt Nam về hợp tác quốc tế trong việc tìm kiếm, cứu nạn trên biển, chống cướp biển và cướp có vũ trang chống lại tàu thuyền trên biển</span></span></span></strong></p><p><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="font-size: 18px"></span></span></p><p><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="font-size: 18px">Hợp tác trong lĩnh vực tìm kiếm cứu nạn trên biển thể hiện tinh thần nhân đạo của nhà nước ta trong việc giúp đỡ những người gặp nạn trên biển do các nguyên nhân khách quan và chủ quan như thiên tai, bão biển, các tai nạn do con người gây ra như cháy nổ tàu thuyền, dàn khoan trên biển ….Việt Nam trong những năm qua đã tiến hành nhiều hoạt động hợp tác quốc tế trong lĩnh vực này như:</span></span></p><p><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="font-size: 18px"></span></span></p><p><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="font-size: 18px">- Gia nhập các điều ước quốc tế có liên quan như Công ước về tìm kiếm, cứu nạn (SAR); Công ước về an toàn sinh mạng trên biển (SOLAS); Hiệp định ASEAN về quản lý thảm họa và ứng phó khẩn cấp; Hiệp định ASEAN về tạo thuận lợi cho việc tìm kiếm tàu lâm nạn và cứu người trong tai nạn tàu biển, hàng không….</span></span></p><p><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="font-size: 18px"></span></span></p><p><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="font-size: 18px">- Hợp tác song phương với các nước trong lĩnh vực tìm kiếm cứu nạn trên biển.</span></span></p><p><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="font-size: 18px"></span></span></p><p><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="font-size: 18px">Chủ trương của nhà nước Việt Nam là việc hợp tác tìm kiếm cứu nạn phải được tiến hành trên cơ sở nhân đạo, phù hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế, pháp luật quốc gia, không được lợi dụng các hoạt động tìm kiếm, cứu nạn để tiến hành các hoạt động xâm phạm chủ quyền, quyền và lợi ích chính đáng của Việt Nam trên biển.</span></span></p><p><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="font-size: 18px"></span></span></p><p><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="font-size: 18px">Nhằm bảo vệ an ninh, an toàn và trật tự trên biển, góp phần thúc đẩy an ninh, an toàn hàng hải ở khu vực Biển Đông, trấn áp kịp thời các hàng động phạm pháp trên biển từ năm 2002 ta đã tích cực tham gia vào tiến trình đàm phán xây dựng Hiệp định hợp tác khu vực về chống cướp biển và cướp có vũ trang chống lại tàu thuyền ở khu vực Châu Á. Hiệp định đã có hiệu lực từ ngày 04/9/2006 và Việt Nam đã phê duyệt Hiệp định. Theo Hiệp định này, các quốc gia sẽ hợp tác trong việc chia sẻ thông tin chống cướp biển và cướp có vũ trang chống lại tàu thuyền thông qua Trung tâm chia sẻ thông tin được đặt tại Singapore. Về phía ta, Chính phủ ta đã giao cho Cục Cảnh sát biển (Bộ Quốc phòng) là đầu mối quốc gia trong việc thực hiện Hiệp định.</span></span></p><p><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="font-size: 18px"></span></span></p><p><strong><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="font-size: 18px"><span style="color: #ff0000">8. Chủ trương của Việt Nam về hợp tác nghiên cứu khoa học ở Biển Đông – JOMSRE-SCS</span></span></span></strong></p><p><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="font-size: 18px"></span></span></p><p><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="font-size: 18px">Biển Đông là một biển nửa kín. Theo Điều 123 quy định của Công ước, các quốc gia ven biển cần:</span></span></p><p><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="font-size: 18px"></span></span></p><p><em><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="font-size: 18px">a) Phối hợp trong việc quản lý, bảo tồn, thăm dò và khai thác các tài nguyên sinh vật của biển; </span></span></em></p><p></p><p><em><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="font-size: 18px">b) Phối hợp trong việc sử dụng các quyền và thực hiện các nghĩa vụ của họ có liên quan đến việc bảo vệ và giữ gìn môi trường biển; </span></span></em></p><p></p><p><em><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="font-size: 18px">c) Phối hợp các chính sách khoa học của họ, và nếu có thể, thực hiện các chương trình nghiên cứu khoa học chung trong vùng được xem xét; </span></span></em></p><p></p><p><em><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="font-size: 18px">d) Nếu có thể thì mời các quốc gia khác hay các tổ chức quốc tế hữu quan hợp tác với họ trong việc áp dụng Điều này.</span></span></em></p><p><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="font-size: 18px"></span></span></p><p><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="font-size: 18px">Thực hiện các quy định này cũng những các quy định của Phần XIII Công ước về nghiên cứu khoa học biển và trên cơ sở nhằm tăng cường hợp tác, tin cậy lẫn nhau, Việt Nam và Phi-lip-pin đã phối hợp thực hiện các chuyến nghiên cứu khoa học biển – JOMSRE-SCS.</span></span></p><p><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="font-size: 18px"></span></span></p><p><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="font-size: 18px">Tại chuyến thăm Phi-lip-pin tháng 12/1995 của Chủ tịch nước Lê Đức Anh, hai bên nhất trí triển khai JOMSRE-SCS. Ngày 05/4/1996, hai bên ký MOU tạo cơ sở pháp lý cho việc tổ chức JOMSRE I. Từ 1996 đến 2007, Việt Nam và Phi-lip-pin đã tổ chức 4 chuyến khảo sát khoa học chung trên Biển Đông (JOMSRE-I năm 1996; JOMSRE-II năm 2000; JOMSRE-III năm 2005 và JOMSRE-IV năm 2007). JOMSRE đã gặt hái những thành công lớn cả về mặt chính trị và khoa học. Về mặt chính trị, thông qua hợp tác JOMSRE, hợp tác biển giữa 2 nước đã được mở rộng và có bước phát triển về chất và mở rộng sang nhiều lĩnh vực khác như tìm kiếm cứu nạn, khí tượng thủy văn, ứng phó sự cố tràn dầu.... JOMSRE góp phần xây dựng lòng tin và duy trì hòa bình, ổn định tại khu vực Biển Đông, một khu vực mà còn tiềm ẩn nhiều bất ổn do các tranh chấp đối kháng về chủ quyền và được coi như là một hình mẫu hợp tác trong việc xây dựng lòng tin ở những khu vực tranh chấp, được nhiều nước đánh giá cao và học tập kinh nghiệm. Về mặt khoa học, kết quả nghiên cứu của 4 chuyến JOMSRE đã giúp các nhà khoa học 2 nước tăng cường sự hiểu biết về điều kiện tự nhiên, hiện trạng nguồn lợi trong khu vực được khảo sát, là cơ sở khoa học cho việc khai thác sử dụng, bảo vệ nguồn lợi và môi trường Biển Đông... Để tổng kết 04 JOMSRE-SCS, hai Bên đã phối hợp tổ chức Hội nghị tổng kết tại Hạ Long (tháng 3/2008). Tháng 12/2008, Phi-lip-pin tổ chức công bố kỷ yếu Hội nghị này (bản tiếng Anh). Việt Nam cũng đã tiến hành công bố Kỷ yếu (bản tiếng Việt) ngày 27/3/2009 tại Nha Trang. </span></span></p><p><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="font-size: 18px"></span></span></p><p><span style="font-family: 'Times New Roman'"><span style="font-size: 18px">Trong quá trình thực hiện các chuyến JOMSRE-SCS III và IV, phía Trung Quốc bày tỏ quan tâm tham gia JOMSRE. Sau khi kết thúc Giai đoạn I của JOMSRE như nêu trên (giai đoạn song phương), Việt Nam, Phi-lip-pin và Trung Quốc đang thảo luận về việc hợp tác nghiên cứu khoa học trên Biển Đông – JOMSRE-SCS giai đoạn mới (mở ra cho các quốc gia và các tổ chức quốc tế quan tâm tham gia). </span></span></p></blockquote><p></p>
[QUOTE="Trang Dimple, post: 173651, member: 288054"] [CENTER][FONT=Times New Roman][SIZE=5][COLOR=#ff0000][B]CÁC QUY ĐỊNH CỦA VIỆT NAM VỀ BIỂN [/B][/COLOR] [/SIZE][/FONT][/CENTER] [FONT=Times New Roman][SIZE=5]Phù hợp với quá trình phát triển của Luật biển quốc tế, Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản pháp lý quy định chế độ pháp lý các vùng biển thuộc chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam, trong đó phải kể đến: Tuyên bố của Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam ngày 12/5/1977 về lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam (Tuyên bố về các vùng biển); Tuyên bố của Chính phủ ngày 12/11/1982 về đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải Việt Nam (Tuyên bố về đường cơ sở); Nghị định 30/CP ngày 29/01/1980 về hoạt động của tàu thuyền nước ngoài trong vùng biển Việt Nam; Nghị định 242/HĐBT ngày 05/8/1991 về việc nghiên cứu khoa học biển của các bên nước ngoài trong vùng biển Việt Nam; Nghị định 55/CP ngày 01/10/1996 về hoạt động của tàu thuyền quân sự nước ngoài vào thăm Việt Nam; Nghị định 49/1998/NĐ-CP ngày 13/7/1998 về quản lý hoạt động nghề cá của người và phương tiện nước ngoài trong các vùng biển Việt Nam; Nghị định 137/2004/NĐ-CP ngày 16/6/2004 về xử phạt vi phạm hành chính trên các vùng biển và thềm lục địa của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Luật Dầu khí năm 2000; Luật Thủy sản năm 2003; Luật Biên giới quốc gia năm 2003; Luật bảo vệ môi trường 2005; Pháp lệnh Bộ đội Biên phòng năm 1997; Pháp lệnh Cảnh sát biển năm 2008… Hiện tại, Việt Nam đang hoàn thiện để ban hành Luật về các vùng biển. Các văn bản pháp lý được nhà nước Việt Nam ban hành ngày càng hoàn thiện, tạo thành một hệ thống đồng bộ các quy định pháp luật điều chỉnh các hoạt động đa dạng của mọi cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước trên các vùng biển thuộc chủ quyền và quyền chủ quyền của Việt Nam nhằm bảo vệ vững chắc chủ quyền và các lợi ích chính đáng của nhà nước ta trên biển. [/SIZE][/FONT] [B][FONT=Times New Roman][SIZE=5][COLOR=#ff0000]1. Quy định của Việt Nam về nội thủy[/COLOR][/SIZE][/FONT][/B] [FONT=Times New Roman][SIZE=5] Năm 1982 Việt Nam đã ra Tuyên bố xác định đường cơ sở của mình, theo đó Điểm 5 quy định nội thủy là vùng nước phía trong đường cơ sở và giáp với bờ biển, hải đảo của Việt Nam. Để quản lý các hoạt động có yếu tố nước ngoài trong nội thủy, Việt Nam đã có các Nghị định 30/CP ngày 20/01/1980 về quy chế hoạt động của tàu thuyền nước ngoài hoạt động trên các vùng biển Việt Nam; Nghị định số 13/CP ngày 25/02/1994 ban hành Quy chế hoạt động hàng hải tại cảng biển và các khu vực hàng hỉa Việt Nam; Nghị định 55/CP ngày 01/10/1996 về hoạt động của tàu quân sự nước ngoài thăm Việt Nam… Các quy định của Việt Nam đều tương đồng với các quy định có liên quan của Công ước 1982. [/SIZE][/FONT] [B][FONT=Times New Roman][SIZE=5][COLOR=#ff0000]2. Quy định của Việt Nam về Lãnh hải [/COLOR][/SIZE][/FONT][/B] [FONT=Times New Roman][SIZE=5] Điểm 1 Tuyên bố về các vùng biển quy định: Lãnh hải của Việt Nam rộng 12 hải lý tính từ đường cơ sở. Việt Nam thực hiện chủ quyền đầy đủ và toàn vẹn đối với lãnh hải của mình cũng như đối với vùng trời, đáy biển và lòng đất dưới đáy biển của lãnh hải. Điểm 1 trong Tuyên bố về đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải quy định: Đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải của lục địa Việt Nam là đường gãy khúc nối liền các điểm có tọa độ ghi trong Phụ lục đính kèm theo Tuyên bố này. Luật biên giới quốc gia năm 2003 quy định: [I]Lãnh hải[/I] của Việt Nam rộng mười hai hải lý tính từ đường cơ sở ra phía ngoài. Lãnh hải của Việt Nam bao gồm lãnh hải của đất liền, lãnh hải của đảo, lãnh hải của quần đảo (Điều 9). [I]Đi qua không gây hại trong lãnh hải[/I] là việc tàu thuyền nước ngoài đi trong lãnh hải Việt Nam nhưng không làm phương hại đến hoà bình, an ninh, trật tự, môi trường sinh thái của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo quy định của pháp luật Việt Nam và Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982 (Khoản 9, Điều 4). Tàu thuyền nước ngoài khi thực hiện quyền đi qua không gây hại trong lãnh hải Việt Nam phải tuân theo quy định của pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập; tàu ngầm và các phương tiện đi ngầm khác phải đi nổi và treo cờ quốc tịch (Điều 18). [/SIZE][/FONT] [B][FONT=Times New Roman][SIZE=5][COLOR=#ff0000]3. Quy định của Việt Nam về vùng ĐQKT[/COLOR][/SIZE][/FONT][/B] [FONT=Times New Roman][SIZE=5] Điểm 3 trong Tuyên bố về các vùng biển quy định: Vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam tiếp liền với lãnh hải Việt Nam và hợp với lãnh hải thành một vùng biển rộng 200 hải lý tính từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải Việt Nam. Việt Nam có chủ quyền hoàn toàn về việc thăm dò, khai thác, bảo vệ và quản lý tất cả các tài nguyên thiên nhiên, sinh vật và không sinh vật ở vùng nước, ở đáy biển và trong lòng đất dưới đáy biển của vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam; có quyền và thẩm quyền riêng biệt về việc thiết lập, sử dụng các công trình, thiết bị, đảo nhân tạo; có thẩm quyền riêng biệt về các hoạt động khác phục vụ cho việc thăm dò và khai thác vùng đặc quyền kinh tế nhằm mục đích kinh tế; có thẩm quyền riêng biệt về nghiên cứu khoa học biển trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam; có thẩm quyền về bảo vệ môi trường, chống ô nhiễm môi trường trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Cụ thể hóa Tuyên bố nêu trên, Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản pháp luật quy định chi tiết các hoạt động trong vùng đặc quyền kinh tế như Nghị định 242/HĐBT về trình tự, thủ tục, yêu cầu đối với việc bên nước ngoài (bao gồm cả tổ chức, cá nhân nước ngoài) tiến hành nghiên cứu khoa học trên các vùng biển Việt Nam, trong đó có vùng đặc quyền kinh tế; Nghị định 49/1998/NĐ-CP; Pháp lệnh Bảo vệ và Phát triển nguồn lợi thủy sản 1989 (được thay thế bằng Luật thủy sản 2003) quy định vấn đề quản lý nhà nước đối với hoạt động khai thác thủy sản của tàu thuyền nước ngoài trong các vùng biển Việt Nam, trong đó có cấp phép khai thác thủy sản; Quy định của Bộ Bưu chính Viễn thông về việc cấp phép cho các cá nhân, tổ chức nước đặt dây cáp trong vùng đặc quyền kinh tế; Nghị định 137/2004/NĐ-CP ngày 16/6/2004 về xử phạt vi phạm hành chính trên các vùng biển và thềm lục địa của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam… [/SIZE][/FONT] [B][FONT=Times New Roman][SIZE=5][COLOR=#ff0000]5. Quy định của Việt Nam về thềm lục địa [/COLOR][/SIZE][/FONT][/B] [FONT=Times New Roman][SIZE=5] Tuyên bố của Chính phủ ngày 12/5/1977 về các vùng biển quy định: thềm lục địa của nước CHXHCN Việt Nam bao gồm đáy biển và lòng đất dưới đáy biển thuộc phần kéo dài tự nhiên của lục địa Việt Nam mở rộng ra ngoài lãnh hải Việt Nam cho đến bờ ngoài của rìa lục địa; nơi nào bờ ngoài của rìa lục địa cách đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải Việt Nam không đến 200 hải lý thì thềm lục đại nơi ấy mở rộng ra 200 hải lý kể từ đường cơ sở đó. Nhà nước Việt Nam có chủ quyền hoàn toàn về mặt thăm dò, khai thác, bảo vệ và quản lý tất cả các tài nguyên thiên nhiên ở thềm lục địa Việt Nam bao gồm tài nguyên khoáng sản, tài nguyên không sinh vật và tài nguyên sinh vật thuộc loài định cư ở thềm lục địa Việt Nam. Thềm lục địa của Việt Nam trải dài tự nhiên từ lục địa và có những khu vực vượt quá 200 hải lý tính từ đường cơ sở. Do đó, Việt Nam có đầy đủ cơ sở pháp lý để yêu sách khu vực thềm lục địa mở rộng theo đúng quy định của Công ước 1982. Việt Nam đã nộp 02 báo cáo (trong đó có Báo cáo chung với Ma-lai-xi-a về khu vực thềm lục địa phía Nam Biển Đông) và đã trình bày 02 báo cáo này tại Khóa họp 24 của Ủy ban ranh giới thềm lục địa (ngày 27-8/8/2009). [/SIZE][/FONT] [B][FONT=Times New Roman][SIZE=5][COLOR=#ff0000]6. Chủ trương của Việt Nam về hợp tác quốc tế trong việc giữ gìn và bảo vệ môi trường biển[/COLOR][/SIZE][/FONT][/B] [FONT=Times New Roman][SIZE=5] Biển và đại dương chiếm 72% diện tích bề mặt trái đất, là nguồn cung cấp thực phẩm, nhiên liệu, khoáng sản cho loài người và đặc biệt hơn, biển và đại dương còn góp phần vào việc điều hòa khí hậu trên trái đất. Chính vì lẽ đó, biển và đại dương được coi là “[I]cái nôi của sự sống[/I]”. Vai trò, lợi ích của biển và đại dương mang lại đối với loài người càng lớn thì mức độ sử dụng và khai thác biển và đại dương càng gia tăng với một quy mô ngày càng rộng lớn. Điều này đã dẫn đến nhiều tác động tiêu cực đối với biển và đại dương như việc ô nhiễm môi trường biển, cạn kiệt nguồn tài nguyên sinh vật biển, mất cân bằng sinh thái, ảnh hưởng đến biến đối khí hậu toàn cầu…. ảnh hưởng nghiêm trọng đến “[I]cái nôi của sự sống[/I]”. Nhận thức ý nghĩa và tầm quan trọng của việc giữ gìn và bảo vệ môi trường biển, tại Hội nghị thượng đỉnh về Môi trường và Phát triển (Rio de Janeiro, 1992), Chính phủ Việt Nam tuyên bố “[I]Việt Nam nhận thức rõ thực tế rằng biển và đại dương có một ý nghĩa đặc biệt đối với sự sống trên hành tinh chúng ta, và nước chúng tôi ủng hộ cuộc đấu tranh chống việc biến biển hay đại dương thành các bãi phế thải và rác vì điều này sẽ nhanh chóng hủy hoại hệ sinh thái biển và tài nguyên thiên nhiên, hậu quả là gây ra các ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ con người. Cần phải có các biện pháp thống nhất để quản lý biển và đại dương thông qua việc tăng cường sự hợp tác quốc tế và khu vực, và thông qua các cố gắng có phối hợp nhằm giảm bớt tình trạng ô nhiễm biển và duy trì tính đa dạng sinh học của biển[/I]”. Bên cạnh việc tiến hành nhiều biện pháp, chiến lược quốc gia bảo vệ môi trường biển, Việt Nam cũng đã tích cực hợp tác với các nước, các tổ chức quốc tế có liên quan trong việc gìn giữ môi trường biển, thể hiện qua việc: - Gia nhập nhiều điều ước quốc tế (trên 20 công ước) có liên quan đến việc bảo vệ và gìn giữ môi trường biển như Công ước 1982, Công ước về đa dạng sinh học, Công ước trách nhiệm dân sự về bồi thường thiệt hại do tràn dầu (CLC); Công ước về ngăn ngừa ô nhiễm do tàu thuyền (MARPOL); Thỏa thuận về ứng phó sự cố tràn dầu trong Vịnh Thái Lan với Campuchia và Thái Lan….. - Tham gia nhiều chương trình liên quan đến môi trường biển khu vực và quốc tế như IOC UNESCO; UNEP/COBSEA; PEMSEA; ASOEN… - Hợp tác song phương với các nước, các tổ chức quốc tế nhằm thực hiện các dự án, chương trình nghiên cứu về môi trường biển như JOMSRE với PLP; SEAPOL…. [/SIZE][/FONT] [B][FONT=Times New Roman][SIZE=5][COLOR=#ff0000]7. Chủ trương của Việt Nam về hợp tác quốc tế trong việc tìm kiếm, cứu nạn trên biển, chống cướp biển và cướp có vũ trang chống lại tàu thuyền trên biển[/COLOR][/SIZE][/FONT][/B] [FONT=Times New Roman][SIZE=5] Hợp tác trong lĩnh vực tìm kiếm cứu nạn trên biển thể hiện tinh thần nhân đạo của nhà nước ta trong việc giúp đỡ những người gặp nạn trên biển do các nguyên nhân khách quan và chủ quan như thiên tai, bão biển, các tai nạn do con người gây ra như cháy nổ tàu thuyền, dàn khoan trên biển ….Việt Nam trong những năm qua đã tiến hành nhiều hoạt động hợp tác quốc tế trong lĩnh vực này như: - Gia nhập các điều ước quốc tế có liên quan như Công ước về tìm kiếm, cứu nạn (SAR); Công ước về an toàn sinh mạng trên biển (SOLAS); Hiệp định ASEAN về quản lý thảm họa và ứng phó khẩn cấp; Hiệp định ASEAN về tạo thuận lợi cho việc tìm kiếm tàu lâm nạn và cứu người trong tai nạn tàu biển, hàng không…. - Hợp tác song phương với các nước trong lĩnh vực tìm kiếm cứu nạn trên biển. Chủ trương của nhà nước Việt Nam là việc hợp tác tìm kiếm cứu nạn phải được tiến hành trên cơ sở nhân đạo, phù hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế, pháp luật quốc gia, không được lợi dụng các hoạt động tìm kiếm, cứu nạn để tiến hành các hoạt động xâm phạm chủ quyền, quyền và lợi ích chính đáng của Việt Nam trên biển. Nhằm bảo vệ an ninh, an toàn và trật tự trên biển, góp phần thúc đẩy an ninh, an toàn hàng hải ở khu vực Biển Đông, trấn áp kịp thời các hàng động phạm pháp trên biển từ năm 2002 ta đã tích cực tham gia vào tiến trình đàm phán xây dựng Hiệp định hợp tác khu vực về chống cướp biển và cướp có vũ trang chống lại tàu thuyền ở khu vực Châu Á. Hiệp định đã có hiệu lực từ ngày 04/9/2006 và Việt Nam đã phê duyệt Hiệp định. Theo Hiệp định này, các quốc gia sẽ hợp tác trong việc chia sẻ thông tin chống cướp biển và cướp có vũ trang chống lại tàu thuyền thông qua Trung tâm chia sẻ thông tin được đặt tại Singapore. Về phía ta, Chính phủ ta đã giao cho Cục Cảnh sát biển (Bộ Quốc phòng) là đầu mối quốc gia trong việc thực hiện Hiệp định. [/SIZE][/FONT] [B][FONT=Times New Roman][SIZE=5][COLOR=#ff0000]8. Chủ trương của Việt Nam về hợp tác nghiên cứu khoa học ở Biển Đông – JOMSRE-SCS[/COLOR][/SIZE][/FONT][/B] [FONT=Times New Roman][SIZE=5] Biển Đông là một biển nửa kín. Theo Điều 123 quy định của Công ước, các quốc gia ven biển cần: [/SIZE][/FONT] [I][FONT=Times New Roman][SIZE=5]a) Phối hợp trong việc quản lý, bảo tồn, thăm dò và khai thác các tài nguyên sinh vật của biển; [/SIZE][/FONT][/I] [FONT=Times New Roman][SIZE=5][/SIZE][/FONT] [I][FONT=Times New Roman][SIZE=5]b) Phối hợp trong việc sử dụng các quyền và thực hiện các nghĩa vụ của họ có liên quan đến việc bảo vệ và giữ gìn môi trường biển; [/SIZE][/FONT][/I] [FONT=Times New Roman][SIZE=5][/SIZE][/FONT] [I][FONT=Times New Roman][SIZE=5]c) Phối hợp các chính sách khoa học của họ, và nếu có thể, thực hiện các chương trình nghiên cứu khoa học chung trong vùng được xem xét; [/SIZE][/FONT][/I] [FONT=Times New Roman][SIZE=5][/SIZE][/FONT] [I][FONT=Times New Roman][SIZE=5]d) Nếu có thể thì mời các quốc gia khác hay các tổ chức quốc tế hữu quan hợp tác với họ trong việc áp dụng Điều này.[/SIZE][/FONT][/I] [FONT=Times New Roman][SIZE=5] Thực hiện các quy định này cũng những các quy định của Phần XIII Công ước về nghiên cứu khoa học biển và trên cơ sở nhằm tăng cường hợp tác, tin cậy lẫn nhau, Việt Nam và Phi-lip-pin đã phối hợp thực hiện các chuyến nghiên cứu khoa học biển – JOMSRE-SCS. Tại chuyến thăm Phi-lip-pin tháng 12/1995 của Chủ tịch nước Lê Đức Anh, hai bên nhất trí triển khai JOMSRE-SCS. Ngày 05/4/1996, hai bên ký MOU tạo cơ sở pháp lý cho việc tổ chức JOMSRE I. Từ 1996 đến 2007, Việt Nam và Phi-lip-pin đã tổ chức 4 chuyến khảo sát khoa học chung trên Biển Đông (JOMSRE-I năm 1996; JOMSRE-II năm 2000; JOMSRE-III năm 2005 và JOMSRE-IV năm 2007). JOMSRE đã gặt hái những thành công lớn cả về mặt chính trị và khoa học. Về mặt chính trị, thông qua hợp tác JOMSRE, hợp tác biển giữa 2 nước đã được mở rộng và có bước phát triển về chất và mở rộng sang nhiều lĩnh vực khác như tìm kiếm cứu nạn, khí tượng thủy văn, ứng phó sự cố tràn dầu.... JOMSRE góp phần xây dựng lòng tin và duy trì hòa bình, ổn định tại khu vực Biển Đông, một khu vực mà còn tiềm ẩn nhiều bất ổn do các tranh chấp đối kháng về chủ quyền và được coi như là một hình mẫu hợp tác trong việc xây dựng lòng tin ở những khu vực tranh chấp, được nhiều nước đánh giá cao và học tập kinh nghiệm. Về mặt khoa học, kết quả nghiên cứu của 4 chuyến JOMSRE đã giúp các nhà khoa học 2 nước tăng cường sự hiểu biết về điều kiện tự nhiên, hiện trạng nguồn lợi trong khu vực được khảo sát, là cơ sở khoa học cho việc khai thác sử dụng, bảo vệ nguồn lợi và môi trường Biển Đông... Để tổng kết 04 JOMSRE-SCS, hai Bên đã phối hợp tổ chức Hội nghị tổng kết tại Hạ Long (tháng 3/2008). Tháng 12/2008, Phi-lip-pin tổ chức công bố kỷ yếu Hội nghị này (bản tiếng Anh). Việt Nam cũng đã tiến hành công bố Kỷ yếu (bản tiếng Việt) ngày 27/3/2009 tại Nha Trang. Trong quá trình thực hiện các chuyến JOMSRE-SCS III và IV, phía Trung Quốc bày tỏ quan tâm tham gia JOMSRE. Sau khi kết thúc Giai đoạn I của JOMSRE như nêu trên (giai đoạn song phương), Việt Nam, Phi-lip-pin và Trung Quốc đang thảo luận về việc hợp tác nghiên cứu khoa học trên Biển Đông – JOMSRE-SCS giai đoạn mới (mở ra cho các quốc gia và các tổ chức quốc tế quan tâm tham gia). [/SIZE][/FONT] [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
VĂN HÓA - ĐỜI SỐNG
Sách hay mỗi ngày
Hoàng Sa - Trường Sa
Công ước Luật biển 1982
Top