Kuin Sukoagoa
Yêu
- Xu
- 0
Con người xuất hiện từ khi nào ?
Lịch sử loài người cho ta biết những sự việc diễn ra trong đời sống con người kể từ khi nó xuất hiện trên Trái Đất. Khoa học, đặc biệt là Khảo cổ học và Cổ sinh học, đã tìm được bằng cứ nói lên sự phát triển lâu dài của sinh giới, từ động vật cấp thấp lên động vật cấp cao. Đỉnh cao của quá trình này là sự chuyển biến từ vượn thành người.
1. Con người xuất hiện và đời sống bầy người nguyên thuỷ
Ở chặng đầu của quá trình hình thành loài người, có một loài vượn cổ, sống khoảng 6 triệu năm trước đây, đã có thể đứng và đi bằng hai chân, dùng tay để cầm nắm, ăn hoa quả, lá và cả động vật nhỏ. Xương hoá thạch của chúng được tìm thấy ở Đông Phi, Tây Á và cả ở Việt Nam.
Trên đà tiến triển, vượn cổ chuyển biến thành người tối cổ, bắt đầu từ khoảng 4 triệu năm trước đây. Di cốt Người tối cổ được tìm thấy ở Đông Phi, Gia-va (Inđônêxia), Bắc Kinh (Trung Quốc) v.v… Ở Thanh Hoá (Việt Nam), tuy chưa thấy di cốt nhưng lại thấy công cụ đá của người cổ đó.
Người tối cổ hầu như đã hoàn toàn đi đứng bằng hai chân. Đôi tay được tự do để sử dụng công cụ, kiếm thức ăn. Cơ thể của họ đã có nhiều biến đối: tuy trán còn thấp và bợt ra sau, u mày còn nổi cao, nhưng hộp sọ đã lớn hơn của loài vượn cổ và đã hình thành trung tâm phát tiếng nói trong não.
Tuy chưa loại bỏ hết dấu tích vượn trên cơ thể mình, Người tối cổ đã là người. Đây là hình thức tiến triển nhảy vọt từ vượn thành người, là thời kỳ đầu tiên của lịch sử loài người.
Từ chỗ sử dụng những mảnh đá có sẵn để làm công cụ, Người tối cổ đã lấy những mảnh đá hay hòn cuội lớn, đem ghè một mặt cho sắc và vừa tay cầm. Như thế là bắt đầu biết chế tác công cụ. Công cụ thô kệch này được gọi là đồ đá cũ (sơ kì). Với những chiếc rìu đá kiểu đó, người ta chặt cây làm gậy hoặc dùng trực tiếp làm vũ khí, tự vệ hay tấn công các con thú để kiếm thức ăn.
Từ chỗ giữ lửa lấy trong tự nhiên năm này qua năm khác để sưởi ẩm, đuổi dã thú, nướng chín thức ăn, con người đã biết ghè hai mảnh đá với nhau để lấy lửa. Đây là một phát minh lớn mà nhờ đó, con người có thể sử dụng một thứ năng lượng quan trọng bậc nhất, cải thiện căn bản đời sống của mình.
Qua lao động, chế tạo công cụ và sử dụng công cụ, bàn tay con người khéo léo dần. Do đó, cơ thể cũng biến đổi theo để có tư thế lao động thích hợp. Tiếng nói thuần thục hơn do nhu cầu trao đổi với nhau. Con người tự cải biến mình, hoàn thiện mình từng bước nhờ lao động.
Ở một số loài động vật đã hình thành một cách tự nhiên quan hệ hợp đoàn, có đôi, có đàn và con đầu đàn. Người tối cổ đã có quan hệ hợp quần xã hội: có người đứng đầu, có phân công lao động giữa nam và nữ, cùng chăm sóc con cái.
Họ sống trong hang động , mái đá hoặc cũng có thể dựng lều bằng cành cây, da thú, sống quây quần theo quan hệ ruột thịt với nhau, gồm 5 – 7 gia đình. Mỗi gia đình có đôi vợ chồng và con nhỏ chiếm một góc lều hay góc hang. Bây giờ chưa có những quy định xã hội nên người ta gọi những hợp quần xã hội đầu tiên này là bầy người nguyên thuỷ.
Bầy người nguyên thuỷ vẫn còn sống trong tình trạng “ăn lông ở lỗ”, một cuộc sống tự nhiên, bấp bênh, triền miên hàng triệu năm.
2. Người tinh khôn và óc sáng tạo
Cuối thời kỳ này, khoảng 4 vạn năm trước đây, con người hoàn thành quá trình tự cải biến mình, đã loại bỏ hết dấu tích vượn trên người, trở thành Người tinh khôn hay còn gọi là Người hiện đại.
Người tinh khôn có cấu tạo cơ thể như chúng ta ngày nay: xương cốt nhỏ hơn Người tối cổ; bàn tay nhỏ, khéo léo, các ngón tay linh hoạt; hộp sọ và thể tích não phát triển, trán cao, mặt phẳng; cơ thể gọn và linh hoạt, tạo nên tư thế thích hợp với các hoạt động phức tạp của con người. Di cốt Người tinh khôn được tìm thấy ở khắp các châu lục.
Đây là bước nhảy vọt thứ hai, sau bước nhảy từ vượn thành Người tối cổ. Cũng từ đấy, khi lớp lông mỏng trên người không còn nữa, ở Người tinh khôn lại xuất hiện những màu da khác nhau, chia thành da vàng, da đen và da trắng. Đó là ba chủng tộc lớn.
Tuy nhiên, chủng tộc là sự khác nhau thuần tuý theo những đặc điểm thân thể bên ngoài, chứ không phải là sự chênh lệch về trình độ trí tuệ. Sự khác nhau đó là kết quả của quá trình thích ứng lâu dài của con người với những hoàn cảnh tự nhiên khác nhau.
Trong việc chế tạo công cụ, Người tinh khôn đã biết ghè hai rìa của một mảnh đá, làm cho nó gọn và sắc cạnh hơn, dùng làm rìu, dao, nạo. Họ còn lấy xương cá, cành cây đem mài hoặc đẽo nhọn đầu để làm lao.
Từ đó, con người tiến tới biết chế toạ cung tên. Cung tên là một thành tựu lớn trong toàn bộ quá trình chế tạo công cụ và vũ khí. Với cung tên, con người mới có thể săn bắn hiệu quả và an toàn.
Thức ăn của con người đã tăng lên đáng kể, nhất là thức ăn động vật, từ khi kỹ thuật thời đá cũ được hoàn thiện và đặc biệt là từ khi có cung tên.
Người ta cũng có thể rời hang động ra dựng lều, định cư ở những địa điểm thuận tiện hơn. Hình thức cư trú “nhà cửa” phổ biến ở Người tinh khôn từ cuối thời kỳ đá cũ.
Đến khoảng một vạn năm trước đây, loài người tiến vào thời đá mới.
Điểm nổi bật của công cụ đá mới là người ta có thể ghè đẽo những mảnh đá thành hình dạng gọn và chính xác, thích hợp với từng công việc, với nhiều kiểu loại theo những yêu cầu khác nhau (dao, rìu, đục…), được mài nhẵn ở rìu lưỡi hay toàn thân, được khoan lỗ hay có nấc để tra cán.
Có thể nói rằng, công cụ thời đá cũ vẫn là những mảnh đá được ghè đẽo thô sơ, còn thời đá mới là những mảnh đá được ghè sắc và mài nhẵn thành hình những loại công cụ.
Cũng thời gian này, người ta biết đan lưới đánh cá bằng sợi vỏ cây và làm chì lưới bằng đất nung, biết làm đồ gốm để đựng và đun nấu (nồi, bát, vò…)
3. Cuộc cách mạng thời đá mới
Các nhà khảo cổ coi thời đá mới là một cuộc cách mạng, khi con người từ lượm hái, đánh cá, săn bắn đã tiến tới biết trồng trọt và chăn nuôi. Việc lượm hái năm này qua năm khác đã đem lại kinh nghiệm trồng và thu hoạch theo thời vụ một số cây lương thực, thực phẩm như khoai, củ, bầu, bí, lúa v.v… Đi săn, bắt được thú nhỏ, người ta giữ lại để nuôi và thuần dưỡng thành gia súc, trước tiên là chó rồi đến cừu, lợn (heo), bò v.v…
on người có óc sáng tạo, và ở thời đá mới này, ho bắt đầu biết khai thác từ thiên nhiên cái cần thiết cho cuộc sống của mình, chứ không chỉ thu lượm cái có sẵn trong thiên nhiên.
Người ta cũng bắt đầu làm sạch những tấm da thú để che thân cho ấm và cho “có văn hoá”. Những chiếc cúc (khuy) và kim làm bằng xương tìm thấy trong những di chỉ văn hoá đã nói lên điều đó.
Người ta đã biết dùng đồ trang sức nên đã làm vòng cổ từ vỏ ốc và hạt xương, làm vòng tay, vòng cổ chân, hoa tai… từ đá màu (bằng cách đem khoan lỗ rồi lấy dây xâu lại).
Các nhà khảo cổ còn tìm thấy cả chiếc sáo bằng xương dùi lỗ, đàn đá và có lẽ, còn có cả trống bịt da.
Như thế, từng bước, từng bước, con người không ngừng sáng tạo, kiếm được thức ăn nhiều hơn, sống tốt hơn và vui hơn. Tuy nhiên, quá trình đó rất dài (4 – 5 vạn năm), trong đó cuộc sống còn thấp kém và bấp bênh. Đời sống con người chỉ tiến bộ với tốc độ nhanh hơn và ổn định hơn từ thời đá mới, khoảng 1 vạn năm trước đây.
* Con người đã xuất hiện 276.000 năm trước ?*
Những nghiên cứu mới đây về những công cụ lao động bằng đá được tìm thấy tại Ethiopia cho thấy con người đã xuất hiện sớm hơn nhiều so với chúng ta nghĩ.
Những công cụ lao động này được phát hiện vào những năm 1970 tại di chỉ khảo cổ Gademotta, thuộc thung lũng Rift, Ethiopia. Nhưng phải đến cuối năm 2008, nhờ sử dụng kỹ thuật xác định thời gian Argon-Argon (so sánh sự khác biệt về đồng vị phóng xạ của nguyên tố Argon), các nhà nghiên cứu xác định được các công cụ lao động làm từ nham thạch được chôn trong hầm mộ có niên đại ít nhất khoảng 276.000 năm.
Gademotta từng là nơi thu hút con người đến cư trú với hồ nước sạch Ziway, nơi đây cũng có nhiều loại nham thạch đen như Obsidian, một trong những chất liệu thô để tạo ra công cụ lao động bằng đá.
Sưu tầm