Con Cò và Đạo Việt
Nguồn: Internet.
Nói tới “Con Cò” là tự nhiên người Việt mình thường liên tưởng tới cảnh đồng quê Việt-Nam, với những con chim nước có bộ lông trắng với thân hình mảnh khảnh nhưng rất cân đối với cái cổ cao và đội chân dài mà ai nấy cũng đã thấy và cũng đã từng nghe những câu ca dao tượng hình gợi ý như :
Cái cò cái vạc cái nông
Sao mày giẫm lúa nhà ông hỡi cò,
Không, không! Tôi đứng trên bờ
Mẹ con nhà vạc đổ ngờ cho tôi.
Sao mày giẫm lúa nhà ông hỡi cò,
Không, không! Tôi đứng trên bờ
Mẹ con nhà vạc đổ ngờ cho tôi.
Hay để nói lên tình mẫu tử của người Mẹ Việt với tâm trạng bồi hồi lo lắng cho con, khi con đi đâu chưa về, thì Tổ Tiên mình cũng đã dùng hình ảnh đẹp, và phong cảnh hữu tình với “cò mẹ” và “cò con” để diễn tả nỗi niềm đó qua ca dao :
Mặt trời lặn xuống bờ ao
Có con cò mẹ bay vào bay ra
Cò con đi học đường xa
Thẩn thơ chỗ nọ la cà chỗ kia
Đi đâu mà chẳng chịu về
Cơm canh mẹ đợi còn gì là ngon.
Có con cò mẹ bay vào bay ra
Cò con đi học đường xa
Thẩn thơ chỗ nọ la cà chỗ kia
Đi đâu mà chẳng chịu về
Cơm canh mẹ đợi còn gì là ngon.
Cho nên “con cò” là hình ảnh của người nữ, người Mẹ, người con gái Việt với nét đẹp đơn sơ thơ mộng, duyên dáng mỹ miều, diệu hiền âu yếm, nhưng cũng lã lướt, nhởn nhơ, thanh thản… như “con cò” để thưởng thức cảnh thanh bình của đồng quê, với :
Con cò bay lả bay la…
Bay từ cửa tổ bay ra cánh đồng.
Bay từ cửa tổ bay ra cánh đồng.
Tuy có vẽ la đà với phong cách “bay lả bay la…”, nhưng “con cò” là hình ảnh của người đàn bà xứ Việt thời Hùng Vương, không bao giờ quên trách nhiệm đối với bản thân và gia đình. Vì từ lúc còn là “cò con”, nghiã là từ lúc ấu thời, người con gái Việt đã được thấm nhuần Đạo Trời với nguyên lý Mẹ, với âm dương hòa hợp, với Tình trước Lý sau để sống thật cái Tình với chiều kích của Tâm Linh Đại Ngã như Trời Biển bao la. Vì vậy, như “con cò” người đàn bà Việt với đức tính can trường, đảm đang, nhẫn nại, khôn khéo và tài năng…, không những đã biết lo lắng cho con, cho chồng được đầy đủ no ấm về vật chất, mà còn lưu tâm đến việc giáo huấn con cái sao cho đặng Vuông Tròn, nghĩa là được thành Nhân. Hình ảnh thật đẹp, thật quý đó cũng đã được ghi khắc qua ca dao:
Cò tôi bay lả bay la
Bay từ cửa tổ bay ra cánh đồng
Cha mẹ sinh đẻ tay không
Cho nên bay khắp tây đông kiếm mồi
Trước là nuôi cái thân tôi
Sau nuôi đàn trẻ nên đời cò con.
Một mai khôn lớn vuông tròn
Rủ nhau bay khắp nước non xa gần.
Bay từ cửa tổ bay ra cánh đồng
Cha mẹ sinh đẻ tay không
Cho nên bay khắp tây đông kiếm mồi
Trước là nuôi cái thân tôi
Sau nuôi đàn trẻ nên đời cò con.
Một mai khôn lớn vuông tròn
Rủ nhau bay khắp nước non xa gần.
Điều này không một ai có thể phủ nhận được vai trò và địa vị của người Mẹ Việt, vì thế cho nên ngày xưa lúc người con gái về nhà chồng người Việt mình mới bảo là đi “gánh vác giang sơn nhà chồng”, như ca dao đã có câu :
Có con phải khổ vì con
Có chồng phải gánh giang sơn nhà chồng
Có chồng phải gánh giang sơn nhà chồng
chớ không phải là “xuất giá tòng phu” để đi về “làm dâu” nhà chồng, với nghiã để hầu hạ chồng và cung phụng cho nhà chồng! Tư tưởng này đã được bày đặt ra từ thời Hán thuộc với cái luật “nam nữ thọ thọ bất thân”, và thói tục “bó chân”, để chà đạp thiên chức con người với phẩm tính của Bà Nữ Oa, để biến đàn bà ra thành một món đồ chơi, cho cái đám đạo tặc phong kiến, vũ phu, vô tâm, vô đức. Ảnh hưởng đó còn in sâu cho tới ngày hôm nay, trong đầu óc của đám “bác học” còn ở vòng ngoài, bên phương Đông hay vong thân ở phương Tây, nên chưa biết quảng vấn và thận tư, thành thử chỉ là ngụy biện cho cái cảnh “chồng chúa vợ tôi”! Vì văn hóa du mục phương Bắc là văn hóa một chiều, chỉ dựa trên lý lẽ, đề cao sức mạnh và ham mê vật chất, nên không thể có được giá trị tinh thần “Nữ Oa”, cho nên để có thể đô hộ và cai trị Việt tộc, bọn thanh giáo nhà Hán phải đả phá và đảo lộn nền tảng của văn hóa Việt là nguyên lý Mẹ, với Âm trước Dương sau, Vợ trước Chồng sau, Tình trước Lý sau với hình ảnh và ý nghĩa đã được đề cao và ẩn giấu trong huyền thoại “Bà Nữ Oa Đội Đá Vá Trời”, từ mấy ngàn năm trước.
Minh Triết Việt tộc đã xuất hiện từ ngàn năm xưa với nền văn hóa nông nghiệp. Vì chỉ với văn hóa nông nghiệp, con người mới thật sự sống gần với thiên nhiên, và phải dầm mưa dãi nắng với chân lấm tay bùn và không biết bao nhiêu mồ hôi nước mắt, mới có thể hiểu được thế nào là sự tương giao hòa hợp của Đất Trời, và mới có thể nhận định được về vũ trụ (quan) và nhân sinh (quan). Vì vậy, với con mắt quan sát về vũ trụ vạn vật, và qua suy tư của lý trí với rung Cảm của Tâm Linh, Tổ Tiên ta đã thấy được cái Chân Thiện Mỹ nơi Con Người với chiều kích vô biên của Đại Ngã Tâm Linh, vì Con Người là Đức của Trời Đất, là Tâm của Vũ Trụ (nhân giả kỳ thiên địa chi đức, vũ trụ chi tâm), nên đã ẩn giấu cách khôn khéo cái nền Minh Triết đó, qua 12 câu ca dao sau đây, mà tôi không thể không viết ra đây cái hay, cái đẹp, với ý nghĩa tuyệt vời, để chia sẻ với bạn. Và bây giờ mời bạn đọc thong thả với tôi mấy câu ca dao này mà tôi đã chọn lọc:
Cái cò là cái cò con
Mẹ đi xúc tép, để con ở nhà
Mẹ đi lặn lội đồng xa
Mẹ sà chân xuống, phải mà con lươn
Ông kia có cái thuyền buồm
Chở vào rừng rậm xem lươn bắt cò
Ông kia chống gậy lò dò
Đi vô bụi rậm coi cò bắt lươn
Con cò cặp cổ con lươn
Con lươn cũng cố quấn quanh cổ cò
Hai con, cò kéo, lươn co
Con lươn tụt xuống con cò bay lên.
Mẹ đi xúc tép, để con ở nhà
Mẹ đi lặn lội đồng xa
Mẹ sà chân xuống, phải mà con lươn
Ông kia có cái thuyền buồm
Chở vào rừng rậm xem lươn bắt cò
Ông kia chống gậy lò dò
Đi vô bụi rậm coi cò bắt lươn
Con cò cặp cổ con lươn
Con lươn cũng cố quấn quanh cổ cò
Hai con, cò kéo, lươn co
Con lươn tụt xuống con cò bay lên.
Nếu bạn đọc kỹ những câu ca dao này và nếu bạn để ý, bạn sẽ tự hỏi từ ngay câu đầu, tại sao ông bà mình không nói là “con cò” mà lại nói là “cái cò”?
Chữ “cái” dùng để chỉ định một vật hữu hình, hay sự vô hình và rất được thông dụng trong ngôn ngữ thường ngày của người Việt. Người ta hay nói cái này, cái nọ, cái kia, cái gì, v.v…, hoặc cái đầu, cái mặt, cái tay, cái chân, cái thân, cái xương, cái da…, như ca dao tục ngữ là điển hình nhất cho sự thông dụng đó:
Được cái nọ dọ cái kia
Bằng cái sảy nảy cái ung
Đẻ đứa con trai chẳng biết nó giống ai ?
Đói thì đầu gối phải bò
Đã mang lấy cái thân tằm
Thân em như cái quả xoài trên cây
Bậu ra cho khỏi tay qua
Bằng cái sảy nảy cái ung
Đẻ đứa con trai chẳng biết nó giống ai ?
Cái mặt thì giống ông cai
Cái đầu ông xã, cái tai ông trùm.
Cái đầu ông xã, cái tai ông trùm.
Đói thì đầu gối phải bò
Cái chân phải chạy, cái giò phải đi.
Đã mang lấy cái thân tằm
Không vương tơ nữa, cũng nằm trong tơ.
Thân em như cái quả xoài trên cây
Bậu ra cho khỏi tay qua
Cái xương bậu nát, cái da bậu tàn.
“Cái” còn có nghiã để nói lên một tâm trạng không thể diễn tả được, nhưng lại có thể làm cho người nghe “cảm” được như: cái nghĩa, cái nhớ, cái thương, cái duyên, cái nợ, cái tình, cái tiếng… :
Em như hoa mận hoa đào
Ai về đằng ấy hôm mai
Chồng yêu cái tóc nên dài,
Ví chăng cái nợ tơ duyên,
Mới hay duyên nợ ba sinh
Buồn tênh cái tiếng thu chung
Đêm thu ta biết vui cùng với ai
Cái gì là nghĩa tương giao hỡi chàng
Ai về đằng ấy hôm mai
Gửi dăm cái nhớ, gửi vài cái thương
Chồng yêu cái tóc nên dài,
Cái duyên nên đẹp, cái tài nên khôn
Ví chăng cái nợ tơ duyên,
Nỡ đem nhan sắc mà phiền não ai?
Mới hay duyên nợ ba sinh
Nhà giàu cướp cả cái tình đôi ta
Buồn tênh cái tiếng thu chung
Đêm thu ta biết vui cùng với ai
“Cái” còn có nghĩa là giống “cái” với “đực”, nhưng cũng có nghĩa cả đực lẫn cái như : “con cái” với nghĩa con trai và con gái, nhưng cũng còn có nghĩa là “chánh” (principal) như người mình hay nói : đường cái, sông cái, v.v…, như ca dao cũng có câu :
Anh đi trúng lính thì đi
Đường cái đất cát, gió mát tận xương,
Đường đi cách núi Ba Vì
Cửa nhà con cái đã thì có em
Đường cái đất cát, gió mát tận xương,
Đường đi cách núi Ba Vì
Cách con sông Cái chàng đi đàng nào?
Và nghĩa “cái cò” đó ở đây, là nghiã “con cái”, vì câu đầu đó đã rõ nghĩa: “cái cò là cái cò con”, tức là con của “con cò”, là chim “bạch hạc”, là con hạc trắng mà ca dao cũng có diễn tả như :
Suốt mình trắng nõn như bông
Gió xuân thỉnh thỏang bợp lông trên đầu
Gió xuân thỉnh thỏang bợp lông trên đầu
Đó là một loài chim nước ở ruộng (nước), giống như chim Âu, với ẩn nghĩa Mẹ Âu Cơ, là Tiên, là Trời biểu tượng cho Mẹ của Việt tộc, vì thế câu kế tiếp (thứ 2) bắt đầu bằng chữ Mẹ :
Mẹ đi xúc tép, để con ở nhà
Chữ “đi ”, ai cũng hiểu nghĩa là thay đổi chỗ, vị trí, hay địa điểm có nghĩa là biến đổi, là biến dịch.
Nhưng tại sao không bắt (tép) mà lại “xúc” (tép) ? Vì “xúc” là động tác để hốt (lấy vào) những vật bé nhỏ (như là xúc cát) bằng cái rổ hay cái xuổng (pelle,shovel), ở đây có ý muốn nói số lượng nhiều, nghĩa là Mẹ đi bắt thật nhiều tép về cho con, để cho con ăn no và cho con mau lớn.
Rồi tại sao nói “tép” mà không là tôm mà cũng không là cá ? “Con cò” thì phải bắt con tôm hay con cá to hơn con tép thì ăn mới no, mới sướng chứ, tại sao lại đi xúc con tép ?
Thưa “tép” là con tôm nhỏ xíu sống ở sông hay ruộng, giống như con “ruốt” là con tôm nhỏ sống ở biển. Nói con “tép” là muốn nói lên ý nghĩa nhỏ bé, ý nghĩa non nớt, là ý nghĩa khởi đầu của sự sống của vạn vật mà cũng là của con người. Vì con còn nhỏ nên con chưa ăn được thứ gì khác, ngoài con “tép”, cũng như lúc con còn nhỏ chưa có răng thì con phải bú sửa, phải ăn đồ ăn Mẹ xay ra (tán, nghiền) để con mới nuốt được. Đó là ý nghĩa của sự săn sóc tận tụy của Mẹ cho con với tình thương bao la của Mẹ, mà cũng là ý nghĩa Mẹ dạy cho con biết Hòa ngay từ lúc nhỏ, để thích hợp với tình trạng và hoàn cảnh của con, là còn nhỏ thì phải ăn “tép” chớ không được ăn tôm, ăn cá, con sẽ bị mắc cổ !
Rồi tại sao lại “để” con ở nhà mà không “nhốt” hay “bắt”(biểu) con ở nhà ? Nghĩa của chữ “để” không phải là quăng, là vứt, là ném, là dụt, mà là (cất) đặt xuống với hết tất cả tâm tình và ý thức. Ở đây, có nghĩa là Mẹ hết sức lo lắng và lưu ý đến con, nghĩa là với hết tình thương của Mẹ, mà Mẹ ở đây là Trời, nghĩa là tình yêu của Trời dành cho con người ngay từ lúc con người con trong trứng (tý) nước, nghĩa là từ lúc chưa thành hình trong bụng Mẹ.
Chữ “ở nhà” ở đây không chỉ là ở trong cái nhà với bốn vách tường với cái mái (nhà), mà nghĩa chữ “nhà” phải hiểu ở đây là trong tim, trong lòng của Mẹ. Cho nên tuy vì bổn phận phải đi kiếm ăn cho con và phải để con ở nhà, để con đừng bị nắng gió, hay rét lạnh, nhưng con lúc nào cũng ở trong tâm trí, trong lòng của Mẹ. Đó là ý nghĩa con người ở trong Tâm của vũ trụ (vũ trụ chi tâm), và vũ trụ cũng là Tâm của con người.
Mẹ đi lặn lội đồng xa.
Nghĩa của chữ “lặn” là hụp (chìm) sâu xuống dưói nước. Và nghĩa “lội” là dẫm chân vào nước và đi trong nước, nhưng cũng có nghĩa là bơi lội. Nghĩa là muốn “xúc tép” bắt tôm thì phải (đi) lội trong nước. Mà hình ảnh của chữ lặn là (đi) xuống theo chiều dọc, và hình ảnh của chữ lội là (đi) chiều ngang. Mà nét dọc cũng còn biểu tượng Trời và nét ngang biểu tượng Đất, nói lên ý nghĩa con người là “Giao Chỉ” của nét Trời và nét Đất.
Chữ “đồng” dĩ nhiên nghĩa là đồng ruộng (nước), vì ở ruộng nước mới có tôm tép, mới có cua cá. Nhưng chữ “đồng” ở đây, phải hiểu theo nghĩa là mẹ Tiên về gặp cha Rồng ở cánh Đồng Tương, tức là tương đồng, tương giao, tương ứng, tương cầu, tương quan, tương sinh, tương khắc, tương biến, tương hòa, tương hợp, tương tư…
Và chữ “xa” là cách xa, xa tổ, xa nhà, xa xứ, nhưng cũng có nghĩa là xa rộng, xa mút, xa tít, xa thấu, xa vời, xa tận… chân trời, có nghĩa là chiều kích vô biên của con người.
Mẹ sà chân xuống, phải mà con lươn.
Tại sao lại nói “sà”(xuống) mà không nói “đáp” xuống? Tiếng Việt mình rất là hay vì nó vừa gợi ý, gợi hình, gợi cảnh, nhưng cũng vừa ẩn ý, ẩn nghĩa cho nên rất thâm thúy và sâu sắc. Ở đây, “sà” theo nghĩa đen là “con cò” bay sát còn gọi là “lượn” trên mặt nước, để tìm con “tép” vì con “tép” quá nhỏ nên khó thấy, cho nên phải “sà” sát mặt nước. Nhưng cũng có thể hiểu “sà” là bay sát theo chiều ngang, tức nét Đất.
Còn tại sao lại nói “chân” mà không nói “cẳng”? Nghĩa “chân” ở đây không chỉ hiểu là chân cò mảnh khảnh (ốm) và dài (cao), nhưng phải hiểu nghĩa là từ trên (cao) “xuống” tức nét dọc là Trời. Cho nên “sà chân xuống” cũng là ý nghĩa Trời Đất giao hòa. Nhưng “chân” cũng còn có nghĩa là chân chính, chân thật, chân lý của Trời Đất với tương đồng, tương giao như đã nói ở trên.
Chữ “phải” nghĩa là đúng, là chí lý, còn “mà” với nghĩa của “thì là mà”, tức là nghĩa “nhưng” hay “tuy vậy” là nghĩa trái lại, cho nên “phải mà” ở đây có nghĩa là không ngờ, không chờ đợi nhưng lại gặp, lại có, đó là ý nghĩa của “cơ duyên”. Nhưng “phải mà” còn có nghĩa phải (chi) mà tức là nghĩa có ý ước muốn, mong muốn chờ đợi để gặp, để có, để được.
Nhưng ước muốn để được gì, để gặp ai, để có chi nếu không phải mà “con lươn”. Vì cò con, hay con cò với con lươn cũng là con của Mẹ, tức của Trời, với ý nghĩa Mẹ là Trời, là Tình Yêu. Nhưng tại sao lại gặp “phải mà con lươn” mà không là con cá hay con gì khác ? Ở đây, ngoài cái nghĩa đen của con “lươn”, ta phải công nhận là tổ tiên đã muốn dùng hình ảnh con “lươn” để ẩn giấu ý nghĩa Cha Rồng thu nhỏ lại. Vì “lươn” cũng như Rồng là con vật có mình dài đều sống ở dưới nước, nhưng “con lươn” đã biến hóa nên mất vảy và rụng chân để sống ở sông ngòi và ruộng nước. Nên ẩn nghĩa của cái câu này là có ý muốn nói sự gặp gỡ của Tiên Rồng, của trai gái là cơ duyên nhưng cũng là tơ duyên của Trời Đất. Cho nên ca dao mới có những câu như :
Anh đừng thở ngắn than dài
Tơ duyên đã định, cố nài uổng công
Tơ duyên đã định, cố nài uổng công
Hay
Cơ trời dâu biển đa đoan
Tơ duyên vắn vỏi, thiếp chàng xa nhau!
Tơ duyên vắn vỏi, thiếp chàng xa nhau!
Tại sao đang “sà chân xuống, phải mà con lươn” rồi tự nhiên ở đâu có “ông kia” xuất hiện là sao? Rồi tại sao lại “ông” mà không là “bà” ?
Ông kia có cái thuyền buồm
Tôi đặt câu hỏi với bạn như vậy là cố ý để cho bạn thấy sự ẩn ý và cái nghĩa tiềm giấu trong ca dao tục ngữ bởi Tổ Tiên. Nhưng bạn sẽ lại hỏi tại sao lại đem ý nghĩa hay cất giấu như thế, thì làm sao ai mà hiểu ?
Tôi trả lời câu hỏi này bằng một câu hỏi khác là nếu bạn có một hột xoàn thật to (100 carats chẳng hạn), thật đẹp, thật quý, với giá thị trường chừng 20 triệu ơ rô (euros), bạn có đem giấu cất vô tủ két sắt (coffre) ở nhà băng (bank) không, hay là bạn để khơi khơi trước mắt khoe cho mọi người thấy ?! Vì vậy nên hễ là “của quý” thì người ta đem giấu rồi còn cất kỹ bằng khóa. Tương tự, ca dao tục ngữ là một kho tàng vô giá vì nó chứa đọng và ẩn giấu cái Minh Triết của Việt tộc, mà từ xưa đến nay, không có một dân tộc nào khác trên thế giới có, kể cả Trung-Hoa, và điều này cũng không cần dẫn chứng (cho cái đám “bác” học thuộc lòng), mà không ai có thể chối cải hay phủ nhận được, là tại vì cái câu bất hủ này :
Trăm năm bia đá cũng mòn,
Ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ.
Ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ.
Để trở lại ý nghĩa với “ông kia” là để ám chỉ “con người”, và tổ tiên đã không nói “bà kia” là vì theo phong tục tập quán của Việt tộc, nghề săn bắn, chài lưới, đánh cá, với những nghề có tính cách nguy hiểm, nặng nhọc cần sức mạnh, thường dành cho mấy ông. Vì vậy ông kia là ông ngư phủ nên mới có cái thuyền buồm. Nhưng tại sao lại xuất hiện đâu đó ? Thưa là vì ở xứ ta, theo địa lý sông ngòi và ruộng đồng thường ở san sát nhau, để dễ cho việc dẫn thủy nhập điền, vì ruộng của Việt tộc là ruộng nước vì là trồng lúa mễ hạp với thời tiết ở phía Nam hơn, như câu ca dao :
Mễ Trì thơm gạo tám xoan
Dự hương, nếp cái hoa vàng, cốm ngon.
Còn ruộng khô ở phiá Bắc thì trồng lúa tắc, tức là theo văn hóa du mục. Nên “con cò” và “con lươn” là những con vật chỉ sống ở ruộng nước. Cho nên con cò, con lươn và ông kia là ý nghĩa tam tài với Thiên-Địa-Nhân.
Còn “có cái”, “cái” ở đây phải hiểu theo nghĩa âm (dương) tức là Mẹ, nhưng cũng có nghĩa là chánh yếu như đường cái là đường lớn (rộng), hay sông cái là sông lớn, sông chánh. Nhưng có cái gì chánh yếu ở đây ? Thưa là cái thuyền buồm.
“Thuyền” ở trên mặt nước là ý nghĩa Rồng đã biến hóa ra thuyền, tức nét ngang chỉ Đất, và “buồm” là phải có gió mới thả buồm để cho thuyền chạy, thuyền lướt, tức nét dọc chỉ Trời. Nên “ông kia có cái thuyền buồm”, nghĩa là con người là “giao” (của) chỉ Trời và Đất, tức con người là Đức của Trời và Đất, đó là cái chánh yếu.
Chở vào rừng rậm, xem lươn bắt cò
Rồi tại sao lại “chở”, chở ai hay là chở cái gì ? Thưa là không chở ai hết mà cũng không chở cái gì hết, mà là chở chính ông kia là ông ta, là ta và cũng là con người. Tại sao vậy ? Thưa đây là cái cảnh (tượng) chính con người đang quan sát thiên nhiên, đang suy tư về ý nghĩa của sự hiện hữu của chính mình, để rồi tự ví mình như “con cò” mẹ đi kiếm “tép” về nuôi con, nên phải đi lặn lội đồng xa…
Tự nhiên đang ở đồng xa rồi “vào rừng rậm” là sao ? Thưa, nghĩa của chữ vào tức là đi vô trong chỗ rừng rậm, ở đây rừng rậm với nghĩa đen là cây cối um tùm, ở cái chỗ “con cò bắt con lươn”, nhưng nghĩa bóng của vào là đi vô vòng trong, nghĩa là phải tìm hiểu thấu triệt ý nghĩa của vạn vật trong vũ trụ với cái Tâm. Để làm gì ? Thì để xem lươn bắt cò, nghĩa là để có thể Cảm được cái sự giao hòa của Trời Đất nơi con người.
Nghĩa chữ “xem” ở đây là phải có (cái) nhìn tổng quát với hai chiều để tìm hiểu cái chi tiết. Còn “bắt”, nghĩa là tóm cổ hay chụp được, nhưng ở đây phải hiểu nghĩa là tương giao tương khắc, vì con cò muốn bắt con lươn để ăn tươi nuốt sống.
Ông kia chống gậy lò dò
Đi vô bụi rậm coi cò bắt lươn.
Đi vô bụi rậm coi cò bắt lươn.
Ủa, “ông kia” hồi nãy được chở bằng thuyền mà bây giờ sao lại “ông kia chống gậy” là sao ? Thưa cũng là một ông kia đó thôi, vì khi ông đó đã tới gần chỗ con cò sà xuống, nên muốn coi cảnh con cò bắt con lươn thì phải xuống thuyền, để lội rón rén vô cái chỗ bụi rậm mà đừng làm cho con cò sợ rồi làm cho nó bay lên mất thì không còn gì để coi, nên vì vậy mà phải chống gậy lò dò. Chữ “chống” ờ đây phải hiểu với nghĩa chống đỡ, vì là chống gậy cho nên có cái gậy để đỡ, để khỏi bị lún, bị té vì đất bùn đất ruộng. Hơn nữa với cây gậy ông kia có thể vạch bụi rậm ra coi mà không cần đến sát bên, để tránh làm hoảng sợ con cò với con lươn. Và chữ “gậy” ở đây còn có nghĩa là nét dọc tức là Trời, nghĩa là ông kia là con người được chống đỡ tức được che chở bởi Trời, vì con người là Đức của Trời Đất theo quan niệm của Tổ Tiên. Và “lò dò” là đi tìm, đi kiếm, đi coi, để thấy, để biết, để hiểu, rồi để sống thật với ý nghĩa của Trời Đất Giao Hòa.
Chữ “đi vô” ở đây là đi vào sâu hơn ở vòng trong, đó là cái Tâm của con người. Còn “bụi rậm” là cái mớ kiến thức mà mình đã biết, nên phải biết vạch bụi rậm để coi con cò bắt lươn, nên chữ “coi ” nghĩa là phải biết quảng vấn và thận tư rồi đem về Tâm với chiều kích vô biên của Đại Ngã Tâm Linh, để mới thấy CHÂN-THIỆN-MỸ, tức là mới hiểu và mới CẢM được sự GIAO HÒA của Trời Đất.
Con cò cặp cổ con lươn
Con lươn cũng cố quấn quanh cổ cò.
Con lươn cũng cố quấn quanh cổ cò.
Hai câu này rất gợi hình vì nó nói lên cái cảnh xung khắc giữa con cò và con lươn, vì con cò cặp cổ tức là kẹp cổ con lươn bằng cái mỏ của nó, để rồi tìm cách quật cho con lươn chết ; nhưng con lươn lại cũng cố quấn (quanh) cổ (con) cò, để cho con cò không thể quật nó được. Hình ảnh này nói lên sự tương sinh, tương khắc, tương giao, như Trời với Đất, như Âm với Dương, như trai với gái, tuy khác nhau ở thể chất nhưng vẫn muốn giao nhau ở thể tình, vì vậy nên mới cặp cổ hay quấn cổ. Đó cũng là ý nghĩa Vuông Tròn của nguyên lý Mẹ.
Hai con, cò kéo, lươn co
Con lươn tụt xuống, con cò bay lên.
Con lươn tụt xuống, con cò bay lên.
Và hai câu cuối này lại càng gợi ảnh rõ hơn nữa, vì là “hai con” với nghĩa Trời Đất, tức Âm Dương hòa hợp, là Lưỡng Nhất Tính.
Còn cò kéo, lươn co, tức là kéo co, là động tác giao hòa của Trời Đất, cũng như với tiết điệu và nhịp điệu hòa hợp của nam nữ, của trai gái. Để rồi con lươn tụt xuống, con cò bay lên, tức là ý nghĩa rời nhau sau đó giống như sự phân chia của Tình với Lý, của Mẹ Âu với 50 con lên núi và Cha Lạc với 50 con xuống biển, để khi nào “cần nhau”, thì kêu về để hẹn gặp lại nhau ở cánh Đồng Tương. Đó cũng là ý nghĩa “sinh sinh, hóa hóa” của vũ trụ vạn vật.
Thật là tuyệt vời! Không còn thứ gì có thể so sánh với ca dao của Việt tộc, và bây giờ bạn đã biết nó ẩn giấu cái Minh Triết của Đạo Trời, một cách tuyêt hảo trong những chữ rất là tầm thường, với cái nhịp điệu của Trời (lục, số 3x2) với Đất (bát, số 4x2), và âm vần tuyệt diệu.
Quả thật đó là một kho tàng vô giá của Tổ Tiên đã để lại, hy vọng bạn sau khi đọc bài này, bạn sẽ tìm cách gìn giữ nó bằng cách phổ biến thật nhiều cho con cháu Tiên Rồng để cho tất cả mọi người Việt đều biết để hãnh diện về nguồn gốc của mình và cố gắng sống với cái Đạo Trời, để:
Dù ai nói ngược nói xuôi
Ta đây vẫn giữ Đạo Trời khăng khăng.
Ta đây vẫn giữ Đạo Trời khăng khăng.
.
Paris, ngày 2 tháng 4 năm 2007.
(tức 15 tháng 2 năm Đinh Hợi)
Nguyễn Sơn Hà