Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC KỸ THUẬT
Kỹ Thuật Hóa Học
CN hóa học và ứng dụng
Chuyện vui và giai thoại các nhà hóa học.
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="ong noi loc" data-source="post: 144064" data-attributes="member: 161774"><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'">Tieuthuyet cũng từng post bài này nhưng post rời lạc và lộn xộn , tôi sẽ tổng hợp lại để mọi người có thể đọc được liên tục.</span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'"></span></span><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'"><strong></strong></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'"><strong>1. PHÁT MINH DO… NGỦ QUÊN</strong></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'"> Một đêm Carothers – nhà hóa học Mĩ, sau nhiều ngày đêm làm việc căng thẳng, đinh chợp mắt ít phút. Nhưng… ông đã ngủ liền tới sáng. Tỉnh dậy, ông hốt hoảng lo cho tất cả công sức thí nghiệm: Có lẽ đã tan thành mây khói? Ai ngờ, khi vừa nhấc chiếc đũa thủy tinh ở trong bình phản ứng lên, ông thấy chiếc đũa mềm nhũn và kéo theo một hỗn hợp có dạng sợi nhỏ mỏng manh óng ánh rất đẹp. Đó là sợi tổng hợp poliamit đầu tiên trên thế giới – sợi nilon ngày nay.</span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'"></span></span><p style="text-align: center"><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'"><a href="https://2.bp.blogspot.com/-68tIIapXqfg/UDdJodXzAZI/AAAAAAAAAa8/u4pYC-lsBt0/s1600/H4030470-Wallace_Hume_Carothers-SPL.jpg" target="_blank"><img src="https://2.bp.blogspot.com/-68tIIapXqfg/UDdJodXzAZI/AAAAAAAAAa8/u4pYC-lsBt0/s400/H4030470-Wallace_Hume_Carothers-SPL.jpg" alt="" class="fr-fic fr-dii fr-draggable " data-size="" style="" /></a></span></span></p> <p style="text-align: center"><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'">Carothers</span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'"></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'"></span></span></p><p style="text-align: center"><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'"><img src="https://3.bp.blogspot.com/-SUIbJiwBlNU/UCzm2iIY1oI/AAAAAAAAANs/57YOeFmrRIM/s400/soinilon.jpg" alt="" class="fr-fic fr-dii fr-draggable " data-size="" style="" /></span></span></p> <p style="text-align: center"><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'">Sợi nilon</span></span></p><p></p><p></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'"></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'"></span></span><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'"><strong>2. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CHÍNH XÁC</strong></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'"> Người phát minh ra phương pháp lưu hóa cao su là Ch.Goodyear. Ông là người nghèo túng nhưng kiên trì theo đuổi công việc của mình.</span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'"> Một hôm có một chủ xưởng máy hỏi người bạn của mình làm thế nào tìm gặp được Goodyear, người này bèn bảo:</span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'"> - Anh cứ tìm người nào mặc quần cao su, áo cao su, đi giày cao su, độ mũ cao su, có một cái ví bằng cao su nhưng không có lấy một đồng xu thì… đó chính là Goodyear.”</span></span><p style="text-align: center"><span style="font-size: 15px"><p style="text-align: center"><span style="font-family: 'book antiqua'"><a href="https://3.bp.blogspot.com/-4JzDOk82IOk/UCzoMKNlzpI/AAAAAAAAAN0/r6_WW3AdM5k/s1600/Ch.Goodyear.jpg" target="_blank"><img src="https://3.bp.blogspot.com/-4JzDOk82IOk/UCzoMKNlzpI/AAAAAAAAAN0/r6_WW3AdM5k/s400/Ch.Goodyear.jpg" alt="" class="fr-fic fr-dii fr-draggable " data-size="" style="" /></a></span></p></p> <p style="text-align: center"></span></p> <p style="text-align: center"><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'">Ch.Goodyear</span></span></p><p></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'"></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'"></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'"><strong>3. CHỈ ĐƠN GIẢN LÀ TÔI ỨNG DỤNG HÓA HỌC</strong></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'"> Năm 1943 Niels Bohr – nhà vật lý học người Đan Mạch, để thoát khỏi tay bọn Đức quốc xã, ông phải rời khỏi Copenhangen. Nhưng trong tay ông còn có hai huy chương Nobel bằng vàng của các bạn đồng nghiệp là James Franck (Mỹ) và Max Laue. (Huy chương Nobel của Bohr đã được đưa ra khỏi Đan Mạch trước đó).</span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'"> Không muốn liều mang các huy chương này theo mình, nhà bác học bèn hòa tan chúng trong nước cường toan (hỗn hợp của HNO[SUB]3[/SUB] và HCl) vào các chai “không có gì đáng chú ý” và đặt chúng vào một xó trên sàn nhà – nơi có nhiều chai lọ bụi bặm bám đầy.</span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'"> Sau chiến tranh, khi trở lại phòng thí nghiệm của mình, trước tiên Bohr tìm cái chai quý báu đó và theo yêu cầu của ông, những người cộng sự đã tách vàng ra rồi làm lại hai tấm huy chương.</span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'">Đáp lại sự cảm kích của các chủ nhân của hai tấm huy chương, Niels Bohr chỉ nói: “Đơn giản là tôi ứng dụng hóa học mà thôi”.</span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'"> </span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'">Hỗn hợp dung dịch HCl và HNO3 có thể hòa tan được vàng</span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'"></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'"><strong>4. NGƯỜI LẤY VÀNG TỪ MẶT TRỜI</strong></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'"> Nhà vật lý học Kirchhoff trong một buổi nói chuyện khoa học, ông thuyết giảng về quang phổ của mặt trời. Ông nói rằng những vạch đen trong quang phổ mặt trời chứng tỏ rằng trên mặt trời có vàng. Một ông chủ nhà hàng cũng có mặt trong buổi nói chuyện nghe vậy liền hỏi: “Thưa ngài! Liệu vàng ấy có ý nghĩa gì nếu ta không lấy được chúng”. Kirchhoff không nói gì cả.</span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'"> Ít lâu sau, Kirchhoff được nhận huy chương vàng nhờ phát minh phân tích phổ mặt trời. Ông bèn đưa cho nhà tư bản nọ xem và nói: “Ông thấy sao! Dù sao tôi vẫn lấy được vàng từ mặt trời”.</span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'"></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'"></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'"><strong>5. CHUYỆN VỀ MENDELEYEV</strong></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'"> Sau khi vợ nhà bác học Mendeleyev qua đời, ông cưới một phụ nữ khác. Nhưng luật pháp của nước Nga dưới thời Nga hoàng bấy giờ không cho phép lập gia đình khi vợ hoặc chồng vừa chết trong vòng ba năm. Ông đã nhờ một giáo sĩ làm lễ cho mình mà không sợ luật pháp hà khắc. Và người mục sư ấy sau khi giúp Mendeleyev đã bị khai trừ khỏi giáo hội.</span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'"> Một vị tể tướng của Sa Hoàng cũng trong hoàn cảnh của Mendeleyev và cũng đã làm lễ cưới. Nhưng Sa Hoàng đã hủy bỏ hôn ước của ông ta. Vị tể tướng thắc mắc tại sao hôn ước của Mendeleyev lại được nhà vua chấp nhận. Sa Hoàng trả lời ông ta: “Bởi vì người như khanh ta có rất nhiều, còn người như Mendeleyev ta chỉ có một”.</span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'"></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'"></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'"><strong>6. H[SUB]2[/SUB]</strong></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'"> Thế kỷ XVIII, nhà hóa học Pilatrơ Rôzơ người Pháp đã quan tâm đến vấn đề nếu hít khí hidro vào phổi thì cái gì sẽ xảy ra. Trước ông chưa ai từng thử hít hidro bao giờ. Và câu chuyện bắt đầu:</span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'"> Thoạt đầu, chẳng lưu tâm đến là liệu có hậu quả gì không nên Rôzơ quyết định thử hít hidro vào phổi. Ông ta lại liên tục hít hidro vào thật sâu hơn nữa, ông thở khí đó hướng vào ngọn nến đang cháy. Tất nhiên, hidro là thứ khí khi hỗn hợp với không khí sẽ gây nổ! Về sau Rôzơ đã viết lại rằng: “Tôi tưởng là tôi đã bị bay toàn bộ hàm răng và cả lợi nữa”. Chí ít thì ông cũng thỏa mãn với kết quả thí nghiệm mà với nó ông đã coi thường tính mạng của chính mình.</span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'"></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'"></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'"><strong>7. NHÀ HÓA HỌC THỬ KHÍ HIDRO XIANUA HCN</strong></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'"> Các nhà hóa học đã làm thế nào để có thể nhận ra được HCN trong một hỗn hợp khí?</span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'"> “Ta chỉ cần ngửi hỗn hợp đó. Nếu chúng ta chết ngay lập tức, chứng tỏ hỗn hợp chứa khí HCN”.</span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'"></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'"></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'"><strong>8. SỐ PHẬN TRỚ TRÊU</strong></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'"> Nhà bác học người Anh nổi tiếng Giô-det Giôn Tôm-xơn cũng giống như đa số các nhà bác học khác ở thế kỷ 19, tin tưởng mãnh liệt rằng nguyên tử là những phần tử nhỏ bé của vật chất không thể có cấu tạo nào bên trong hết.</span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'"> Một hôm người trợ giáo của Tôm-xơn hỏi ông: “Ông nghĩ gì về cấu tạo bên trong nguyên tử…</span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'"> - Anh bạn trẻ ạ! Tôi nghĩ rằng – nhà bác học tức giận ngắt câu hỏi – Nếu anh biết tiếng Latinh thì anh sẽ không hỏi như thế. “Nguyên tử” dịch từ tiếng Latinh có nghĩa là “không thể chia cắt được”.</span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'"> Nhưng chẳng bao lâu sau, vào năm 1903 chính Tôm-xơn đã đưa ra mô hình đầu tiên giải thích cấu tạo bên trong của nguyên tử.</span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'"></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'"></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'"><strong>9. NHẦM LẪN KIM CƯƠNG VỚI THỦY TINH</strong></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'"> Một lần vào năm 1820 ở London đã xảy ra một chuyện om sòm. Trong một buổi tối chiêu đãi các nhân vật quyền quý, một người thợ kim hoàn nổi tiếng đã nói với bá tước phu nhân (chủ nhân): “Thưa quý bà, trên ngón tay bày không phải là kim cương mà là đồ giả”.</span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'"> Vào năm 1790, Straxơ – thợ kim hoàn người Viên, lần đầu đã điều chế được thủy tinh pha chì, còn gọi là phalê, với thành phần chì oxit PbO đến gần 50%. Tính chất quang học của thủy tinh này và kim cương khá giống nhau: Đều có “tia sáng” và “ánh kim cương”. Những mẩu vụn pha lê làm ta liên tưởng đến các hột xoàn. Những cục pha lê nhỏ gọi là “stras” theo tên Straxơ. Nhìn dạng bên ngoài của stras khó phân biệt với kim cương nhưng nếu tìm hiểu kỹ nó thì thấy độ cứng của nó không đạt: Nó không làm xước thủy tinh. Rõ ràng những hạt giả kim cương này đã được đem bán cho bá tước phu nhân và vì thế bà đã đeo hột xoàn lớn nhất.</span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'"> Để nhuộm lại “Stras”, người ta thêm vào phối liệu nóng chảy một lượng nhỏ (0,0001%) vàng Au dưới dạng hợp chất bất kỳ của kim loại này và nhận được ngọc rubi giả màu đỏ rực. Cho coban oxit CoO vào thì sẽ biến “stras” thành thủy tinh xanh đẹp, giống như ngọc xaphia. Còn thêm vào phối liệu khi nấu pha lê một ít crôm (III) oxit (Cr[SUB]2[/SUB]O[SUB]3[/SUB]) thì làm cho “stras” giống như ngọc rubi (lumzud).</span></span></p><p></p><p style="text-align: center"><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'"><a href="https://3.bp.blogspot.com/-5MrHKSLtork/UCzuG6gyVvI/AAAAAAAAAOQ/1kdqncMda4s/s1600/kc_vien05.jpg" target="_blank"><img src="https://3.bp.blogspot.com/-5MrHKSLtork/UCzuG6gyVvI/AAAAAAAAAOQ/1kdqncMda4s/s320/kc_vien05.jpg" alt="" class="fr-fic fr-dii fr-draggable " data-size="" style="" /></a></span></span></p> <p style="text-align: center"><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'">Kim cương</span></span></p> <p style="text-align: center"><span style="font-size: 15px"><p style="text-align: center"><span style="font-family: 'book antiqua'"><a href="https://4.bp.blogspot.com/-7-GztmydDXk/UCzuF0Iu9II/AAAAAAAAAOI/GWt-o2kGo78/s1600/crystals-swarovskilarge-300x300.jpg" target="_blank"><img src="https://4.bp.blogspot.com/-7-GztmydDXk/UCzuF0Iu9II/AAAAAAAAAOI/GWt-o2kGo78/s1600/crystals-swarovskilarge-300x300.jpg" alt="" class="fr-fic fr-dii fr-draggable " data-size="" style="" /></a></span></p></p> <p style="text-align: center"></span></p> <p style="text-align: center"><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'">Pha lê</span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'"></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'"><strong>10. CHẾ TẠO MÁU NHÂN TẠO</strong></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'"> Trong máu có mọi thành phần chất dinh dưỡng cần thiết cho cơ thể: Có chất kích thích, men, kháng thể. Máu vận chuyển oxi, thải khí CO[SUB]2[/SUB] trong toàn bộ cơ thể. Máu gắn liền với sự sống con người. Nguồn máu chủ yếu dựa vào sự hiến máu nhân đạo của những người khỏe mạnh nhưng số người hiến máu có hạn.</span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'"> Vậy tại sao không chế ra máu nhân tạo?</span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'"> Năm 1966, tại Đại học Y Cincinati ở Mỹ, giáo sư Clank đã tiến hành thí nghiệm: Đem một con chuột thả vào dung dịch cacbon florua trong bình khí dung. Con chuột bị chìm xuống đáy bình khí dung. Sau một thời gian dài nó không bị chết ngạt mà vẫn sống khỏe mạnh, còn con chuột mà ngâm nước như thế sẽ chết ngạt nhanh chóng. Ông đã kết luận rằng: Cacbon florua có khả năng phân giải cho oxi lớn hơn nước 20 lần. Chuột sống trong dung dịch đủ oxi nên không chết ngạt.</span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'"> Tháng 4/1979, lần đầu tiên trên thế giới công bố việc chế tạo máu nhân tạo: Gồm các thành phần sau:</span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'">1. Cacbon florua.</span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'">2. Glixerol.</span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'">3. Natri clorua.</span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'">4. Kali clorua.</span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'">5. Canxi clorua.</span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'">6. Natri cacbonat.</span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'"> Máu nhân tạo có đặc điểm là:</span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'"> - Tính chất của cacbon florua rất ổn định nên có khả năng hòa tan rất nhiều oxi. Khả năng vận chuyển oxi so với protein màu đỏ trong máu lớn hơn và có thể thải được CO[SUB]2[/SUB] ra ngoài.</span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'"> - Máu nhân tạo có những tính chất lí, hóa ổn định, bảo quản từ 1 đến 3 năm có thể tùy ý sử dụng cho bất kỳ loại máu nào.</span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'">Song máu nhân tạo cũng có những nhược điểm:</span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'"> - Không có bạch huyết cầu, không có tác dụng đề kháng.</span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'"> - Không có khả năng phòng bệnh.</span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'"> - Không có khả năng đông khi bị chảy máu.</span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'">Để khắc phục vấn đề này các nhà y học và hóa học tương lai có thể làm được không?</span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'"></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'"></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'"><strong>11. NỮ THẦN VALADIS</strong></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'"> Nhà hóa học Friedrich Wohler (1800 – 1882) đáng lẽ là người phát minh ra nguyên tố vanađi, nhưng ông đã bỏ qua nguyên tố này vì không nghĩ rằng đó là một nguyên tố mới. Hai năm sau, nhà hóa học Thụy Điển Niels Sefstrem (1787 – 1845), học trò của Berzelius, tìm được vanađi và chứng minh nó là một nguyên tố mới, nên lịch sử hóa học ghi công đó thuộc về ông. </span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'"> Berzelius liền sáng tác một câu chuyện nhỏ để trêu Wohler: “Ở phương Bắc xa xôi, nữ thần Valadis ngự trong lâu đài tráng lệ. Một ngày đẹp trời, có ai đó gõ cửa. Nàng kiêu ngạo “Hãy để hắn gõ thêm một lần nữa”, nhưng tiếng bước chân đã xa dần. Nàng nhìn qua cửa sổ, thoáng thấy bóng Wohler đã bỏ đi. Hai năm sau, lại có người gõ cửa. nữ thần vội vàng ra mở cửa. Sefstrem bước vào. Kết quả của cuộc gặp gỡ hạnh phúc ấy làm một đứa con mang tên Vanađi.</span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'"></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'"></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'"><strong>12. PHÁT HIỆN CHẤT NỔ HÓA HỌC</strong></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'"> Từ một tai nạn ở phòng thí nghiệm Munich (Đức), các nhà khoa học tình cờ phát hiện ra khả năng giải phóng năng lượng của bọt silic. Sau nhiều năm nghiên cứu, họ kết luận chất bọt này có sức công phá gấp 7 lần TNT. </span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'"> Cách đây 3 năm, tại phòng thí nghiệm ở Munich, người ta chỉ tìm hiểu tính phản quang của bọt Si. Để tránh hiện tượng oxi hóa, mẫu thử được đặt trong môi trường chân không, sau đó người ta hạ thấp nhiệt độ xuống –180[SUP]0[/SUP]C. Nhưng do một sự rò rỉ, oxi lọt vào bên trong và ngay lập tức chuyển thành thể lỏng bám lên trên bề mặt bọt Si tạo ra một chuỗi phản ứng hóa học dẫn đến sự bùng cháy. “Đó là một tiếng nổ long trời lở đất. Thoạt tiên chúng tôi không làm gì cả, may mà lúc đó không có ai trong phòng thí nghiệm” – Kovalev kể lại. </span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'"> Sau khi phát hiện thủ phạm chính của vụ nổ là bọt Si, nhóm các nhà khoa học đã lập lại thí nghiệm trên nhiều lần. Theo Kovalev, mẫu thử Si sở dĩ có khả năng bùng phát mạnh như vậy vì hai nguyên nhân: Thứ nhất nhờ cấu trúc “bọt” nên nó có bề mặt tiếp xúc cực rộng, thứ hai ở môi trường nhiệt độ -180[SUP]0[/SUP]C, oxi hóa lỏng nên khả năng tiếp xúc với bề mặt của bọt Si tốt hơn và toàn diện hơn oxi ở thể khí. Vì vậy chỉ trong 1 phần triệu giây, mẫu vật có thể bị đốt cháy hoàn toàn giải phóng ra năng lượng vô cùng lớn. </span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'"> “Bọt Si hoàn toàn không nguy hiểm, để có thể bùng nổ phải có những điều kiện đặc biệt nên nó rất an toàn trong điều kiện thường” – Kovalev nói. </span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'"> Hiện giới khoa học đã công nhận kết quả của Kovalev. Tuy nhiên làm thế nào để sử dụng nguồn năng lượng tiềm ẩn trong Si lại là cả một vấn đề. Nhà vật lý Leigh Canham (Mỹ) đã thành lập một phòng thí nghiệm riêng để nghiên cứu chất nổ theo gương Alfred Nobel. Mới đây trên tờ Scientist, ông tuyên bố rằng tương lai sẽ có nhiều vệ tinh chạy bằng Si. Tuy nhiên các đồng nghiệp tỏ ra nghi ngờ giấc mơ này của ông. Họ thừa nhận rằng, trong đám bọt Si có rất nhiều năng lượng nhưng để giải phóng nó người ta cần nhiệt độ là – 180[SUP]0[/SUP]C. Mà điều này hoàn toàn không đơn giản khi đưa vào thực tế.</span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'"></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'"></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'"><strong>13. MỌI PHÁT MINH ĐỀU DO VÔ TÌNH?</strong></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'"> Năm 1878, nhà bác học Đức Phan-bec đã làm thí nghiệm với chất gọi là Cresolsunfanid do nữ hóa học Ana Phedoropna Vonkova đã điều chế ra lần đầu tiên. Một hôm vì đãng trí ông đã ngồi vào bàn ăn mà không rửa tay. Trong khi ăn, ông cảm thấy bánh mì ngọt một cách khác thường. </span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'"> Muốn tìm hiểu nguyên nhân, Phan-bec lập tức chạy vào phòng thí nghiệm và tiến hành phân tích cẩn thận chất lỏng trong bình mà ông đã đổ các dung dịch vô ích vào đó. Hóa ra trong bình này có chứa một chất mà ông chưa hề biết đến, tạo ra khi ông làm thí nghiệm. Chất này gọi là SACCAROZƠ. Về độ ngọt thì nó ngọt hơn đường gấp 500 lần. </span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'"> Năm 1903, nhà hóa học người Pháp là Benedichtut đã sơ ý chạm phải một cái bình thủy tinh rỗng và đánh rơi xuống sàn cách 3m rưỡi, ông rất lấy làm ngạc nhiên khi thấy cái bình mỏng manh không vỡ mà chỉ bị rạn nứt ngang dọc. Hóa ra bình này trước kia đã được dùng để đựng dung dịch Nitro Xenlulozơ tan trong ete, tức là một chất keo. Khi khô lại, chất keo tạo thành một màng rất mỏng, trong suốt và vững chắc ở mặt trong của thành bình và dính chặt vào thủy tinh. Màng này đã làm cho các mảnh thủy tinh rạn nứt gắn chặt vào nhau. Nhưng chẳng bao lâu vì quá bận rộn công việc nên Benedichtut đã quên khuấy câu chuyện thú vị này. </span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'"> Sau một vài năm, qua báo chí ông thấy rằng trong các trường hợp rủi ro người lái xe và hành khách thường bị trọng thương do các mảnh kính vỡ bay vào. Benedichtut bỗng nhớ lại câu chuyện kia và quyết định điều chế một thứ thủy tinh không vỡ tan thành những mảnh sắc, gọi là thủy tinh TRIPOLEC, lắp vào các xe hơi.</span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'"></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'"></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'"><strong>14. GIAI THOẠI</strong></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'"> Nhà vật lý người Mỹ Robert Wood và câu chuyện với Li. </span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'"> Năm 1891, Robert vừa tốt nghiệp đại học. Ông đến Baitimore để học môn Hóa dưới sự hướng dẫn của giáo sư tên tuổi Remsen. Ông ta ở trọ trong một nhà gần trường đại học và được các sinh viên khác kể rằng bà chủ nhà thường lấy thức ăn thừa của ngày hôm trước để nấu lại làm thức ăn sáng ngày hôm sau, nhưng làm thế nào để chứng minh được điều này? Wood thường nổi tiếng về khả năng tìm ra những giải pháp đơn giản nhưng độc đáo cho các vấn đề. Ông cũng đã không hổ danh trong lần này. </span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'"> Hôm đó, khi món bít – tết được dọn cho ông trong buổi cơm chiều, ông không ăn nhưng lại rắc lên đó chất clorua lithium, là 1 chất hoàn toàn vô hại và trông, nếm giống hệt muối ăn. Hôm sau, trong buổi điểm tâm, các sinh viên gom những lát thịt trong phần ăn của mình và đưa nó vào 1 quang phổ kế để xem xét. Một vạch đỏ xuất hiện trên quang phổ do việc phát xạ của Li tạo nên một chấm trên chữ i. Người chủ tham lam đã bị phát hiện. </span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'"> Nhiều năm sau Wood vẫn còn nhớ lại một cách thích thú việc “điều tra hình sự” của mình…</span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'"></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'"></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'"><strong>15. SỰ DŨNG CẢM CỦA NHÀ HÓA HỌC</strong></span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'"> Schiller – nhà hóa học Thụy Điển xuất thân từ gia đình nghèo, phải bỏ học đi làm thuê cho một nhà bào chế. Từ năm 14 tuổi, cậu bé Schiller đã tự mình đi vào hóa học. Năm 1775, những công trình thực nghiệm của ông đã nổi tiếng thế giới. Ông đã phát minh nhiều định luật cơ bản của hóa học. </span></span></p><p><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'"> Schiller có thói quen làm việc say mê. Công việc thí nghiệm của ong phải tiếp xúc thường xuyên với các chất độc hoặc dễ nổ, cháy và có thể gây ra những tai họa bất ngờ. </span></span></p><p style="text-align: center"><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'"> Một hôm, trước khi vào phòng thí nghiệm, ông dặn người giúp việc: “Tôi sắp làm thí nghiệm với khí clo. Nếu chẳng may tôi ngã, gọi anh thì chớ vào vội mà phải mở tung cửa rồi chạy nhanh ra ngoài!”. Người giúp việc hốt hoảng can ngăn nhưng ông điềm nhiên: “Không thể được. Tính mệnh của tôi không phải là điều quan trọng! Quan trọng hơn là phải tìm ra những tính chất của khí clo cơ”. Người giúp việc chỉ biết lắc đầu mà thô</span></span><a href="https://2.bp.blogspot.com/-qDNZ-cW3g9Q/UCzyYO5JW8I/AAAAAAAAAOk/XeFyX6CxAUo/s1600/Friedrich-Schiller.jpg" target="_blank"><img src="https://2.bp.blogspot.com/-qDNZ-cW3g9Q/UCzyYO5JW8I/AAAAAAAAAOk/XeFyX6CxAUo/s1600/Friedrich-Schiller.jpg" alt="" class="fr-fic fr-dii fr-draggable " data-size="" style="" /></a></p> <p style="text-align: center"><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'">Schiller</span></span><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'"></span></span></p> <p style="text-align: center"><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'"></span></span></p> <p style="text-align: center"></p> <p style="text-align: center"></p> <p style="text-align: center"><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'"><strong>16. MƯU CAO CỦA NHÀ HÓA HỌC</strong></span></span></p> <p style="text-align: center"><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'"> Năm 1892, Nga Hoàng cử D.I Mendeleyev làm quan bảo vệ kho các vật chuẩn đo lường. Một lần, khi nghe tin Công tước tể tướng Mikhain sẽ đến thăm kho, ông bèn ra lệnh cho nhân viên lấy những đồ dùng bằng sắt lủng củng chất đầy các phòng và rải khắp các lối đi. </span></span></p> <p style="text-align: center"><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'"> Khi hướng dẫn vị Công tước tể tướng đi thăm các phòng kho, thỉnh thoảng Mendeleyev lại nói:</span></span></p> <p style="text-align: center"><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'"> - Xin lỗi, mời Ngài đi lối này ạ! Ngài coi chừng dưới chân, kẻo vấp ngã! Ở chỗ chúng tôi rất chật chội ạ… </span></span></p> <p style="text-align: center"><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'"> Và bằng cách đó, ông đã đề nghị để chính phủ Nga Hoàng chấp nhận thêm ngân sách để mở rộng công trình nhà kho của ông.</span></span></p> <p style="text-align: center"><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'"></span></span></p> <p style="text-align: center"><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'"></span></span></p> <p style="text-align: center"><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'"><strong>17. GIẤC MƠ CỦA KEKULE</strong></span></span></p> <p style="text-align: center"><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'"> Nếu như giấc mơ của Mendeleyev khiến ông sắp xếp được hệ thống tuần hoàn các nguyên tố hóa học, thì giấc mơ sau đây của Kekule lại xây dựng được cấu trúc vòng của phân tử Benzen. </span></span></p> <p style="text-align: center"><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'"> “Tôi làm việc ở bàn viết với mọt cuốn sách và không đi đến đâu cả. Ý nghĩ của tôi lang thang. Các nguyên tố đang nhảy múa trước mặt tôi. Tuy nửa mơ nửa tỉnh nhưng tâm tư tôi có thể phân biệt được những chuỗi dài nguyên tử vặn vẹo đây đó như là những con rắn. Nhưng trời ơi! Một con rắn trong đó đột nhiên ngậm lấy cái đuôi của chính nó và quay cuồng trước mắt tôi tựa như trêu chọc tôi. Tôi giật nảy mình như bị sét đánh và tỉnh hẳn…” </span></span></p> <p style="text-align: center"><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'"> Ông Kekule khuyên: “Hãy học cách nằm mơ; và có thể khi ấy bạn sẽ tìm thấy sự thực… chỉ có điều là đừng có công bố các giấc mơ, trước khi chúng được kiểm nghiệm bằng những hiểu biết tỉnh táo”.</span></span></p> <p style="text-align: center"><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'"></span></span></p> <p style="text-align: center"><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'"></span></span></p> <p style="text-align: center"><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'"><strong>18. LỜI TIÊN TRI KHÔNG TỰ GIÁC</strong></span></span></p> <p style="text-align: center"><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'"> Vào một ngày thu ấm áp, tiếng cười đùa của lũ trẻ không cản trở thầy giáo Rolan mơ màng ngủ gà ngủ gật. Bỗng từ tầng dưới của một kí túc xá riêng ở Kazan vang lên một tiếng nổ long trời. Chắc mẩm đã xảy ra một sự cố gì nguy hiểm, thầy vội vã lao xuống tầng hầm và lát sau lôi ra được một chú bé mặt mày tái nhợt, đầu tóc bù xù. Đó là chú bé Butlerov, một học sinh rất say mê môn hóa, lợi dụng lúc vắng người, đã bí mật biến nhà ở thành “phòng thí nghiệm” riêng của mình. </span></span></p> <p style="text-align: center"></p> <p style="text-align: center"><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'"><a href="https://2.bp.blogspot.com/-gFaupYUuo1Y/UCzz09Q7_RI/AAAAAAAAAOs/9nzv8IR10Cw/s1600/Butlerov_tcm23-29647.gif" target="_blank"><img src="https://2.bp.blogspot.com/-gFaupYUuo1Y/UCzz09Q7_RI/AAAAAAAAAOs/9nzv8IR10Cw/s1600/Butlerov_tcm23-29647.gif" alt="" class="fr-fic fr-dii fr-draggable " data-size="" style="" /></a></span></span></p> <p style="text-align: center"><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'">Butlerov</span></span></p> <p style="text-align: center"></p> <p style="text-align: center"><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'"> Vì hành động tinh nghịch đó, thầy đã phạt giam cậu và theo quyết định “sáng suốt” của Hội đồng nhà trường, cậu bị đã bị dẫn diễu qua nhà ăn, trước ngực đeo một tấm bảng có ghi hàng chữ lớn: “Nhà hóa học vĩ đại”. </span></span></p> <p style="text-align: center"><span style="font-size: 15px"><span style="font-family: 'book antiqua'"> Tất nhiên, khi nghĩ ra hàng chữ chế nhạo này, các thầy giáo của Xasa đâu có ngờ đó đã trở thành lời tiên đoán của kẻ đã “vi phạm nội quy nhà trường” sẽ trở thành nhà hóa học vĩ đại thực sự. Butlerov – niềm tự hào và vinh quang của nền khoa học Nga và thế giới.</span></span></p></blockquote><p></p>
[QUOTE="ong noi loc, post: 144064, member: 161774"] [SIZE=4][FONT=book antiqua]Tieuthuyet cũng từng post bài này nhưng post rời lạc và lộn xộn , tôi sẽ tổng hợp lại để mọi người có thể đọc được liên tục. [/FONT][/SIZE][SIZE=4][FONT=book antiqua][B] 1. PHÁT MINH DO… NGỦ QUÊN[/B][/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=book antiqua] Một đêm Carothers – nhà hóa học Mĩ, sau nhiều ngày đêm làm việc căng thẳng, đinh chợp mắt ít phút. Nhưng… ông đã ngủ liền tới sáng. Tỉnh dậy, ông hốt hoảng lo cho tất cả công sức thí nghiệm: Có lẽ đã tan thành mây khói? Ai ngờ, khi vừa nhấc chiếc đũa thủy tinh ở trong bình phản ứng lên, ông thấy chiếc đũa mềm nhũn và kéo theo một hỗn hợp có dạng sợi nhỏ mỏng manh óng ánh rất đẹp. Đó là sợi tổng hợp poliamit đầu tiên trên thế giới – sợi nilon ngày nay. [/FONT][/SIZE][CENTER][SIZE=4][FONT=book antiqua][URL="https://2.bp.blogspot.com/-68tIIapXqfg/UDdJodXzAZI/AAAAAAAAAa8/u4pYC-lsBt0/s1600/H4030470-Wallace_Hume_Carothers-SPL.jpg"][IMG]https://2.bp.blogspot.com/-68tIIapXqfg/UDdJodXzAZI/AAAAAAAAAa8/u4pYC-lsBt0/s400/H4030470-Wallace_Hume_Carothers-SPL.jpg[/IMG][/URL][/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=book antiqua]Carothers[/FONT][/SIZE][/CENTER] [SIZE=4][FONT=book antiqua] [/FONT][/SIZE] [CENTER][SIZE=4][FONT=book antiqua][IMG]https://3.bp.blogspot.com/-SUIbJiwBlNU/UCzm2iIY1oI/AAAAAAAAANs/57YOeFmrRIM/s400/soinilon.jpg[/IMG][/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=book antiqua]Sợi nilon[/FONT][/SIZE][/CENTER] [SIZE=4][FONT=book antiqua] [/FONT][/SIZE][SIZE=4][FONT=book antiqua][B]2. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CHÍNH XÁC[/B][/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=book antiqua] Người phát minh ra phương pháp lưu hóa cao su là Ch.Goodyear. Ông là người nghèo túng nhưng kiên trì theo đuổi công việc của mình.[/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=book antiqua] Một hôm có một chủ xưởng máy hỏi người bạn của mình làm thế nào tìm gặp được Goodyear, người này bèn bảo:[/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=book antiqua] - Anh cứ tìm người nào mặc quần cao su, áo cao su, đi giày cao su, độ mũ cao su, có một cái ví bằng cao su nhưng không có lấy một đồng xu thì… đó chính là Goodyear.”[/FONT][/SIZE][CENTER][SIZE=4][CENTER][FONT=book antiqua][URL="https://3.bp.blogspot.com/-4JzDOk82IOk/UCzoMKNlzpI/AAAAAAAAAN0/r6_WW3AdM5k/s1600/Ch.Goodyear.jpg"][IMG]https://3.bp.blogspot.com/-4JzDOk82IOk/UCzoMKNlzpI/AAAAAAAAAN0/r6_WW3AdM5k/s400/Ch.Goodyear.jpg[/IMG][/URL][/FONT][/CENTER] [/SIZE] [SIZE=4][FONT=book antiqua]Ch.Goodyear[/FONT][/SIZE][/CENTER] [SIZE=4][FONT=book antiqua] [/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=book antiqua][B]3. CHỈ ĐƠN GIẢN LÀ TÔI ỨNG DỤNG HÓA HỌC[/B][/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=book antiqua] Năm 1943 Niels Bohr – nhà vật lý học người Đan Mạch, để thoát khỏi tay bọn Đức quốc xã, ông phải rời khỏi Copenhangen. Nhưng trong tay ông còn có hai huy chương Nobel bằng vàng của các bạn đồng nghiệp là James Franck (Mỹ) và Max Laue. (Huy chương Nobel của Bohr đã được đưa ra khỏi Đan Mạch trước đó).[/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=book antiqua] Không muốn liều mang các huy chương này theo mình, nhà bác học bèn hòa tan chúng trong nước cường toan (hỗn hợp của HNO[SUB]3[/SUB] và HCl) vào các chai “không có gì đáng chú ý” và đặt chúng vào một xó trên sàn nhà – nơi có nhiều chai lọ bụi bặm bám đầy.[/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=book antiqua] Sau chiến tranh, khi trở lại phòng thí nghiệm của mình, trước tiên Bohr tìm cái chai quý báu đó và theo yêu cầu của ông, những người cộng sự đã tách vàng ra rồi làm lại hai tấm huy chương.[/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=book antiqua]Đáp lại sự cảm kích của các chủ nhân của hai tấm huy chương, Niels Bohr chỉ nói: “Đơn giản là tôi ứng dụng hóa học mà thôi”.[/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=book antiqua] Hỗn hợp dung dịch HCl và HNO3 có thể hòa tan được vàng [B]4. NGƯỜI LẤY VÀNG TỪ MẶT TRỜI[/B][/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=book antiqua] Nhà vật lý học Kirchhoff trong một buổi nói chuyện khoa học, ông thuyết giảng về quang phổ của mặt trời. Ông nói rằng những vạch đen trong quang phổ mặt trời chứng tỏ rằng trên mặt trời có vàng. Một ông chủ nhà hàng cũng có mặt trong buổi nói chuyện nghe vậy liền hỏi: “Thưa ngài! Liệu vàng ấy có ý nghĩa gì nếu ta không lấy được chúng”. Kirchhoff không nói gì cả.[/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=book antiqua] Ít lâu sau, Kirchhoff được nhận huy chương vàng nhờ phát minh phân tích phổ mặt trời. Ông bèn đưa cho nhà tư bản nọ xem và nói: “Ông thấy sao! Dù sao tôi vẫn lấy được vàng từ mặt trời”.[/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=book antiqua] [/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=book antiqua][B]5. CHUYỆN VỀ MENDELEYEV[/B][/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=book antiqua] Sau khi vợ nhà bác học Mendeleyev qua đời, ông cưới một phụ nữ khác. Nhưng luật pháp của nước Nga dưới thời Nga hoàng bấy giờ không cho phép lập gia đình khi vợ hoặc chồng vừa chết trong vòng ba năm. Ông đã nhờ một giáo sĩ làm lễ cho mình mà không sợ luật pháp hà khắc. Và người mục sư ấy sau khi giúp Mendeleyev đã bị khai trừ khỏi giáo hội.[/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=book antiqua] Một vị tể tướng của Sa Hoàng cũng trong hoàn cảnh của Mendeleyev và cũng đã làm lễ cưới. Nhưng Sa Hoàng đã hủy bỏ hôn ước của ông ta. Vị tể tướng thắc mắc tại sao hôn ước của Mendeleyev lại được nhà vua chấp nhận. Sa Hoàng trả lời ông ta: “Bởi vì người như khanh ta có rất nhiều, còn người như Mendeleyev ta chỉ có một”.[/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=book antiqua] [/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=book antiqua][B]6. H[SUB]2[/SUB][/B][/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=book antiqua] Thế kỷ XVIII, nhà hóa học Pilatrơ Rôzơ người Pháp đã quan tâm đến vấn đề nếu hít khí hidro vào phổi thì cái gì sẽ xảy ra. Trước ông chưa ai từng thử hít hidro bao giờ. Và câu chuyện bắt đầu:[/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=book antiqua] Thoạt đầu, chẳng lưu tâm đến là liệu có hậu quả gì không nên Rôzơ quyết định thử hít hidro vào phổi. Ông ta lại liên tục hít hidro vào thật sâu hơn nữa, ông thở khí đó hướng vào ngọn nến đang cháy. Tất nhiên, hidro là thứ khí khi hỗn hợp với không khí sẽ gây nổ! Về sau Rôzơ đã viết lại rằng: “Tôi tưởng là tôi đã bị bay toàn bộ hàm răng và cả lợi nữa”. Chí ít thì ông cũng thỏa mãn với kết quả thí nghiệm mà với nó ông đã coi thường tính mạng của chính mình.[/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=book antiqua] [/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=book antiqua][B]7. NHÀ HÓA HỌC THỬ KHÍ HIDRO XIANUA HCN[/B][/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=book antiqua] Các nhà hóa học đã làm thế nào để có thể nhận ra được HCN trong một hỗn hợp khí?[/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=book antiqua] “Ta chỉ cần ngửi hỗn hợp đó. Nếu chúng ta chết ngay lập tức, chứng tỏ hỗn hợp chứa khí HCN”.[/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=book antiqua] [/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=book antiqua][B]8. SỐ PHẬN TRỚ TRÊU[/B][/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=book antiqua] Nhà bác học người Anh nổi tiếng Giô-det Giôn Tôm-xơn cũng giống như đa số các nhà bác học khác ở thế kỷ 19, tin tưởng mãnh liệt rằng nguyên tử là những phần tử nhỏ bé của vật chất không thể có cấu tạo nào bên trong hết.[/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=book antiqua] Một hôm người trợ giáo của Tôm-xơn hỏi ông: “Ông nghĩ gì về cấu tạo bên trong nguyên tử…[/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=book antiqua] - Anh bạn trẻ ạ! Tôi nghĩ rằng – nhà bác học tức giận ngắt câu hỏi – Nếu anh biết tiếng Latinh thì anh sẽ không hỏi như thế. “Nguyên tử” dịch từ tiếng Latinh có nghĩa là “không thể chia cắt được”.[/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=book antiqua] Nhưng chẳng bao lâu sau, vào năm 1903 chính Tôm-xơn đã đưa ra mô hình đầu tiên giải thích cấu tạo bên trong của nguyên tử.[/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=book antiqua] [/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=book antiqua][B]9. NHẦM LẪN KIM CƯƠNG VỚI THỦY TINH[/B][/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=book antiqua] Một lần vào năm 1820 ở London đã xảy ra một chuyện om sòm. Trong một buổi tối chiêu đãi các nhân vật quyền quý, một người thợ kim hoàn nổi tiếng đã nói với bá tước phu nhân (chủ nhân): “Thưa quý bà, trên ngón tay bày không phải là kim cương mà là đồ giả”.[/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=book antiqua] Vào năm 1790, Straxơ – thợ kim hoàn người Viên, lần đầu đã điều chế được thủy tinh pha chì, còn gọi là phalê, với thành phần chì oxit PbO đến gần 50%. Tính chất quang học của thủy tinh này và kim cương khá giống nhau: Đều có “tia sáng” và “ánh kim cương”. Những mẩu vụn pha lê làm ta liên tưởng đến các hột xoàn. Những cục pha lê nhỏ gọi là “stras” theo tên Straxơ. Nhìn dạng bên ngoài của stras khó phân biệt với kim cương nhưng nếu tìm hiểu kỹ nó thì thấy độ cứng của nó không đạt: Nó không làm xước thủy tinh. Rõ ràng những hạt giả kim cương này đã được đem bán cho bá tước phu nhân và vì thế bà đã đeo hột xoàn lớn nhất.[/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=book antiqua] Để nhuộm lại “Stras”, người ta thêm vào phối liệu nóng chảy một lượng nhỏ (0,0001%) vàng Au dưới dạng hợp chất bất kỳ của kim loại này và nhận được ngọc rubi giả màu đỏ rực. Cho coban oxit CoO vào thì sẽ biến “stras” thành thủy tinh xanh đẹp, giống như ngọc xaphia. Còn thêm vào phối liệu khi nấu pha lê một ít crôm (III) oxit (Cr[SUB]2[/SUB]O[SUB]3[/SUB]) thì làm cho “stras” giống như ngọc rubi (lumzud).[/FONT][/SIZE] [CENTER][SIZE=4][FONT=book antiqua][URL="https://3.bp.blogspot.com/-5MrHKSLtork/UCzuG6gyVvI/AAAAAAAAAOQ/1kdqncMda4s/s1600/kc_vien05.jpg"][IMG]https://3.bp.blogspot.com/-5MrHKSLtork/UCzuG6gyVvI/AAAAAAAAAOQ/1kdqncMda4s/s320/kc_vien05.jpg[/IMG][/URL][/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=book antiqua]Kim cương[/FONT][/SIZE] [SIZE=4][CENTER][FONT=book antiqua][URL="https://4.bp.blogspot.com/-7-GztmydDXk/UCzuF0Iu9II/AAAAAAAAAOI/GWt-o2kGo78/s1600/crystals-swarovskilarge-300x300.jpg"][IMG]https://4.bp.blogspot.com/-7-GztmydDXk/UCzuF0Iu9II/AAAAAAAAAOI/GWt-o2kGo78/s1600/crystals-swarovskilarge-300x300.jpg[/IMG][/URL][/FONT][/CENTER] [/SIZE] [SIZE=4][FONT=book antiqua]Pha lê[/FONT][/SIZE][/CENTER] [SIZE=4][FONT=book antiqua] [B]10. CHẾ TẠO MÁU NHÂN TẠO[/B][/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=book antiqua] Trong máu có mọi thành phần chất dinh dưỡng cần thiết cho cơ thể: Có chất kích thích, men, kháng thể. Máu vận chuyển oxi, thải khí CO[SUB]2[/SUB] trong toàn bộ cơ thể. Máu gắn liền với sự sống con người. Nguồn máu chủ yếu dựa vào sự hiến máu nhân đạo của những người khỏe mạnh nhưng số người hiến máu có hạn.[/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=book antiqua] Vậy tại sao không chế ra máu nhân tạo?[/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=book antiqua] Năm 1966, tại Đại học Y Cincinati ở Mỹ, giáo sư Clank đã tiến hành thí nghiệm: Đem một con chuột thả vào dung dịch cacbon florua trong bình khí dung. Con chuột bị chìm xuống đáy bình khí dung. Sau một thời gian dài nó không bị chết ngạt mà vẫn sống khỏe mạnh, còn con chuột mà ngâm nước như thế sẽ chết ngạt nhanh chóng. Ông đã kết luận rằng: Cacbon florua có khả năng phân giải cho oxi lớn hơn nước 20 lần. Chuột sống trong dung dịch đủ oxi nên không chết ngạt.[/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=book antiqua] Tháng 4/1979, lần đầu tiên trên thế giới công bố việc chế tạo máu nhân tạo: Gồm các thành phần sau:[/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=book antiqua]1. Cacbon florua.[/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=book antiqua]2. Glixerol.[/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=book antiqua]3. Natri clorua.[/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=book antiqua]4. Kali clorua.[/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=book antiqua]5. Canxi clorua.[/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=book antiqua]6. Natri cacbonat.[/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=book antiqua] Máu nhân tạo có đặc điểm là:[/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=book antiqua] - Tính chất của cacbon florua rất ổn định nên có khả năng hòa tan rất nhiều oxi. Khả năng vận chuyển oxi so với protein màu đỏ trong máu lớn hơn và có thể thải được CO[SUB]2[/SUB] ra ngoài.[/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=book antiqua] - Máu nhân tạo có những tính chất lí, hóa ổn định, bảo quản từ 1 đến 3 năm có thể tùy ý sử dụng cho bất kỳ loại máu nào.[/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=book antiqua]Song máu nhân tạo cũng có những nhược điểm:[/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=book antiqua] - Không có bạch huyết cầu, không có tác dụng đề kháng.[/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=book antiqua] - Không có khả năng phòng bệnh.[/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=book antiqua] - Không có khả năng đông khi bị chảy máu.[/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=book antiqua]Để khắc phục vấn đề này các nhà y học và hóa học tương lai có thể làm được không?[/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=book antiqua] [/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=book antiqua][B]11. NỮ THẦN VALADIS[/B][/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=book antiqua] Nhà hóa học Friedrich Wohler (1800 – 1882) đáng lẽ là người phát minh ra nguyên tố vanađi, nhưng ông đã bỏ qua nguyên tố này vì không nghĩ rằng đó là một nguyên tố mới. Hai năm sau, nhà hóa học Thụy Điển Niels Sefstrem (1787 – 1845), học trò của Berzelius, tìm được vanađi và chứng minh nó là một nguyên tố mới, nên lịch sử hóa học ghi công đó thuộc về ông. [/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=book antiqua] Berzelius liền sáng tác một câu chuyện nhỏ để trêu Wohler: “Ở phương Bắc xa xôi, nữ thần Valadis ngự trong lâu đài tráng lệ. Một ngày đẹp trời, có ai đó gõ cửa. Nàng kiêu ngạo “Hãy để hắn gõ thêm một lần nữa”, nhưng tiếng bước chân đã xa dần. Nàng nhìn qua cửa sổ, thoáng thấy bóng Wohler đã bỏ đi. Hai năm sau, lại có người gõ cửa. nữ thần vội vàng ra mở cửa. Sefstrem bước vào. Kết quả của cuộc gặp gỡ hạnh phúc ấy làm một đứa con mang tên Vanađi.[/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=book antiqua] [/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=book antiqua][B]12. PHÁT HIỆN CHẤT NỔ HÓA HỌC[/B][/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=book antiqua] Từ một tai nạn ở phòng thí nghiệm Munich (Đức), các nhà khoa học tình cờ phát hiện ra khả năng giải phóng năng lượng của bọt silic. Sau nhiều năm nghiên cứu, họ kết luận chất bọt này có sức công phá gấp 7 lần TNT. [/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=book antiqua] Cách đây 3 năm, tại phòng thí nghiệm ở Munich, người ta chỉ tìm hiểu tính phản quang của bọt Si. Để tránh hiện tượng oxi hóa, mẫu thử được đặt trong môi trường chân không, sau đó người ta hạ thấp nhiệt độ xuống –180[SUP]0[/SUP]C. Nhưng do một sự rò rỉ, oxi lọt vào bên trong và ngay lập tức chuyển thành thể lỏng bám lên trên bề mặt bọt Si tạo ra một chuỗi phản ứng hóa học dẫn đến sự bùng cháy. “Đó là một tiếng nổ long trời lở đất. Thoạt tiên chúng tôi không làm gì cả, may mà lúc đó không có ai trong phòng thí nghiệm” – Kovalev kể lại. [/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=book antiqua] Sau khi phát hiện thủ phạm chính của vụ nổ là bọt Si, nhóm các nhà khoa học đã lập lại thí nghiệm trên nhiều lần. Theo Kovalev, mẫu thử Si sở dĩ có khả năng bùng phát mạnh như vậy vì hai nguyên nhân: Thứ nhất nhờ cấu trúc “bọt” nên nó có bề mặt tiếp xúc cực rộng, thứ hai ở môi trường nhiệt độ -180[SUP]0[/SUP]C, oxi hóa lỏng nên khả năng tiếp xúc với bề mặt của bọt Si tốt hơn và toàn diện hơn oxi ở thể khí. Vì vậy chỉ trong 1 phần triệu giây, mẫu vật có thể bị đốt cháy hoàn toàn giải phóng ra năng lượng vô cùng lớn. [/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=book antiqua] “Bọt Si hoàn toàn không nguy hiểm, để có thể bùng nổ phải có những điều kiện đặc biệt nên nó rất an toàn trong điều kiện thường” – Kovalev nói. [/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=book antiqua] Hiện giới khoa học đã công nhận kết quả của Kovalev. Tuy nhiên làm thế nào để sử dụng nguồn năng lượng tiềm ẩn trong Si lại là cả một vấn đề. Nhà vật lý Leigh Canham (Mỹ) đã thành lập một phòng thí nghiệm riêng để nghiên cứu chất nổ theo gương Alfred Nobel. Mới đây trên tờ Scientist, ông tuyên bố rằng tương lai sẽ có nhiều vệ tinh chạy bằng Si. Tuy nhiên các đồng nghiệp tỏ ra nghi ngờ giấc mơ này của ông. Họ thừa nhận rằng, trong đám bọt Si có rất nhiều năng lượng nhưng để giải phóng nó người ta cần nhiệt độ là – 180[SUP]0[/SUP]C. Mà điều này hoàn toàn không đơn giản khi đưa vào thực tế.[/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=book antiqua] [/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=book antiqua][B]13. MỌI PHÁT MINH ĐỀU DO VÔ TÌNH?[/B][/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=book antiqua] Năm 1878, nhà bác học Đức Phan-bec đã làm thí nghiệm với chất gọi là Cresolsunfanid do nữ hóa học Ana Phedoropna Vonkova đã điều chế ra lần đầu tiên. Một hôm vì đãng trí ông đã ngồi vào bàn ăn mà không rửa tay. Trong khi ăn, ông cảm thấy bánh mì ngọt một cách khác thường. [/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=book antiqua] Muốn tìm hiểu nguyên nhân, Phan-bec lập tức chạy vào phòng thí nghiệm và tiến hành phân tích cẩn thận chất lỏng trong bình mà ông đã đổ các dung dịch vô ích vào đó. Hóa ra trong bình này có chứa một chất mà ông chưa hề biết đến, tạo ra khi ông làm thí nghiệm. Chất này gọi là SACCAROZƠ. Về độ ngọt thì nó ngọt hơn đường gấp 500 lần. [/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=book antiqua] Năm 1903, nhà hóa học người Pháp là Benedichtut đã sơ ý chạm phải một cái bình thủy tinh rỗng và đánh rơi xuống sàn cách 3m rưỡi, ông rất lấy làm ngạc nhiên khi thấy cái bình mỏng manh không vỡ mà chỉ bị rạn nứt ngang dọc. Hóa ra bình này trước kia đã được dùng để đựng dung dịch Nitro Xenlulozơ tan trong ete, tức là một chất keo. Khi khô lại, chất keo tạo thành một màng rất mỏng, trong suốt và vững chắc ở mặt trong của thành bình và dính chặt vào thủy tinh. Màng này đã làm cho các mảnh thủy tinh rạn nứt gắn chặt vào nhau. Nhưng chẳng bao lâu vì quá bận rộn công việc nên Benedichtut đã quên khuấy câu chuyện thú vị này. [/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=book antiqua] Sau một vài năm, qua báo chí ông thấy rằng trong các trường hợp rủi ro người lái xe và hành khách thường bị trọng thương do các mảnh kính vỡ bay vào. Benedichtut bỗng nhớ lại câu chuyện kia và quyết định điều chế một thứ thủy tinh không vỡ tan thành những mảnh sắc, gọi là thủy tinh TRIPOLEC, lắp vào các xe hơi.[/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=book antiqua] [/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=book antiqua][B]14. GIAI THOẠI[/B][/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=book antiqua] Nhà vật lý người Mỹ Robert Wood và câu chuyện với Li. [/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=book antiqua] Năm 1891, Robert vừa tốt nghiệp đại học. Ông đến Baitimore để học môn Hóa dưới sự hướng dẫn của giáo sư tên tuổi Remsen. Ông ta ở trọ trong một nhà gần trường đại học và được các sinh viên khác kể rằng bà chủ nhà thường lấy thức ăn thừa của ngày hôm trước để nấu lại làm thức ăn sáng ngày hôm sau, nhưng làm thế nào để chứng minh được điều này? Wood thường nổi tiếng về khả năng tìm ra những giải pháp đơn giản nhưng độc đáo cho các vấn đề. Ông cũng đã không hổ danh trong lần này. [/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=book antiqua] Hôm đó, khi món bít – tết được dọn cho ông trong buổi cơm chiều, ông không ăn nhưng lại rắc lên đó chất clorua lithium, là 1 chất hoàn toàn vô hại và trông, nếm giống hệt muối ăn. Hôm sau, trong buổi điểm tâm, các sinh viên gom những lát thịt trong phần ăn của mình và đưa nó vào 1 quang phổ kế để xem xét. Một vạch đỏ xuất hiện trên quang phổ do việc phát xạ của Li tạo nên một chấm trên chữ i. Người chủ tham lam đã bị phát hiện. [/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=book antiqua] Nhiều năm sau Wood vẫn còn nhớ lại một cách thích thú việc “điều tra hình sự” của mình… [/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=book antiqua][B]15. SỰ DŨNG CẢM CỦA NHÀ HÓA HỌC[/B][/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=book antiqua] Schiller – nhà hóa học Thụy Điển xuất thân từ gia đình nghèo, phải bỏ học đi làm thuê cho một nhà bào chế. Từ năm 14 tuổi, cậu bé Schiller đã tự mình đi vào hóa học. Năm 1775, những công trình thực nghiệm của ông đã nổi tiếng thế giới. Ông đã phát minh nhiều định luật cơ bản của hóa học. [/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=book antiqua] Schiller có thói quen làm việc say mê. Công việc thí nghiệm của ong phải tiếp xúc thường xuyên với các chất độc hoặc dễ nổ, cháy và có thể gây ra những tai họa bất ngờ. [/FONT][/SIZE] [CENTER][SIZE=4][FONT=book antiqua] Một hôm, trước khi vào phòng thí nghiệm, ông dặn người giúp việc: “Tôi sắp làm thí nghiệm với khí clo. Nếu chẳng may tôi ngã, gọi anh thì chớ vào vội mà phải mở tung cửa rồi chạy nhanh ra ngoài!”. Người giúp việc hốt hoảng can ngăn nhưng ông điềm nhiên: “Không thể được. Tính mệnh của tôi không phải là điều quan trọng! Quan trọng hơn là phải tìm ra những tính chất của khí clo cơ”. Người giúp việc chỉ biết lắc đầu mà thô[/FONT][/SIZE][URL="https://2.bp.blogspot.com/-qDNZ-cW3g9Q/UCzyYO5JW8I/AAAAAAAAAOk/XeFyX6CxAUo/s1600/Friedrich-Schiller.jpg"][IMG]https://2.bp.blogspot.com/-qDNZ-cW3g9Q/UCzyYO5JW8I/AAAAAAAAAOk/XeFyX6CxAUo/s1600/Friedrich-Schiller.jpg[/IMG][/URL] [SIZE=4][FONT=book antiqua]Schiller[/FONT][/SIZE][SIZE=4][FONT=book antiqua] [/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=book antiqua][B]16. MƯU CAO CỦA NHÀ HÓA HỌC[/B][/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=book antiqua] Năm 1892, Nga Hoàng cử D.I Mendeleyev làm quan bảo vệ kho các vật chuẩn đo lường. Một lần, khi nghe tin Công tước tể tướng Mikhain sẽ đến thăm kho, ông bèn ra lệnh cho nhân viên lấy những đồ dùng bằng sắt lủng củng chất đầy các phòng và rải khắp các lối đi. [/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=book antiqua] Khi hướng dẫn vị Công tước tể tướng đi thăm các phòng kho, thỉnh thoảng Mendeleyev lại nói:[/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=book antiqua] - Xin lỗi, mời Ngài đi lối này ạ! Ngài coi chừng dưới chân, kẻo vấp ngã! Ở chỗ chúng tôi rất chật chội ạ… [/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=book antiqua] Và bằng cách đó, ông đã đề nghị để chính phủ Nga Hoàng chấp nhận thêm ngân sách để mở rộng công trình nhà kho của ông.[/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=book antiqua] [/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=book antiqua][B]17. GIẤC MƠ CỦA KEKULE[/B][/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=book antiqua] Nếu như giấc mơ của Mendeleyev khiến ông sắp xếp được hệ thống tuần hoàn các nguyên tố hóa học, thì giấc mơ sau đây của Kekule lại xây dựng được cấu trúc vòng của phân tử Benzen. [/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=book antiqua] “Tôi làm việc ở bàn viết với mọt cuốn sách và không đi đến đâu cả. Ý nghĩ của tôi lang thang. Các nguyên tố đang nhảy múa trước mặt tôi. Tuy nửa mơ nửa tỉnh nhưng tâm tư tôi có thể phân biệt được những chuỗi dài nguyên tử vặn vẹo đây đó như là những con rắn. Nhưng trời ơi! Một con rắn trong đó đột nhiên ngậm lấy cái đuôi của chính nó và quay cuồng trước mắt tôi tựa như trêu chọc tôi. Tôi giật nảy mình như bị sét đánh và tỉnh hẳn…” [/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=book antiqua] Ông Kekule khuyên: “Hãy học cách nằm mơ; và có thể khi ấy bạn sẽ tìm thấy sự thực… chỉ có điều là đừng có công bố các giấc mơ, trước khi chúng được kiểm nghiệm bằng những hiểu biết tỉnh táo”.[/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=book antiqua] [/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=book antiqua][B]18. LỜI TIÊN TRI KHÔNG TỰ GIÁC[/B][/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=book antiqua] Vào một ngày thu ấm áp, tiếng cười đùa của lũ trẻ không cản trở thầy giáo Rolan mơ màng ngủ gà ngủ gật. Bỗng từ tầng dưới của một kí túc xá riêng ở Kazan vang lên một tiếng nổ long trời. Chắc mẩm đã xảy ra một sự cố gì nguy hiểm, thầy vội vã lao xuống tầng hầm và lát sau lôi ra được một chú bé mặt mày tái nhợt, đầu tóc bù xù. Đó là chú bé Butlerov, một học sinh rất say mê môn hóa, lợi dụng lúc vắng người, đã bí mật biến nhà ở thành “phòng thí nghiệm” riêng của mình. [/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=book antiqua][URL="https://2.bp.blogspot.com/-gFaupYUuo1Y/UCzz09Q7_RI/AAAAAAAAAOs/9nzv8IR10Cw/s1600/Butlerov_tcm23-29647.gif"][IMG]https://2.bp.blogspot.com/-gFaupYUuo1Y/UCzz09Q7_RI/AAAAAAAAAOs/9nzv8IR10Cw/s1600/Butlerov_tcm23-29647.gif[/IMG][/URL][/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=book antiqua]Butlerov[/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=book antiqua] Vì hành động tinh nghịch đó, thầy đã phạt giam cậu và theo quyết định “sáng suốt” của Hội đồng nhà trường, cậu bị đã bị dẫn diễu qua nhà ăn, trước ngực đeo một tấm bảng có ghi hàng chữ lớn: “Nhà hóa học vĩ đại”. [/FONT][/SIZE] [SIZE=4][FONT=book antiqua] Tất nhiên, khi nghĩ ra hàng chữ chế nhạo này, các thầy giáo của Xasa đâu có ngờ đó đã trở thành lời tiên đoán của kẻ đã “vi phạm nội quy nhà trường” sẽ trở thành nhà hóa học vĩ đại thực sự. Butlerov – niềm tự hào và vinh quang của nền khoa học Nga và thế giới.[/FONT][/SIZE][/CENTER] [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC KỸ THUẬT
Kỹ Thuật Hóa Học
CN hóa học và ứng dụng
Chuyện vui và giai thoại các nhà hóa học.
Top