Trang Dimple
New member
- Xu
- 38
Italia là quốc gia nằm ở phía Nam châu Âu, có quốc kỳ ba màu xanh lá – trắng – đỏ đã quen thuộc với rất nhiều người. Quốc gia này là nơi khởi nguồn của nhiều nền văn hóa châu Âu, cũng là nơi bắt đầu cho phong trào Phục hưng – phong trào mang tới nhiều thiên tài xuất chúng như Leonardo da Vinci, Michelangelo, Dante,… cũng như để lại cho nơi đây nhiều công trình kiến trúc tiêu biểu. Ở bài viết này bút nghiên cùng các bạn tìm hiểu về các thời kì lịch sử của Đất nước Italia
1. Italia sơ kỳ
Những cư dân đầu tiên của bán đảo Italia là những di dân châu Á và châu Âu, đến đây từ hơn 30.000 năm trước. Khoảng 4000 năm trước, những bộ lạc Latinh và Italia đã thống trị miền đất này.
Khoảng 700 Tr.CN, có những cư dân thời kỳ đồng thau bắt đầu biết chèo thuyền đi lại xung quanh Địa Trung Hải do ảnh hưởng từ những người Hy Lạp và Phoenicians. (Người Phoenician chỉ chung ngươi ở vương quốc cổ Phoenicia vùng ngày nay là Syria, Lebanon và Israel). Các nhà viết sử gọi họ là những người Etruscans. Trước đây người ta nghĩ rằng những người Etruscans đến từ Tây Á do tin vào sử gia Herodotus nhưng ngày nay người ta biết rằng những người Etruscans là 1 bộ phận của dân cư Italia.
Những người Etruscans học được rất nhiều thứ từ người Hy Lạp và người Phoenicians mà người Latins sống xung quanh Rome còn chưa biết. Những người Etruscans xây các thành phố với tường thành bằng đá. Họ xây các đền thờ lớn bằng đá. Họ đào kênh và mương để dẫn nước vào cánh đồng của họ. Họ đã tổ chức được chính quyền có vua. Sau đó một số cư dân khác ở Italia cũng bắt đầu học làm theo những gì người Etruscans đã làm.
Người Etruscans có một nền văn hóa phát triển cao, họ có ngôn ngữ riêng – mà nay đã biến mất, và ở họ có sự bình đẳng nam nữ, họ cho phép phụ nữ được học hành, được giữ lại tên họ và tài sản riêng. Người Etruscans cũng rất được kính trọng bởi họ là những thày bói đại tài. Người đã cảnh báo cho Julius Caesar về cái chết của ông với những lời “Hãy coi chừng Con cá tháng Ba!” (tức ngày 15 tháng 3) chính là một người Etruscans. Ngoài ra, những chiếc áo choàng không tay bằng len mịn của người Etruscans cũng ảnh hưởng tới văn hóa Italia, nó gợi hứng cho chiếc tô-ga (áo choàng rộng) của người La Mã.
Trong cùng khoảng thời gian, rất nhiều người Hy Lạp cũng đến chiếm nhiều nơi ở Italy làm thuộc địa, chủ yếu ở miền nam, nơi họ tiếp quản phần lớn đất của người Etruscans. Những người Hy Lạp này đã lập nên thành phố Naples nơi trở thành thành 1 cảng quan trọng. Còn người Etruscans thì thống trị miền trung Italia, đặc biệt là vùng đất giữa 2 con sông Arno và Tiber.
Những người Etruscans giao lưu buôn bán rất mạnh với những người Hy Lạp và những người Phenicians. Họ chuyển gỗ xẻ, lông thú và có thể là cả nô lệ sang phía đông và mua về đá quý, hương liệu, gia vị và bình gốm Hy Lạp. Phần lớn các bình gốm Hy Lạp trong các bảo tàng ngày nay là được tìm thấy ở Italy, trong các mộ táng của người Etruscans.
Thành phố Rome nằm giữa Italy, đồng thời là địa điểm tốt để qua con sông Tiber nên là nơi người Etruscans muốn nắm giữ. Trong 1 thời gian, Rome đã nằm dưới quyền của các vua Etruscans. Các vua này cũng cho xây các tường đá vững chắc, các đền thờ bằng đá và kênh đào dẫn nước ở đây.
Từ thế kỷ 4 đến thế kỷ 1 trước Công nguyên, người Roma lớn mạnh và các cuộc chinh phục của họ đã khiến sự thống trị của người Etruscans bị suy yếu và kết thúc hoàn toàn.
Nền cộng hoà ở Rome
Thành Roma cổ đại được xây dựng trên bảy ngọn đồi – Palatine, Capitoline, Caelian, Esquitine, Aventine, Quirinal và Viminal. Khoảng 500 Tr.CN, ngay khi nền dân chủ bắt đầu được thiết lập ở Athens, những quí tộc Roman (những người giàu) đã quyết định rằng họ không muốn ở dưới sự cai trị của các vua Etruscans nữa.
Quyền lực của các vị vua này không ảnh hưởng gì tới dân nghèo nhưng các quý tộc thì muốn có thêm quyền lực cho riêng họ. Nhưng giới quý tộc không thể tự mình mạo hiểm đương đầu với các vua chúa. Họ cần dân nghèo chiến đấu cho họ. Vì vậy quý tộc đã hứa hẹn trao cho dân nghèo nhiều quyền trong chính quyền mới nều họ chống lại các vua chúa. Dân nghèo đã đồng ý và cùng với quý tộc lật đổ các vua Etruscans.
Nhưng sau khi vua chúa đã bị lật đổ thì các quý tộc Roma lại không muốn trao cho đám dân nghèo bất cứ quyền lực gì. Do đó các lãnh đạo của đám dân nghèo rời bỏ thành phố và bãi công. Họ từ chối làm việc trừ phi họ có được 1 số quyền. Các quý tộc Roma đã phải nhượng bộ, để cho dân nghèo (trừ phụ nữ và nô lệ) có quyền bầu cử.
Tuy nhiên dân nghèo ở Roma không có được nhiều quyền như ở Athens. Thay vì được bỏ phiếu cho những vấn đề cụ thể, các công dân Roma phải bầu chọn ra những người đứng đầu, những người sẽ quyết định thay họ, giống như chọn các đại cử tri để bầu ra tổng thống ở Mỹ. Đồng thời chỉ những quý tộc mới được chọn vào Viện nguyên lão (Senate) của Roma.
The Roman Forum hay Imperial Forum: nơi tranh luận về các vấn đề của thành phố. Được xây dựng trong thung lũng giữa các đồi Palatine, Capitoline và Quirinal từ năm 500 trước Công nguyên đến thế kỷ thứ 2 sau Công nguyên.
Nhiều năm sau nữa, dân nghèo Roma vẫn cảm thấy không được đối xử bình đẳng và đấu tranh. Cuối cùng họ buộc được giới quý tộc phải chấp nhận các quan bảo dân (tribune) do họ bầu ra. Các quan bảo dân có quyền tham gia các cuộc họp của Viện nguyên lão và có quyền phủ quyết bất cứ điều gì mà Viện nguyên lão đưa ra bất lợi cho dân nghèo. Dân nghèo cũng buộc giới quý tộc phải ghi ra các luật lệ và đặt ở 1 quảng trường công cộng nơi bất cứ ai cũng có thể đọc. Các luật này được gọi là Bản 12 điều, giống như Bản điều luật Hammurabi của người Babylonian, hiểu như hiến pháp, để nhắc nhở giới quý tộc.
Trong khi đó, dần dần từng ít một, quân đội Roma chinh phục các thành phố xung quanh. Trong các cuộc chinh phục đó, khi chiếm được 1 thành phố, người Roma không lấy tài sản, phá hủy các tòa nhà rồi rút đi mà bắt thành phố đó phải lệ thuộc vào Roma, trở thành 1 phần của Roma. Dân cư trong các thành phố đó thường cũng được quyền bầu cử nhưng phải đóng thuế và đi lính cho Roma. Bởi vậy, càng xâm chiếm được nhiều, Roma càng giàu có và quân đội của Roma càng thêm đông đảo. Và Roma lại càng dễ dàng chinh phục các thành phố khác. Một cách nhanh chóng, Roma đã chiếm được phần lớn miền trung Italia.
Sau đó Roma bắt đầu chinh phục nam Italia. Người Roma có một ý tưởng mới, Roma sẵn sàng giúp đỡ 1 thành phố nào đó trong các cuộc chiến tranh nhưng sau khi giúp đỡ thành phố này đánh bại kẻ thù, Roma để lại binh lính với tuyên bố để bảo vệ an toàn cho thành phố. Bằng cách đó Roma lại chiếm được toàn bộ nam Italia. Đặc biệt thành công là việc 1 số thành phố của người Hy Lạp ở nam Italia yêu cầu được giúp đỡ chống lại Pyrrhus, vua của Epirus (quốc gia cổ ở vùng tây Hy Lạp và nam Albania). Pyrrhus cho rằng ông ta sẽ giống như Alexander Đại đế chinh phục thế giới, đã đem theo nhiều quân và voi từ Ấn Độ nhưng cũng bị Roma đánh bại.
Chinh phục Địa Trung Hải
Khoảng năm 274 trước Công nguyên, Rome đã chiếm toàn bộ bán đảo Italia. Khi đó một thành phố của người Hy Lạp ở Sicilia yêu cầu Rome giúp đỡ trong tranh chấp. Sau 1 thời gian lưỡng lự vì Sicilia ở quá xa, cuối cùng Viện nguyên lão cũng quyết định gửi quân giúp đỡ với ý định chiếm cả Sicilia, mở đầu cho ba cuộc chiến tranh Punic và công cuộc chinh phục Địa Trung Hải kéo dài hơn một thế kỷ.
Hannibal, vị tướng người Carthaginians đã vượt qua dãy Alpes để tấn công Roma
Lúc đó Sicilia chia làm 2 phần, 1 phần là các thành phố của người Hy Lạp, phần kia là các thành phố của người Carthaginians (Những người Bắc Phi cổ, còn gọi là người Punic hay người Carthaginians). Khi người Carthaginians nghe thấy việc quân Roma được cử tới Sicilia, họ đã lo sợ bị chiếm đóng. Vì vậy họ quyết định tấn công trước.
Ban đầu quân Roma thua vì phải đến Sicilly bằng thuyền trong khi họ không giỏi về kỹ năng chèo thuyền. Nhưng người Roma đã học và sao chép nhanh chóng thuyền của người Carthaginians. Và cuối cùng họ đánh bại người Carthaginians trong cuộc chiến tranh thứ nhất. Người Roman chiếm toàn bộ đảo Sicilia, buộc các thành phố ở đây đóng thuế cho Roma và dưới quyền một viên toàn quyền người Roma.
Chiến thuyền La Mã (những mái chèo do các nô lệ ngồi ở tầng hầm điều khiển)
Lãnh thổ chính của người Carthaginians là Carthage ở châu Phi, quân đội Roma không thể chiếm đóng, nhưng Carthage phải trả cho Roma 1 khoản tiền hàng năm rất lớn.
Chiến tranh Punic lần thứ hai
Những người Carthaginians, dưới quyền chỉ huy của tướng Hasdrubal (cha của Hannibal), vì phải lo khoản tiền trả cho Roma nên muốn chiếm nam Tây Ban Nha, mảnh đất giàu có với những mỏ bạc. Cùng lúc đó, những người Roma đang xâm chiếm miền bắc Tây Ban Nha, nơi có những mỏ vàng. Những người Roma và Carthaginians đã thỏa thuận chia sẻ Tây Ban Nha với nhau. Nhưng năm 219 trước Công nguyên, một thành phố nằm trong vùng chiếm đóng của người Carthaginians yêu cầu Roma giúp đỡ chống lại người Carthaginians. Người Roma gửi quân đến giúp khiến Hannibal, lúc này thay cha lãnh đạo người Carthaginians, quyết định tấn công Roma.
Hannibal sử dụng 1 lực lượng lớn quân đội và nhiều voi, ngựa chiến, vựợt qua dãy Alps vào Italia. Hannibal đã nghĩ rằng khi ông ta vào Italy, tất cả các thành phố sẽ vui mừng giúp đỡ ông ta để được độc lập khỏi Roma. Nhưng một số thành phố thì cho rằng Roma đã đối xử tốt với họ, một số khác quá e sợ Roma, không thành phố nào muốn giúp đỡ Hannibal.
Khi nghe tin Hannibal đến, những người Roma giữ khoảng 1/2 đội quân khổng lồ của họ ở lại Italia để chống lại Hannibal và gửi 1/2 số quân còn lại dưới quyền của Scipio đến nam Tây Ban Nha để chiếm các mỏ bạc.
Chiến tranh kéo dài, Hannibal không thể tiếp cận được Roma do chiến thuật khôn khéo của nguyên soái La Mã là Quintus Fabius (luôn tránh những trận đánh quyết định). Tuy voi chiến của Hannibal bị chết nhiều nhưng ông lại được những người Hy Lạp gửi thuyền đến giúp.
Nhưng sau đó Scipio đã chiếm được Tây Ban Nha và đem quân sang châu Phi tấn công Carthage. Hội đồng lãnh đạo của những người Carthaginian hoảng sợ gọi Hannibal quay về. Trận đại chiến diễn ra ở Zama (Maktar, Tunisia ngày nay), gần Carthage vào năm 202 trước Công nguyên và Hannibal bị thua.
Tuy chiến thắng nhưng người Roma một lần nữa cũng không thể chiếm Carthage. Họ chỉ chiếm toàn bộ Tây Ban Nha và để 1 số binh lính ở Morocco và Algeria, đồng thời buộc người Carthaginians phải đình chiến.
Chiến tranh Punic lần thứ ba
Sau cuộc chiến lần thứ 2, Italia đã bị tàn phá. Quân đội của Hannibal đã dày xéo Italia trong suốt hơn 10 năm. Toàn bộ đàn ông đã ra trận và phần lớn bị giết, một phần thì phải ở lại Tây Ban Nha hoặc châu Phi. Những người trở về nhà thì đất đai trang trại đã bị tàn phá, phải bán lại cho quý tộc để đủ tiền đóng thuế. 1 hậu quả khác là chiến tranh cũng làm nhiều dân nghèo các nơi đổ về Roma, không có việc làm và Viện nguyên lão phải cứu tế. Chỉ có giới quý tộc thì được lợi to vì mua được nhiều nô lệ và đất đai.
Những hậu quả đó đưa đến ý tưởng chinh phục Hy Lạp và Tây Á. Hy Lạp đã giúp người Carthginians là lý do chính đáng để quân đội Romans tấn công. Tấn công Hy Lạp sẽ giúp giải quyết đám dân nghèo nhờ xung họ vào lính và đẩy họ ra khỏi Roma. Và nếu Roma thắng, họ sẽ có nhiều tù binh để bán làm nô lệ.
Với quân đội hùng mạnh, người Roma đã thắng mọi nơi họ đến, ở Hy Lạp và tiếp tục tiến về Tây Á.
Trong khi đó, các đồng minh của người Roma ở châu Phi thường xuyên quấy nhiễu Carthage trong khi theo điều ước người Carthaginians không được phép đem quân trả đũa. Người Carthaginians đã yêu cầu Roma giúp giải quyết nhưng Roma từ chối. Cuối cùng, năm 146 trước Công nguyên, dù có ít hy vọng chiến thắng nhưng những người Carthaginian vẫn quyết định đánh lại các đồng minh của Roma. Khi nghe tin này Viện nguyên lão Roma rất tức giận, một thành viên của Viện nguyên lão là Cato ra lệnh phải phá hủy Carthage.
Quân đội Roma hành quân đến Carthage, thiêu hủy thành phố và đuổi dân chúng đi. (Có một câu chuyện về việc người Roma rắc muối lên các cánh đồng để người dân không canh tác được nữa nhưng chuyện này không có thật.)
Cũng trong năm 146 trước Công nguyên, người Roma chiếm xong các thành bang Hy Lạp và phá hủy thành phố giàu có Corinth (miền trung Hy Lạp).
Caesar là người đưa ra Dương lịch (Julian) thay cho lịch cũ của Roma, tên ông được đặt cho tháng 7
Đến 146 trước Công nguyên, sau các cuộc chiến tranh Punic và chinh phục Hy Lạp, những người Roma đã là quyền lực duy nhất còn lại trong vùng Địa Trung Hải và họ nắm giữ hầu như tất cả các vùng ven biển
Nhưng La Mã cũng có những trục trặc. Đầu tiên, ngay tại Roma, 2 anh em Cornelius Gracchus và Gaius Gracchus tìm cách lấy lại 1 số đất đai cho dân nghèo. Nhưng các nhà quý tộc giàu có trong Viện nguyên lão không đồng ý. Vào năm 133 và 123 trước Công nguyên, chính những thành viên Viện nguyên lão cùng với những kẻ ủng hộ đã truy đuổi và lần lượt giết chết 2 người này.
Thứ hai, những người châu Phi đã tấn công Carthage nay lại tiếp tục sinh sự. Rất nhiều thương nhân người Roma đang sinh sống tại châu Phi bị tàn sát hàng loạt. Vì vậy khoảng năm 100 trước Công nguyên quân đội Roma lại phải quay lại chiến đấu tại châu Phi. Nhưng lúc này rất khó khăn để có đủ binh lính cho mặt trận châu Phi, tướng Marius đã phải lấy những người nghèo khó thất nghiệp từ Roma và khuyến khích họ bằng chiến lợi phẩm. Nhờ đó Roma đã thắng.
Thứ ba, các thành phố Italia khác cảm thấy rằng Roma đã không đối xử đủ tốt với họ. Họ muốn tăng quyền hạn bầu cử. Vì vậy trong những năm 80 trước Công nguyên, đã có một cuộc chiến tranh với các thành phố Italia, viên tướng của mặt trận này là Sulla. Cuộc chiến tranh này gọi là Cuộc chiến tranh liên minh. Cuộc chiến kéo dài song cuối cùng Roma cũng thắng.
Nhưng rồi Marius và Sulla lại đánh lẫn nhau khi muốn trở thành tướng chỉ huy ở Tây Á. Marius thắng nhưng Sulla đem quân đội hành quân về Roma và đe dọa tấn công Roma nếu Viện nguyên lão không bổ nhiệm ông ta. Sulla thành công và đi Tây Á. Sau đó ông ta trở về với quyền lực lớn và trở thành nhà độc tài, lấn quyền của cả Viện nguyên lão.
Vì vậy sau khi Marius và Sulla chết, Viện nguyên lão Roma đã không còn đủ quyền lực để điều khiển đế chế La Mã nữa. Dân Roma muốn tìm kiếm 1 viên tướng tiếp theo có đủ khả năng nắm quyền. Có 3 kẻ tranh nhau, đó là Pompey – bạn của Sulla, Crassus – 1 kẻ giàu có và Julius Caesar – bạn của Marius. 3 người này thay nhau nắm quyền trong khoảng 10 năm. Trong thời gian này Caesar chiếm xong xứ Gaul (nước Pháp ngày nay). Khi Crassus bị giết trong cuộc chiến với những người Parthians (những người đến Tây Á từ Seberia, vào khoảng 100 trước Công nguyên lập nên nhà nước Parthia ở khoảng Iran ngày nay) ở Tây Á thì Pompey và Caesar đánh nhau, bắt đầu một cuộc nội chiến đẫm máu.
Năm 49 trước Công nguyên, Caesar vượt sông Rubicon (xem bản đồ) và tiến vào Roma còn đối thủ của ông rút về phía đông. Một năm sau, Caesar đại thắng Pompey trong trận Pharsalus. Pompey phải chạy sang Ai Cập và bị những người Ai Cập giết. Khi Caesar tiến vào Ai Cập, ông ta vui mừng vì Pompey đã bị giết nên đã đối xử rất hòa nhã với người Ai Cập, Caesar cũng gặp Cleopatra ở đây và mang Cleopatra về Roma.
Caesar là một thiên tài quân sự, một nhà hùng biện lỗi lạc, nhà thơ và là nhà sử học. Mặc dù là một quý tộc, ông lại ủng hộ chính nghĩa của giới bình dân. Năm 45 trước Công nguyên, Caesar tự tuyên bố là nhà độc tài của Cộng hòa La Mã và là người cai trị của đế quốc rộng lớn này. Caesar tin vào sự bình đẳng (ông cho phép tất cả các cư dân Italia trở thành công dân Roma), nhưng đồng thời cũng tin tưởng rằng nhà độc tài phải có quyền lực tuyệt đối và được phép lựa chọn người kế vị. Tuy nhiên nhiều thành viên Viện Nguyên lão không đồng tình với ông. Ngày 15 tháng 3 (Con cá tháng Ba) năm 44 trước Công nguyên, Julius Caesar bị một nhóm thành viên đâm chết, trong đó có một người tên là Brutus, người mà người ta cho rằng chính là con riêng của Caesar.
Một nhóm quyền lực khác được thành lập gồm Marc Anthony – bạn của Caesar, Lepidus – 1 kẻ rất giàu có và Octavian – cháu họ và là con nuôi của Caesar. Mọi chuyện lại lặp lại. Lepidus bị gạt bỏ. Rồi Anthony cùng người tình Cleopatra gây chiến với Octavian. Nhưng năm 31 trước Công nguyên, Octavian đánh bại Anthony và Cleopatra ở trận Actium, khiến 2 người này phải tự sát. Sau đó Octavian lên ngôi hoàng đế và lấy niên hiệu là Augustus, khởi đầu thời kỳ thịnh trị của Đế chế La Mã.
Nền thái bình La Mã
Augustus mở đầu cho “nền thái bình La Mã”
Sau cái chết của Ceasar, một thập kỷ bất ổn liên miên cuối cùng cũng đã kết thúc nhờ người cháu của Ceasar – Octavian Ceasar. Năm 31 trước Công nguyên, ông trở thành vị hoàng đế La Mã đầu tiên, lấy tên hiệu là Augustus (“Tôn kính”). Ông cho xây dựng thư viện, đền đài, nhà hát và đường sá, và ban hành bộ luật chung cho toàn đế quốc. Augustus sống đến năm 13 sau Công nguyên
Sự cai trị của ông bắt đầu một thời kỳ hòa bình và thịnh vượng, được biết đến dưới tên gọi Pax Romana (“Nền thái bình La Mã”), mặc dù sau Augustus ít lâu, người dân Roma đã có nhiều năm kinh hoàng dưới sự cai trị của bạo chúa Nero, người đã đốt cháy cả thành Roma hoa lệ để tìm thi hứng và tạo cớ tàn sát những người theo Thiên chúa giáo. (Chính Nero đã ra lệnh hành quyết thánh Peter và thánh Paul.) Galba, viên toàn quyền xứ Tây Ban Nha đã kéo quân về cùng dân chúng chống lại Nero khiến hoàng đế cuối cùng của dòng họ Caesar phải tự sát.
Đế quốc La Mã đạt đến đỉnh cao vào cuối thế kỷ thứ nhất, khi La Mã vĩ đại và tiếng Latinh thống trị toàn bộ những vùng đất từ biển Caspian đến Đại Tây Dương. Thời thịnh trị này kéo dài từ năm 98 (Hoàng đế Nerva lên ngôi) đến khoảng giữa thế kỷ thứ hai sau Công nguyên (Hoàng đế Marcus).
Thời kỳ trị vì của Marcus không yên ổn. Ngay khi hoàng đế trước là Antonius chết, những người Parthians đã tấn công phần lãnh thổ phía đông của đế chế với hy vọng là Roma có thể sụp đổ sau khi Antonius chết. Marcus đã phải phái quân đội từ phần phía tây của đế quốc đi đánh dẹp, quân Roma thắng trận. Nhưng sau cuộc chiến này, người Roma đã bị nhiễm một bệnh dịch khủng khiếp từ những người Parthians, ngày nay không thể biết chắc là bệnh gì, có thể là đậu mùa. Binh lính từ phía đông trở về đã mang theo bệnh dịch lan tràn khắp đế quốc, rất nhiều người chết vì dịch bệnh. Ở phía bắc, những người German sống trong vùng ngày nay là Đức, Áo và Thụy Sĩ thấy rằng phần lớn lính Roma đã rời đi và đang có bệnh dịch lan tràn. Họ cho rằng đã đến lúc thích hợp để tấn công vào đế quốc. Trong suốt thời gian trị vì còn lại, Marcus phải lo đối phó với các bộ tộc German này. Khi sắp đi đến chiến thắng cuối cùng thì Marcus chết năm 180. Lúc này đế quốc rất suy sụp vì bệnh dịch và dồn sức cho chiến tranh.
Sau đó La Mã trải qua một thời kỳ khó khăn đặc biệt là trong thế kỷ thứ 3 với các cuộc tấn công của người Sassanids từ phía đông và của người Germans từ phía bắc.
Người Sassanids họ là 1 nhóm người Persians, từ khoảng năm 210 đã đánh bại được người Parthians và chiếm quyền kiểm soát vương quốc của người Parthians, họ muốn khôi phục đất đai của đế quốc Persia trước kia bao gồm đến tận Ixrael, Syria, Li băng và Thổ Nhĩ Kỳ, đồng thời cả Ai Cập. Sassanids thường được xếp vào lịch sử của Iran ngày nay. Còn người Germans là những người Ấn Âu, trước kia ở vùng biển Đen và Caspian, từ khoảng năm 2000 trước Công nguyên bắt đầu di cư nhiều đợt vào miền bắc châu Âu như vùng bán đảo Scandinavia (nước Nauy, Thụy Điển và Denmark) và vùng Đức, dần dần là Áo, Thụy Sĩ ngày nay.
Vấn đề của Đế quốc La Mã là các hoàng đế không thể chỉ huy cả 2 bộ phận quân đội cùng 1 lúc, cần thêm 1 viên tướng nữa chỉ huy mặt trận thứ 2, khi đó quân đội ở đâu cũng luôn muốn lập viên tướng của mình làm hoàng đế sẽ dẫn đến xung đột nội bộ và kết quả là 2 nửa quân đội của Rome chủ yếu đánh lẫn nhau hơn là đánh người Sassanids và người Germans. Ngoài ra để phục vụ cho chiến tranh, dân chúng trong đế quốc cũng sẽ phải è cổ ra đóng thuế, các cuộc nổi loạn nhỏ xảy ra khá thường xuyên cũng khiến quân đội phải can thiệp.
Trong giai đoạn này có rất nhiều Hoàng đế vì lần lượt bị giết trong chiến trận hoặc vì binh lính nổi loạn, gần như không có ai cầm quyền được quá 5 năm.
Đến năm 284, Hoàng đế Diocletian, một viên tướng trẻ tuổi và có tài, lên ngôi và đã đánh lui cả người Sassanids và người Germans, dẹp tan tất cả các cuộc nổi loạn. Diocletian cũng giải quyết cuộc xung đột giữa 2 bộ phận quân đội đông và tây bằng cách lập nên 1 hệ thống gồm 2 Hoàng đế cùng lúc, và 2 phụ tá, khi 1 Hoàng đế chết, 1 phụ tá của ông ta sẽ lên thay và chỉ định 1 phụ tá mới, hệ thống này gọi là Bộ tứ (Tetrarchy – quyền lực 4 người).
Hệ thống Bộ tứ hoạt động tốt trong khoảng 20 năm thì bị phá vỡ. Constantine, con trai của Hoàng đế Constantius vừa chết đã được quân đội ủng hộ lên làm Hoàng đế thay vì phụ tá Severus của cựu hoàng đế. Một cuộc nối chiến lớn đã xảy ra vì Severus được sự ủng hộ của vị Hoàng đế còn lại, Maximian. Năm 312, 1 trận chiến lớn giữa Constantine và Maxentius con trai của Maximian đã xảy ra ngay tại Roma, Constantine ở bên ngoài tường thành và Maxentius ở bên trong.
Có một truyền thuyết rằng Constantine đã mơ thấy hình ảnh cây thập tự của Cơ đốc giáo xuất hiện trên bầu trời kèm theo lời sấm truyền “dưới biểu tượng này nhà ngươi sẽ chiến thắng”, và ông ta đã ra lệnh cho binh lý vẽ lên trên áo giáp hình thập tự trước khi bước vào trận chiến và đã giành chiến thắng dù có quân số ít hơn. Vì vậy Constantine đã bị quyền lực của chúa Jesu chinh phục và quyết định trở thành một người Cơ đốc giáo.
Năm 324 Constantine chính thức lên làm Hoàng đế duy nhất. Cùng năm đó ông ta thành lập 1 thành phố mới ở phía đông, thành phố Constantinople (có nghĩa là thành phố của Constantine, nay là thủ đô Istanbul của Thổ Nhĩ Kỳ) để phản ánh sự lớn mạnh của phần phía đông của đế quốc đồng thời là điểm giữa 2 chiến trường phía bắc và phía đông, thuận tiện cho sự cai quản của 1 Hoàng đế duy nhất.
Constantine chết năm 337 và đế quốc lại rơi vào những cuộc nội chiến và chiến tranh chống lại người Sassanids, lúc này đã giải quyết xong nội chiến và quay lại tấn công vào La Mã.
Sự sụp đổ của Roma
Sau khi Constantine chết năm 337, ba người con của ông đánh lẫn nhau cùng với cuộc nổi loạn ở xứ Gaul khiến tình hình đế quốc rất rối ren. Đến năm 350, Constantius mới giết được hai người em kia và lên làm hoàng đế xưng là Constantius II.
Sau đó đế quốc liên tục phải trải qua các cuộc chiến tranh với người Sassanids ở phía đông và người German ở phía bắc, xen lẫn đó là các cuộc chiến tranh giành quyền lực giữa hai lực lượng quân đội đông và tây. Bên cạnh đó là cuộc chiến giành quyền thống trị của các nhánh của Thiên chúa giáo. Sau khi hoàng đế Theodosius chết năm 395, hai con trai của ông là Honorius và Arcadius đã chia nhau cai quản hai phần đông, tây tách thành Đông đế quốc và Tây đế quốc. Nhưng 2 người này lớn lên tại triều đình, không giỏi và không quan tâm đến việc cai trị, hầu như mọi công việc do các cố vấn giải quyết. Giúp đỡ cho Honorius là 1 người Vandal tên là Stilicho, người đã gia nhập quân đội Roman và từ lính leo lên đến cương vị tướng.
Không bao lâu sau những người Germans và người Goths nhận thấy sự yếu kém của các Hoàng đế mới và tấn công mạnh. Các tướng lĩnh La Mã cũng nhận ra sự yếu kém đó và nổi loạn. Đầu tiên Constantine III, 1 viên tướng ở Anh, tự tuyên bố lập mình làm Hoàng đế ở York năm 405. Constantine III đem quân vượt eo biển Anh đổ bộ vào Pháp, thu phục binh lính ở đây rồi tiến về Roma. Khi đó biên giới của đế quốc gần như bỏ ngỏ.
Tháng giêng năm 409, các nhóm người German gồm người Alans, Vandals và Sueves vượt sông Rhine lúc này đang đóng băng và tiến vào Pháp 1 cách dễ dàng. Không còn binh lính Roma ở đây, và đội quân này tha hồ cướp phá, không những vậy họ còn mang theo cả gia đình và ở lại chiếm đóng tại đây. Còn Constantine III trên đường tiến về Roma đã cắt 1 bộ phận đánh chiếm Tây Ban Nha do Gerontius chỉ huy, nhưng chính Gerontius lại tự lập mình làm Hoàng đế. Để có được 1 đội quân đủ mạnh Gerontius thỏa hiệp với người Alans, Vandals và Sueves, cho phép họ vào Tây Ban Nha khi họ hứa giúp ông ta, thế là những người German này ở lại đây. Chính quyền trung ương Roma điều quân chặn đánh và giết chết được cả Constantine III rồi cả Gerontius. Sau đó khi quân đội Roma từ Anh, Pháp, Tây Ban Nha được tập trung về Italia để đối phó với người Visigoths, những nơi này trở thành gần như hoàn toàn thuộc quyền cai quản của những người German mới đến.
Về những người Visigoths, sau chiến thắng năm 378 tại Adrianople, Theodosius đã thỏa hiệp cho phép họ ở lại bên trong đế quốc, nhưng họ không được đối xử tốt, không được phép xây nhà ở tử tế và rất khó kiếm sống. Khi 1 vua mới của người Visigoths là Alaric lên, Alaric muốn gây chiến, ông ta đòi vua La Mã ở phía tây là Honorius phải trả cho họ 1 lượng vàng, khi Honorius không chấp thuận, quân Visigoths tiến về Roma. Dù chính quyền trung ương Roma đã tập trung khá đông quân về Roma nhưng những người Visigoths năm 410 vẫn chiếm được thủ đô, cướp phá và tàn sát. Người La Mã bị tác động rất mạnh, họ cho rằng đó chính là đức chúa trời đã giận dữ. Quân Visigoths sau khi cướp phá Roma thì tiến xuống miền nam Italia, định vượt biển sang châu Phi nhưng Alaric chết và bão to làm họ hoảng sợ, người Visigoth quay lên và chuyển hướng sang miền nam Pháp rồi định cư ở đây.
Trong khi người Burgundians đã chiếm miền đông Pháp, còn người Vandals và Sueves đã ở Tây Ban Nha (người Alans thì gần như bị xóa sổ). Năm 429 người Vandals vượt eo biển Gibraltar tiến sang chiếm châu Phi mà hầu như không gặp sự kháng cự nào đáng kể. Chỉ còn người Sueves ở lại Tây Ban Nha nhưng rồi người Visigoths bắt đầu tràn xuống chiếm dần từng phần của Tây Ban Nha. Những người Picts và 1 số nhóm German khác đến sau bắt đầu xâm chiếm Anh, dân Anh kêu gọi sự giúp đỡ của Roma nhưng lúc này các Hoàng đế La Mã đã hoàn toàn suy yếu. Năm 476 Hoàng đế Roma cuối cùng ở phía tây, Romulus Augustulus bị hạ bệ bởi Odoacer, một người Huns (một tộc người có nguồn gốc châu Á). Tây đế quốc hoàn toàn sụp đổ.
Odoacer lên nắm quyền trên chủ yếu là Italia. Hoàng đế Roma ở phía đông là Zeno nhận được thông báo của Odoacer, dù rất tức giận và muốn chiếm lại Italy nhưng lúc này phần lớn quân đội phía đông và bản thân ông ta đang phải phòng thủ Constantinople trước sự tấn công của người Sassanids. Vì vậy Zeno cho những người Ostrogoths theo Arians (một nhánh của Thiên chúa giáo), dưới sự chỉ huy của vua của họ là Theodoric đi chiếm lại Italia từ tay Odoacer. Đội quân Ostrogoths này nhanh chóng giết được Odoacer và trên thực tế Theodoric trở thành vua Italia dù trên danh nghĩa, ông ta vẫn thuần phục Zeno, là đại diện của Zeno ở Italia.
Theodoric nắm quyền khá lâu và cai trị khá tốt. Ông ta có lúc đã nắm được cả Tây Ban Nha với tư cách nhiếp chính cho vua ở đó còn nhỏ tuổi. Nhưng sau khi Theodoric chết, những người kế thừa lại bất tài và Justinian, Hoàng đế mới ở Đông đế quốc quyết đinh lấy lại Italia. Đầu tiền ông ta cho tướng Belisarius chiếm lại châu Phi từ tay người Vandals, sau đó Belisarius được lệnh mang quân đánh Italia nhưng người Ostrogoths chống trả rất dữ dội. Sau khoảng 20 năm chiến tranh, quân đội Đông đế quốc chiến thắng nhưng Italia bị tàn phá nặng nề.
Năm 568, những người Lombard bắt đầu tấn công Italia, muốn chiếm Italia từ tay quân đội Đông đế quốc, tuy nhiên họ chỉ chiếm được miền bắc rồi bị chặn lại. Những người Lombard làm chủ bắc Italia khoảng 200 năm đến khi bị vua Charlemagne chinh phục và sát nhập vào Đế quốc La Mã Thần thánh (Holy Roman Empire) của Charlemagne vào năm 774. Phần phía nam thì vẫn thuộc quyền kiểm soát của Đông đế quốc nhưng dần dần Giáo hoàng mới, dưới sự bảo trợ của vua Pháp mới thực sự là người nắm quyền. Đến năm 830 thì quân Ả rập chiếm Sicilia và phần nam Italia, Giáo hoàng chỉ giữ được phần miền trung, và Italia bị chia 3. Đông đế quốc mất hẳn kiềm quyển soát Italia và lịch sử nước này bước sang thời Trung cổ.
Nguồn : Nghiên cứu Lịch sử
1. Italia sơ kỳ
Những cư dân đầu tiên của bán đảo Italia là những di dân châu Á và châu Âu, đến đây từ hơn 30.000 năm trước. Khoảng 4000 năm trước, những bộ lạc Latinh và Italia đã thống trị miền đất này.
Khoảng 700 Tr.CN, có những cư dân thời kỳ đồng thau bắt đầu biết chèo thuyền đi lại xung quanh Địa Trung Hải do ảnh hưởng từ những người Hy Lạp và Phoenicians. (Người Phoenician chỉ chung ngươi ở vương quốc cổ Phoenicia vùng ngày nay là Syria, Lebanon và Israel). Các nhà viết sử gọi họ là những người Etruscans. Trước đây người ta nghĩ rằng những người Etruscans đến từ Tây Á do tin vào sử gia Herodotus nhưng ngày nay người ta biết rằng những người Etruscans là 1 bộ phận của dân cư Italia.
Những người Etruscans học được rất nhiều thứ từ người Hy Lạp và người Phoenicians mà người Latins sống xung quanh Rome còn chưa biết. Những người Etruscans xây các thành phố với tường thành bằng đá. Họ xây các đền thờ lớn bằng đá. Họ đào kênh và mương để dẫn nước vào cánh đồng của họ. Họ đã tổ chức được chính quyền có vua. Sau đó một số cư dân khác ở Italia cũng bắt đầu học làm theo những gì người Etruscans đã làm.
Người Etruscans có một nền văn hóa phát triển cao, họ có ngôn ngữ riêng – mà nay đã biến mất, và ở họ có sự bình đẳng nam nữ, họ cho phép phụ nữ được học hành, được giữ lại tên họ và tài sản riêng. Người Etruscans cũng rất được kính trọng bởi họ là những thày bói đại tài. Người đã cảnh báo cho Julius Caesar về cái chết của ông với những lời “Hãy coi chừng Con cá tháng Ba!” (tức ngày 15 tháng 3) chính là một người Etruscans. Ngoài ra, những chiếc áo choàng không tay bằng len mịn của người Etruscans cũng ảnh hưởng tới văn hóa Italia, nó gợi hứng cho chiếc tô-ga (áo choàng rộng) của người La Mã.
Trong cùng khoảng thời gian, rất nhiều người Hy Lạp cũng đến chiếm nhiều nơi ở Italy làm thuộc địa, chủ yếu ở miền nam, nơi họ tiếp quản phần lớn đất của người Etruscans. Những người Hy Lạp này đã lập nên thành phố Naples nơi trở thành thành 1 cảng quan trọng. Còn người Etruscans thì thống trị miền trung Italia, đặc biệt là vùng đất giữa 2 con sông Arno và Tiber.
Những người Etruscans giao lưu buôn bán rất mạnh với những người Hy Lạp và những người Phenicians. Họ chuyển gỗ xẻ, lông thú và có thể là cả nô lệ sang phía đông và mua về đá quý, hương liệu, gia vị và bình gốm Hy Lạp. Phần lớn các bình gốm Hy Lạp trong các bảo tàng ngày nay là được tìm thấy ở Italy, trong các mộ táng của người Etruscans.
Thành phố Rome nằm giữa Italy, đồng thời là địa điểm tốt để qua con sông Tiber nên là nơi người Etruscans muốn nắm giữ. Trong 1 thời gian, Rome đã nằm dưới quyền của các vua Etruscans. Các vua này cũng cho xây các tường đá vững chắc, các đền thờ bằng đá và kênh đào dẫn nước ở đây.
Từ thế kỷ 4 đến thế kỷ 1 trước Công nguyên, người Roma lớn mạnh và các cuộc chinh phục của họ đã khiến sự thống trị của người Etruscans bị suy yếu và kết thúc hoàn toàn.
Nền cộng hoà ở Rome
Thành Roma cổ đại được xây dựng trên bảy ngọn đồi – Palatine, Capitoline, Caelian, Esquitine, Aventine, Quirinal và Viminal. Khoảng 500 Tr.CN, ngay khi nền dân chủ bắt đầu được thiết lập ở Athens, những quí tộc Roman (những người giàu) đã quyết định rằng họ không muốn ở dưới sự cai trị của các vua Etruscans nữa.
Quyền lực của các vị vua này không ảnh hưởng gì tới dân nghèo nhưng các quý tộc thì muốn có thêm quyền lực cho riêng họ. Nhưng giới quý tộc không thể tự mình mạo hiểm đương đầu với các vua chúa. Họ cần dân nghèo chiến đấu cho họ. Vì vậy quý tộc đã hứa hẹn trao cho dân nghèo nhiều quyền trong chính quyền mới nều họ chống lại các vua chúa. Dân nghèo đã đồng ý và cùng với quý tộc lật đổ các vua Etruscans.
Nhưng sau khi vua chúa đã bị lật đổ thì các quý tộc Roma lại không muốn trao cho đám dân nghèo bất cứ quyền lực gì. Do đó các lãnh đạo của đám dân nghèo rời bỏ thành phố và bãi công. Họ từ chối làm việc trừ phi họ có được 1 số quyền. Các quý tộc Roma đã phải nhượng bộ, để cho dân nghèo (trừ phụ nữ và nô lệ) có quyền bầu cử.
Tuy nhiên dân nghèo ở Roma không có được nhiều quyền như ở Athens. Thay vì được bỏ phiếu cho những vấn đề cụ thể, các công dân Roma phải bầu chọn ra những người đứng đầu, những người sẽ quyết định thay họ, giống như chọn các đại cử tri để bầu ra tổng thống ở Mỹ. Đồng thời chỉ những quý tộc mới được chọn vào Viện nguyên lão (Senate) của Roma.
The Roman Forum hay Imperial Forum: nơi tranh luận về các vấn đề của thành phố. Được xây dựng trong thung lũng giữa các đồi Palatine, Capitoline và Quirinal từ năm 500 trước Công nguyên đến thế kỷ thứ 2 sau Công nguyên.
Nhiều năm sau nữa, dân nghèo Roma vẫn cảm thấy không được đối xử bình đẳng và đấu tranh. Cuối cùng họ buộc được giới quý tộc phải chấp nhận các quan bảo dân (tribune) do họ bầu ra. Các quan bảo dân có quyền tham gia các cuộc họp của Viện nguyên lão và có quyền phủ quyết bất cứ điều gì mà Viện nguyên lão đưa ra bất lợi cho dân nghèo. Dân nghèo cũng buộc giới quý tộc phải ghi ra các luật lệ và đặt ở 1 quảng trường công cộng nơi bất cứ ai cũng có thể đọc. Các luật này được gọi là Bản 12 điều, giống như Bản điều luật Hammurabi của người Babylonian, hiểu như hiến pháp, để nhắc nhở giới quý tộc.
Trong khi đó, dần dần từng ít một, quân đội Roma chinh phục các thành phố xung quanh. Trong các cuộc chinh phục đó, khi chiếm được 1 thành phố, người Roma không lấy tài sản, phá hủy các tòa nhà rồi rút đi mà bắt thành phố đó phải lệ thuộc vào Roma, trở thành 1 phần của Roma. Dân cư trong các thành phố đó thường cũng được quyền bầu cử nhưng phải đóng thuế và đi lính cho Roma. Bởi vậy, càng xâm chiếm được nhiều, Roma càng giàu có và quân đội của Roma càng thêm đông đảo. Và Roma lại càng dễ dàng chinh phục các thành phố khác. Một cách nhanh chóng, Roma đã chiếm được phần lớn miền trung Italia.
Sau đó Roma bắt đầu chinh phục nam Italia. Người Roma có một ý tưởng mới, Roma sẵn sàng giúp đỡ 1 thành phố nào đó trong các cuộc chiến tranh nhưng sau khi giúp đỡ thành phố này đánh bại kẻ thù, Roma để lại binh lính với tuyên bố để bảo vệ an toàn cho thành phố. Bằng cách đó Roma lại chiếm được toàn bộ nam Italia. Đặc biệt thành công là việc 1 số thành phố của người Hy Lạp ở nam Italia yêu cầu được giúp đỡ chống lại Pyrrhus, vua của Epirus (quốc gia cổ ở vùng tây Hy Lạp và nam Albania). Pyrrhus cho rằng ông ta sẽ giống như Alexander Đại đế chinh phục thế giới, đã đem theo nhiều quân và voi từ Ấn Độ nhưng cũng bị Roma đánh bại.
Chinh phục Địa Trung Hải
Khoảng năm 274 trước Công nguyên, Rome đã chiếm toàn bộ bán đảo Italia. Khi đó một thành phố của người Hy Lạp ở Sicilia yêu cầu Rome giúp đỡ trong tranh chấp. Sau 1 thời gian lưỡng lự vì Sicilia ở quá xa, cuối cùng Viện nguyên lão cũng quyết định gửi quân giúp đỡ với ý định chiếm cả Sicilia, mở đầu cho ba cuộc chiến tranh Punic và công cuộc chinh phục Địa Trung Hải kéo dài hơn một thế kỷ.
Hannibal, vị tướng người Carthaginians đã vượt qua dãy Alpes để tấn công Roma
Lúc đó Sicilia chia làm 2 phần, 1 phần là các thành phố của người Hy Lạp, phần kia là các thành phố của người Carthaginians (Những người Bắc Phi cổ, còn gọi là người Punic hay người Carthaginians). Khi người Carthaginians nghe thấy việc quân Roma được cử tới Sicilia, họ đã lo sợ bị chiếm đóng. Vì vậy họ quyết định tấn công trước.
Ban đầu quân Roma thua vì phải đến Sicilly bằng thuyền trong khi họ không giỏi về kỹ năng chèo thuyền. Nhưng người Roma đã học và sao chép nhanh chóng thuyền của người Carthaginians. Và cuối cùng họ đánh bại người Carthaginians trong cuộc chiến tranh thứ nhất. Người Roman chiếm toàn bộ đảo Sicilia, buộc các thành phố ở đây đóng thuế cho Roma và dưới quyền một viên toàn quyền người Roma.
Chiến thuyền La Mã (những mái chèo do các nô lệ ngồi ở tầng hầm điều khiển)
Lãnh thổ chính của người Carthaginians là Carthage ở châu Phi, quân đội Roma không thể chiếm đóng, nhưng Carthage phải trả cho Roma 1 khoản tiền hàng năm rất lớn.
Chiến tranh Punic lần thứ hai
Những người Carthaginians, dưới quyền chỉ huy của tướng Hasdrubal (cha của Hannibal), vì phải lo khoản tiền trả cho Roma nên muốn chiếm nam Tây Ban Nha, mảnh đất giàu có với những mỏ bạc. Cùng lúc đó, những người Roma đang xâm chiếm miền bắc Tây Ban Nha, nơi có những mỏ vàng. Những người Roma và Carthaginians đã thỏa thuận chia sẻ Tây Ban Nha với nhau. Nhưng năm 219 trước Công nguyên, một thành phố nằm trong vùng chiếm đóng của người Carthaginians yêu cầu Roma giúp đỡ chống lại người Carthaginians. Người Roma gửi quân đến giúp khiến Hannibal, lúc này thay cha lãnh đạo người Carthaginians, quyết định tấn công Roma.
Hannibal sử dụng 1 lực lượng lớn quân đội và nhiều voi, ngựa chiến, vựợt qua dãy Alps vào Italia. Hannibal đã nghĩ rằng khi ông ta vào Italy, tất cả các thành phố sẽ vui mừng giúp đỡ ông ta để được độc lập khỏi Roma. Nhưng một số thành phố thì cho rằng Roma đã đối xử tốt với họ, một số khác quá e sợ Roma, không thành phố nào muốn giúp đỡ Hannibal.
Khi nghe tin Hannibal đến, những người Roma giữ khoảng 1/2 đội quân khổng lồ của họ ở lại Italia để chống lại Hannibal và gửi 1/2 số quân còn lại dưới quyền của Scipio đến nam Tây Ban Nha để chiếm các mỏ bạc.
Chiến tranh kéo dài, Hannibal không thể tiếp cận được Roma do chiến thuật khôn khéo của nguyên soái La Mã là Quintus Fabius (luôn tránh những trận đánh quyết định). Tuy voi chiến của Hannibal bị chết nhiều nhưng ông lại được những người Hy Lạp gửi thuyền đến giúp.
Nhưng sau đó Scipio đã chiếm được Tây Ban Nha và đem quân sang châu Phi tấn công Carthage. Hội đồng lãnh đạo của những người Carthaginian hoảng sợ gọi Hannibal quay về. Trận đại chiến diễn ra ở Zama (Maktar, Tunisia ngày nay), gần Carthage vào năm 202 trước Công nguyên và Hannibal bị thua.
Tuy chiến thắng nhưng người Roma một lần nữa cũng không thể chiếm Carthage. Họ chỉ chiếm toàn bộ Tây Ban Nha và để 1 số binh lính ở Morocco và Algeria, đồng thời buộc người Carthaginians phải đình chiến.
Chiến tranh Punic lần thứ ba
Sau cuộc chiến lần thứ 2, Italia đã bị tàn phá. Quân đội của Hannibal đã dày xéo Italia trong suốt hơn 10 năm. Toàn bộ đàn ông đã ra trận và phần lớn bị giết, một phần thì phải ở lại Tây Ban Nha hoặc châu Phi. Những người trở về nhà thì đất đai trang trại đã bị tàn phá, phải bán lại cho quý tộc để đủ tiền đóng thuế. 1 hậu quả khác là chiến tranh cũng làm nhiều dân nghèo các nơi đổ về Roma, không có việc làm và Viện nguyên lão phải cứu tế. Chỉ có giới quý tộc thì được lợi to vì mua được nhiều nô lệ và đất đai.
Những hậu quả đó đưa đến ý tưởng chinh phục Hy Lạp và Tây Á. Hy Lạp đã giúp người Carthginians là lý do chính đáng để quân đội Romans tấn công. Tấn công Hy Lạp sẽ giúp giải quyết đám dân nghèo nhờ xung họ vào lính và đẩy họ ra khỏi Roma. Và nếu Roma thắng, họ sẽ có nhiều tù binh để bán làm nô lệ.
Với quân đội hùng mạnh, người Roma đã thắng mọi nơi họ đến, ở Hy Lạp và tiếp tục tiến về Tây Á.
Trong khi đó, các đồng minh của người Roma ở châu Phi thường xuyên quấy nhiễu Carthage trong khi theo điều ước người Carthaginians không được phép đem quân trả đũa. Người Carthaginians đã yêu cầu Roma giúp giải quyết nhưng Roma từ chối. Cuối cùng, năm 146 trước Công nguyên, dù có ít hy vọng chiến thắng nhưng những người Carthaginian vẫn quyết định đánh lại các đồng minh của Roma. Khi nghe tin này Viện nguyên lão Roma rất tức giận, một thành viên của Viện nguyên lão là Cato ra lệnh phải phá hủy Carthage.
Quân đội Roma hành quân đến Carthage, thiêu hủy thành phố và đuổi dân chúng đi. (Có một câu chuyện về việc người Roma rắc muối lên các cánh đồng để người dân không canh tác được nữa nhưng chuyện này không có thật.)
Cũng trong năm 146 trước Công nguyên, người Roma chiếm xong các thành bang Hy Lạp và phá hủy thành phố giàu có Corinth (miền trung Hy Lạp).
Caesar là người đưa ra Dương lịch (Julian) thay cho lịch cũ của Roma, tên ông được đặt cho tháng 7
Đến 146 trước Công nguyên, sau các cuộc chiến tranh Punic và chinh phục Hy Lạp, những người Roma đã là quyền lực duy nhất còn lại trong vùng Địa Trung Hải và họ nắm giữ hầu như tất cả các vùng ven biển
Nhưng La Mã cũng có những trục trặc. Đầu tiên, ngay tại Roma, 2 anh em Cornelius Gracchus và Gaius Gracchus tìm cách lấy lại 1 số đất đai cho dân nghèo. Nhưng các nhà quý tộc giàu có trong Viện nguyên lão không đồng ý. Vào năm 133 và 123 trước Công nguyên, chính những thành viên Viện nguyên lão cùng với những kẻ ủng hộ đã truy đuổi và lần lượt giết chết 2 người này.
Thứ hai, những người châu Phi đã tấn công Carthage nay lại tiếp tục sinh sự. Rất nhiều thương nhân người Roma đang sinh sống tại châu Phi bị tàn sát hàng loạt. Vì vậy khoảng năm 100 trước Công nguyên quân đội Roma lại phải quay lại chiến đấu tại châu Phi. Nhưng lúc này rất khó khăn để có đủ binh lính cho mặt trận châu Phi, tướng Marius đã phải lấy những người nghèo khó thất nghiệp từ Roma và khuyến khích họ bằng chiến lợi phẩm. Nhờ đó Roma đã thắng.
Thứ ba, các thành phố Italia khác cảm thấy rằng Roma đã không đối xử đủ tốt với họ. Họ muốn tăng quyền hạn bầu cử. Vì vậy trong những năm 80 trước Công nguyên, đã có một cuộc chiến tranh với các thành phố Italia, viên tướng của mặt trận này là Sulla. Cuộc chiến tranh này gọi là Cuộc chiến tranh liên minh. Cuộc chiến kéo dài song cuối cùng Roma cũng thắng.
Nhưng rồi Marius và Sulla lại đánh lẫn nhau khi muốn trở thành tướng chỉ huy ở Tây Á. Marius thắng nhưng Sulla đem quân đội hành quân về Roma và đe dọa tấn công Roma nếu Viện nguyên lão không bổ nhiệm ông ta. Sulla thành công và đi Tây Á. Sau đó ông ta trở về với quyền lực lớn và trở thành nhà độc tài, lấn quyền của cả Viện nguyên lão.
Vì vậy sau khi Marius và Sulla chết, Viện nguyên lão Roma đã không còn đủ quyền lực để điều khiển đế chế La Mã nữa. Dân Roma muốn tìm kiếm 1 viên tướng tiếp theo có đủ khả năng nắm quyền. Có 3 kẻ tranh nhau, đó là Pompey – bạn của Sulla, Crassus – 1 kẻ giàu có và Julius Caesar – bạn của Marius. 3 người này thay nhau nắm quyền trong khoảng 10 năm. Trong thời gian này Caesar chiếm xong xứ Gaul (nước Pháp ngày nay). Khi Crassus bị giết trong cuộc chiến với những người Parthians (những người đến Tây Á từ Seberia, vào khoảng 100 trước Công nguyên lập nên nhà nước Parthia ở khoảng Iran ngày nay) ở Tây Á thì Pompey và Caesar đánh nhau, bắt đầu một cuộc nội chiến đẫm máu.
Năm 49 trước Công nguyên, Caesar vượt sông Rubicon (xem bản đồ) và tiến vào Roma còn đối thủ của ông rút về phía đông. Một năm sau, Caesar đại thắng Pompey trong trận Pharsalus. Pompey phải chạy sang Ai Cập và bị những người Ai Cập giết. Khi Caesar tiến vào Ai Cập, ông ta vui mừng vì Pompey đã bị giết nên đã đối xử rất hòa nhã với người Ai Cập, Caesar cũng gặp Cleopatra ở đây và mang Cleopatra về Roma.
Caesar là một thiên tài quân sự, một nhà hùng biện lỗi lạc, nhà thơ và là nhà sử học. Mặc dù là một quý tộc, ông lại ủng hộ chính nghĩa của giới bình dân. Năm 45 trước Công nguyên, Caesar tự tuyên bố là nhà độc tài của Cộng hòa La Mã và là người cai trị của đế quốc rộng lớn này. Caesar tin vào sự bình đẳng (ông cho phép tất cả các cư dân Italia trở thành công dân Roma), nhưng đồng thời cũng tin tưởng rằng nhà độc tài phải có quyền lực tuyệt đối và được phép lựa chọn người kế vị. Tuy nhiên nhiều thành viên Viện Nguyên lão không đồng tình với ông. Ngày 15 tháng 3 (Con cá tháng Ba) năm 44 trước Công nguyên, Julius Caesar bị một nhóm thành viên đâm chết, trong đó có một người tên là Brutus, người mà người ta cho rằng chính là con riêng của Caesar.
Một nhóm quyền lực khác được thành lập gồm Marc Anthony – bạn của Caesar, Lepidus – 1 kẻ rất giàu có và Octavian – cháu họ và là con nuôi của Caesar. Mọi chuyện lại lặp lại. Lepidus bị gạt bỏ. Rồi Anthony cùng người tình Cleopatra gây chiến với Octavian. Nhưng năm 31 trước Công nguyên, Octavian đánh bại Anthony và Cleopatra ở trận Actium, khiến 2 người này phải tự sát. Sau đó Octavian lên ngôi hoàng đế và lấy niên hiệu là Augustus, khởi đầu thời kỳ thịnh trị của Đế chế La Mã.
Nền thái bình La Mã
Augustus mở đầu cho “nền thái bình La Mã”
Sau cái chết của Ceasar, một thập kỷ bất ổn liên miên cuối cùng cũng đã kết thúc nhờ người cháu của Ceasar – Octavian Ceasar. Năm 31 trước Công nguyên, ông trở thành vị hoàng đế La Mã đầu tiên, lấy tên hiệu là Augustus (“Tôn kính”). Ông cho xây dựng thư viện, đền đài, nhà hát và đường sá, và ban hành bộ luật chung cho toàn đế quốc. Augustus sống đến năm 13 sau Công nguyên
Sự cai trị của ông bắt đầu một thời kỳ hòa bình và thịnh vượng, được biết đến dưới tên gọi Pax Romana (“Nền thái bình La Mã”), mặc dù sau Augustus ít lâu, người dân Roma đã có nhiều năm kinh hoàng dưới sự cai trị của bạo chúa Nero, người đã đốt cháy cả thành Roma hoa lệ để tìm thi hứng và tạo cớ tàn sát những người theo Thiên chúa giáo. (Chính Nero đã ra lệnh hành quyết thánh Peter và thánh Paul.) Galba, viên toàn quyền xứ Tây Ban Nha đã kéo quân về cùng dân chúng chống lại Nero khiến hoàng đế cuối cùng của dòng họ Caesar phải tự sát.
Đế quốc La Mã đạt đến đỉnh cao vào cuối thế kỷ thứ nhất, khi La Mã vĩ đại và tiếng Latinh thống trị toàn bộ những vùng đất từ biển Caspian đến Đại Tây Dương. Thời thịnh trị này kéo dài từ năm 98 (Hoàng đế Nerva lên ngôi) đến khoảng giữa thế kỷ thứ hai sau Công nguyên (Hoàng đế Marcus).
Thời kỳ trị vì của Marcus không yên ổn. Ngay khi hoàng đế trước là Antonius chết, những người Parthians đã tấn công phần lãnh thổ phía đông của đế chế với hy vọng là Roma có thể sụp đổ sau khi Antonius chết. Marcus đã phải phái quân đội từ phần phía tây của đế quốc đi đánh dẹp, quân Roma thắng trận. Nhưng sau cuộc chiến này, người Roma đã bị nhiễm một bệnh dịch khủng khiếp từ những người Parthians, ngày nay không thể biết chắc là bệnh gì, có thể là đậu mùa. Binh lính từ phía đông trở về đã mang theo bệnh dịch lan tràn khắp đế quốc, rất nhiều người chết vì dịch bệnh. Ở phía bắc, những người German sống trong vùng ngày nay là Đức, Áo và Thụy Sĩ thấy rằng phần lớn lính Roma đã rời đi và đang có bệnh dịch lan tràn. Họ cho rằng đã đến lúc thích hợp để tấn công vào đế quốc. Trong suốt thời gian trị vì còn lại, Marcus phải lo đối phó với các bộ tộc German này. Khi sắp đi đến chiến thắng cuối cùng thì Marcus chết năm 180. Lúc này đế quốc rất suy sụp vì bệnh dịch và dồn sức cho chiến tranh.
Sau đó La Mã trải qua một thời kỳ khó khăn đặc biệt là trong thế kỷ thứ 3 với các cuộc tấn công của người Sassanids từ phía đông và của người Germans từ phía bắc.
Người Sassanids họ là 1 nhóm người Persians, từ khoảng năm 210 đã đánh bại được người Parthians và chiếm quyền kiểm soát vương quốc của người Parthians, họ muốn khôi phục đất đai của đế quốc Persia trước kia bao gồm đến tận Ixrael, Syria, Li băng và Thổ Nhĩ Kỳ, đồng thời cả Ai Cập. Sassanids thường được xếp vào lịch sử của Iran ngày nay. Còn người Germans là những người Ấn Âu, trước kia ở vùng biển Đen và Caspian, từ khoảng năm 2000 trước Công nguyên bắt đầu di cư nhiều đợt vào miền bắc châu Âu như vùng bán đảo Scandinavia (nước Nauy, Thụy Điển và Denmark) và vùng Đức, dần dần là Áo, Thụy Sĩ ngày nay.
Vấn đề của Đế quốc La Mã là các hoàng đế không thể chỉ huy cả 2 bộ phận quân đội cùng 1 lúc, cần thêm 1 viên tướng nữa chỉ huy mặt trận thứ 2, khi đó quân đội ở đâu cũng luôn muốn lập viên tướng của mình làm hoàng đế sẽ dẫn đến xung đột nội bộ và kết quả là 2 nửa quân đội của Rome chủ yếu đánh lẫn nhau hơn là đánh người Sassanids và người Germans. Ngoài ra để phục vụ cho chiến tranh, dân chúng trong đế quốc cũng sẽ phải è cổ ra đóng thuế, các cuộc nổi loạn nhỏ xảy ra khá thường xuyên cũng khiến quân đội phải can thiệp.
Trong giai đoạn này có rất nhiều Hoàng đế vì lần lượt bị giết trong chiến trận hoặc vì binh lính nổi loạn, gần như không có ai cầm quyền được quá 5 năm.
Đến năm 284, Hoàng đế Diocletian, một viên tướng trẻ tuổi và có tài, lên ngôi và đã đánh lui cả người Sassanids và người Germans, dẹp tan tất cả các cuộc nổi loạn. Diocletian cũng giải quyết cuộc xung đột giữa 2 bộ phận quân đội đông và tây bằng cách lập nên 1 hệ thống gồm 2 Hoàng đế cùng lúc, và 2 phụ tá, khi 1 Hoàng đế chết, 1 phụ tá của ông ta sẽ lên thay và chỉ định 1 phụ tá mới, hệ thống này gọi là Bộ tứ (Tetrarchy – quyền lực 4 người).
Hệ thống Bộ tứ hoạt động tốt trong khoảng 20 năm thì bị phá vỡ. Constantine, con trai của Hoàng đế Constantius vừa chết đã được quân đội ủng hộ lên làm Hoàng đế thay vì phụ tá Severus của cựu hoàng đế. Một cuộc nối chiến lớn đã xảy ra vì Severus được sự ủng hộ của vị Hoàng đế còn lại, Maximian. Năm 312, 1 trận chiến lớn giữa Constantine và Maxentius con trai của Maximian đã xảy ra ngay tại Roma, Constantine ở bên ngoài tường thành và Maxentius ở bên trong.
Có một truyền thuyết rằng Constantine đã mơ thấy hình ảnh cây thập tự của Cơ đốc giáo xuất hiện trên bầu trời kèm theo lời sấm truyền “dưới biểu tượng này nhà ngươi sẽ chiến thắng”, và ông ta đã ra lệnh cho binh lý vẽ lên trên áo giáp hình thập tự trước khi bước vào trận chiến và đã giành chiến thắng dù có quân số ít hơn. Vì vậy Constantine đã bị quyền lực của chúa Jesu chinh phục và quyết định trở thành một người Cơ đốc giáo.
Năm 324 Constantine chính thức lên làm Hoàng đế duy nhất. Cùng năm đó ông ta thành lập 1 thành phố mới ở phía đông, thành phố Constantinople (có nghĩa là thành phố của Constantine, nay là thủ đô Istanbul của Thổ Nhĩ Kỳ) để phản ánh sự lớn mạnh của phần phía đông của đế quốc đồng thời là điểm giữa 2 chiến trường phía bắc và phía đông, thuận tiện cho sự cai quản của 1 Hoàng đế duy nhất.
Constantine chết năm 337 và đế quốc lại rơi vào những cuộc nội chiến và chiến tranh chống lại người Sassanids, lúc này đã giải quyết xong nội chiến và quay lại tấn công vào La Mã.
Sự sụp đổ của Roma
Sau khi Constantine chết năm 337, ba người con của ông đánh lẫn nhau cùng với cuộc nổi loạn ở xứ Gaul khiến tình hình đế quốc rất rối ren. Đến năm 350, Constantius mới giết được hai người em kia và lên làm hoàng đế xưng là Constantius II.
Sau đó đế quốc liên tục phải trải qua các cuộc chiến tranh với người Sassanids ở phía đông và người German ở phía bắc, xen lẫn đó là các cuộc chiến tranh giành quyền lực giữa hai lực lượng quân đội đông và tây. Bên cạnh đó là cuộc chiến giành quyền thống trị của các nhánh của Thiên chúa giáo. Sau khi hoàng đế Theodosius chết năm 395, hai con trai của ông là Honorius và Arcadius đã chia nhau cai quản hai phần đông, tây tách thành Đông đế quốc và Tây đế quốc. Nhưng 2 người này lớn lên tại triều đình, không giỏi và không quan tâm đến việc cai trị, hầu như mọi công việc do các cố vấn giải quyết. Giúp đỡ cho Honorius là 1 người Vandal tên là Stilicho, người đã gia nhập quân đội Roman và từ lính leo lên đến cương vị tướng.
Không bao lâu sau những người Germans và người Goths nhận thấy sự yếu kém của các Hoàng đế mới và tấn công mạnh. Các tướng lĩnh La Mã cũng nhận ra sự yếu kém đó và nổi loạn. Đầu tiên Constantine III, 1 viên tướng ở Anh, tự tuyên bố lập mình làm Hoàng đế ở York năm 405. Constantine III đem quân vượt eo biển Anh đổ bộ vào Pháp, thu phục binh lính ở đây rồi tiến về Roma. Khi đó biên giới của đế quốc gần như bỏ ngỏ.
Tháng giêng năm 409, các nhóm người German gồm người Alans, Vandals và Sueves vượt sông Rhine lúc này đang đóng băng và tiến vào Pháp 1 cách dễ dàng. Không còn binh lính Roma ở đây, và đội quân này tha hồ cướp phá, không những vậy họ còn mang theo cả gia đình và ở lại chiếm đóng tại đây. Còn Constantine III trên đường tiến về Roma đã cắt 1 bộ phận đánh chiếm Tây Ban Nha do Gerontius chỉ huy, nhưng chính Gerontius lại tự lập mình làm Hoàng đế. Để có được 1 đội quân đủ mạnh Gerontius thỏa hiệp với người Alans, Vandals và Sueves, cho phép họ vào Tây Ban Nha khi họ hứa giúp ông ta, thế là những người German này ở lại đây. Chính quyền trung ương Roma điều quân chặn đánh và giết chết được cả Constantine III rồi cả Gerontius. Sau đó khi quân đội Roma từ Anh, Pháp, Tây Ban Nha được tập trung về Italia để đối phó với người Visigoths, những nơi này trở thành gần như hoàn toàn thuộc quyền cai quản của những người German mới đến.
Về những người Visigoths, sau chiến thắng năm 378 tại Adrianople, Theodosius đã thỏa hiệp cho phép họ ở lại bên trong đế quốc, nhưng họ không được đối xử tốt, không được phép xây nhà ở tử tế và rất khó kiếm sống. Khi 1 vua mới của người Visigoths là Alaric lên, Alaric muốn gây chiến, ông ta đòi vua La Mã ở phía tây là Honorius phải trả cho họ 1 lượng vàng, khi Honorius không chấp thuận, quân Visigoths tiến về Roma. Dù chính quyền trung ương Roma đã tập trung khá đông quân về Roma nhưng những người Visigoths năm 410 vẫn chiếm được thủ đô, cướp phá và tàn sát. Người La Mã bị tác động rất mạnh, họ cho rằng đó chính là đức chúa trời đã giận dữ. Quân Visigoths sau khi cướp phá Roma thì tiến xuống miền nam Italia, định vượt biển sang châu Phi nhưng Alaric chết và bão to làm họ hoảng sợ, người Visigoth quay lên và chuyển hướng sang miền nam Pháp rồi định cư ở đây.
Trong khi người Burgundians đã chiếm miền đông Pháp, còn người Vandals và Sueves đã ở Tây Ban Nha (người Alans thì gần như bị xóa sổ). Năm 429 người Vandals vượt eo biển Gibraltar tiến sang chiếm châu Phi mà hầu như không gặp sự kháng cự nào đáng kể. Chỉ còn người Sueves ở lại Tây Ban Nha nhưng rồi người Visigoths bắt đầu tràn xuống chiếm dần từng phần của Tây Ban Nha. Những người Picts và 1 số nhóm German khác đến sau bắt đầu xâm chiếm Anh, dân Anh kêu gọi sự giúp đỡ của Roma nhưng lúc này các Hoàng đế La Mã đã hoàn toàn suy yếu. Năm 476 Hoàng đế Roma cuối cùng ở phía tây, Romulus Augustulus bị hạ bệ bởi Odoacer, một người Huns (một tộc người có nguồn gốc châu Á). Tây đế quốc hoàn toàn sụp đổ.
Odoacer lên nắm quyền trên chủ yếu là Italia. Hoàng đế Roma ở phía đông là Zeno nhận được thông báo của Odoacer, dù rất tức giận và muốn chiếm lại Italy nhưng lúc này phần lớn quân đội phía đông và bản thân ông ta đang phải phòng thủ Constantinople trước sự tấn công của người Sassanids. Vì vậy Zeno cho những người Ostrogoths theo Arians (một nhánh của Thiên chúa giáo), dưới sự chỉ huy của vua của họ là Theodoric đi chiếm lại Italia từ tay Odoacer. Đội quân Ostrogoths này nhanh chóng giết được Odoacer và trên thực tế Theodoric trở thành vua Italia dù trên danh nghĩa, ông ta vẫn thuần phục Zeno, là đại diện của Zeno ở Italia.
Theodoric nắm quyền khá lâu và cai trị khá tốt. Ông ta có lúc đã nắm được cả Tây Ban Nha với tư cách nhiếp chính cho vua ở đó còn nhỏ tuổi. Nhưng sau khi Theodoric chết, những người kế thừa lại bất tài và Justinian, Hoàng đế mới ở Đông đế quốc quyết đinh lấy lại Italia. Đầu tiền ông ta cho tướng Belisarius chiếm lại châu Phi từ tay người Vandals, sau đó Belisarius được lệnh mang quân đánh Italia nhưng người Ostrogoths chống trả rất dữ dội. Sau khoảng 20 năm chiến tranh, quân đội Đông đế quốc chiến thắng nhưng Italia bị tàn phá nặng nề.
Năm 568, những người Lombard bắt đầu tấn công Italia, muốn chiếm Italia từ tay quân đội Đông đế quốc, tuy nhiên họ chỉ chiếm được miền bắc rồi bị chặn lại. Những người Lombard làm chủ bắc Italia khoảng 200 năm đến khi bị vua Charlemagne chinh phục và sát nhập vào Đế quốc La Mã Thần thánh (Holy Roman Empire) của Charlemagne vào năm 774. Phần phía nam thì vẫn thuộc quyền kiểm soát của Đông đế quốc nhưng dần dần Giáo hoàng mới, dưới sự bảo trợ của vua Pháp mới thực sự là người nắm quyền. Đến năm 830 thì quân Ả rập chiếm Sicilia và phần nam Italia, Giáo hoàng chỉ giữ được phần miền trung, và Italia bị chia 3. Đông đế quốc mất hẳn kiềm quyển soát Italia và lịch sử nước này bước sang thời Trung cổ.
Nguồn : Nghiên cứu Lịch sử
Sửa lần cuối: