CHUYÊN ĐỀ HỒ XUÂN HƯƠNG
I. CON NGƯỜI VÀ THƠ
1. Con người
Dựa vào một số tài liệu lưu truyền, dưạ vào những bài thơ được khẳng định là cuả Xuân Hương, các nhà nghiên cứu đã tạm thừa nhận một số kết luận bước đầu về tiểu sử của nữ sĩ như sau:
-Hồ Xuân Hương thuộc dòng dõi họ Hồ ở làng Quỳnh Ðôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Ðây là một dòng họ lớn có nhiều người đỗ đạt và làm quan nhưng đến đời Hồ Phi Diễn- thân sinh của bà thì dòng họ này đã suy tàn.
-Bà sống vào thời kỳ cuối Lê, đầu Nguyễn (cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX). Do đó bà có điều kiện tiếp thu ảnh hưởng của phong trào đấu tranh của quần chúng và chưúng kiến tận mắt sự đổ nát của nhà nước phong kiến.
-Thành phần xuất thân: Bà xuất thân trong một gia đình phong kiến suy tàn, song hoàn cảnh cuộc sống đã giúp nữ sĩ có điều kiệnì sống gần gũi với quần chúng lao động nghèo, lăn lộn và tiếp xúc nhiều với những người phụ nữ bị áp bức trong xã hội.
-Hồ Xuân Hương ít chịu ảnh hưởng của Nho giáo về mặt nhân sinh quan cũng như về phương diện văn chương.
-Bà là một phụ nữ thông minh, có học nhưng học hành cũng không được nhiều lắm, bà giao du rộng rãi với bạn bè nhất là đối với những bạn bè ở làng thơ văn-các nhà nho.Nữ sĩ còn làì người từng đi du lãm nhiều danh lam thắng cảnh của đất nước.
-Là một phụ nữ tài hoa có cá tính mạnh mẽ nhưng đời tư lại có nhiều bất hạnh. Hồ Xuân Hương lấy chồng muộn mà đến hai lần đi lấy chồng, hai lần đều làm lẽ, cả hai đều ngắn ngủi và không có hạnh phúc.
*Tóm lại: Hồ Xuân Hương là một nhà thơ đã sống một cuộc đời không âm thầm lặng lẽ như bao người đàn bà trong xã hội cũ mà bà đã sống một cuộc đời đầy sóng gió trong một hoàn cảnh xã hội cũng đầy sóng gió.
2.Thơ Hồ Xuân Hương.
-Thơ Xuân Hương cũng rắc rối, phức tạp như chính cuộc đời bà. Số bài thơ còn lại cho đến nay chủ yếu nhờ vào sự lưu truyền, bảo vệ của nhân dân nên có nhiều dị bản.
-Số thơ Nôm lâu nay được coi là của nữ sĩ khoảng năm mươi bài. Ðây là tập thơ Nôm luật Ðường xuất sắc của nền văn học dân tộc (Tập thơ Xuân Hương thi tập) Ngoài tập thơ này còn có tập thơ Lưu Hương kýï mang bút danh của nữ sĩ do ông Trần Thanh Mại phát hiện vào năm 1964 gồm 24 bài thơ chữ Hán và 28 bài thơ Nôm. Với một nghệ thuật điêu luyện, nhà thơ viết về tâm sự và những mối tình của mình với những người bạn trai.
-Ðọc kĩ người ta thấy có một khoảng cách khá xa giữa tập thơ Nôm của Xuân Hương và Lưu Hương ký, chủ yếu là về phong cách biểu hiện.. Trong Lưu Hương Ký có cả thơ chữ Hán lẫn thơ chữ Nôm. Riêng phần thơ chữ Nôm trong Lưu Hương Ký nếu so sánh với thơ lâu nay được coi là của Xuân Hương thì hai bên vẫn có sự khác nhau. Thơ cữ Nôm trongLưu Hưong Ký có rất nhiều từ Hán Việt, giọng thơ lại hiền lành chứ không góc cạnh, gân guốc như ở Xuân Hương thi tập. Vì lí do trên, để bảo đảm tính khoa học, các nhà nghiên cứu chủ yếu chỉ dừng lại ở tập thơ Nôm còn Lưu Hương Ký được coi là một tập thơ để tham khảo.
II.XUÂN HƯƠNG THI TẬP
1.Những vần thơ viết về người phụ nữ.
Vấn đề người phụ nữ là vấn đề thời sự của văn học giai đoạn này. Vấn đề người phụ nữ được đặt ra với qui mô sâu rộng và được soi sáng ở nhiều góc độ rất tinh tế. Dường như trong giai đoạn này không có mấy nhà thơ không viết về người phụ nữ. Sáng tác trong bối cảnh văn học ấy, với tính cách và cảnh ngộ riêng của mình, nhà thơ đã viết rất nhiều về người phụ nữ.
2.1.1.Ðối tượng người phụ nữ mà thơ Hồ Xuân Hương hướng tới.
Viết về người phụ nữ, bà đã viết về người phụ nữ lao động, người phụ nữ bình dân với nhiều bất hạnh. Bà viết về họ một cách trực tiếp với một thái độ dũng cảm.
2.1.2.Nỗi đau của hình tượng người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương.
Tiếp tục tiếng nói của truyền thống văn học dân tộc, viết về người phụ nữ Hồ Xuân Hương cũng đã viết về nỗi đau của họ. Có thể nói hình ảnh người phụ nữ với cảm xúc khổ đau gần như thấm khắp các thi phẩm viết về mình, viết về người phụ nữ của Xuân Hương. Người phụ nữ trong thơ bà dường như chưa một lần nhận diện được hạnh phúc. Nỗi đau của người phụ nữ hiện lên trong thơ bà cũng rất tập trung, rất nổi bật.
2.1.2.1.Nỗi đau của tình duyên không toại nguyện.
Bài thơ tiêu biểu cho nỗi đau này là bài Mời trầu. Bài thơ cùng với chùm thơ tự tình I, II, III làm nên mảng thơ đặc biệt cuả Xuân Hương thi tập- mảng thơ tâm sự, thơ thân phận. Ðây là những bài thơ trực tiếp thể hiện nỗi lòng, suy nghĩ và khát vọng của tác giả về cuộc đời và thân phận mình.
Bài thơ có thể được sáng tác thời còn trẻ vì lời thơ chưa đến nỗi chua chát.
Quả cau nho nhỏ, miếng trầu hôi
Này của Xuân Hương mới quệt rồi.
Có phải duyên nhau thì thắm lại,
Ðừng xanh như lá, bạc như vôi.
-Hai câu đầu nhân vật trữ tình giới thiệu miếng trầu và mời trầu
+Miếng trầu bao gồm những sự vật nhỏ mọn, nếu không muốn nói là tầm thường.
+Ở đây miếng trầu, quả cau, ngôn ngữ tự xưng và phong cách khẩu ngữ Này, mới quệt rồi, tất cả đã có ý nghĩa biểu hiện một người con gái có ý thức về bản thân, có bản lĩnh nhưng cũng có tấm lòng bình dị, chân chất cũng có những tình cảm rất chân thành.
-Hai câu cuối: Nhân vật trữ tình bộc bạch nguyện vọng trong quan hệ tình cảm lứa đôi.
-Bài thơ có một kết cấu đặc biệt: câu ba là khát vọng, câu bốn là cảm nhận về hiện thực cay đắng trong cuộc sống tình duyên của người phụ nữ dưới xã hội phong kiến. Phải chăng với kết cấu này, tác giả muốn nói rằng trong cuộc đời cũ đối với người phụ nữ hạnh phúc chỉ là điều có trong mơ ước, còn khổ đau luôn là hiện thực.
-Về phương diện bút pháp, hai câu thơ nhắn nhủ, kêu gọi, răn đe này lại có tính chất đảo ngược vị trí của quá trình chuyển hóa: Xanh+bạc=thắm(thắm,bạc,xanh. Bài thơ là lời kêu gọi về một tình yêu chân thành, say đắm, thủy chung nhưng khép lại thì dư âm, ấn tượng về một hiện thực cay đắng xanh như lá, bạc như vôi vẫn cứ nặng trĩu trong tâm hồn người đọc.
Bài tự tinh số I:
Tiếng gà văng vẳng gáy trên bom
Oán hận trông ra khắp mọi chòm
Mõ thảm không khua mà cũng cốc
Chuông sầu không đánh cớ sao om
Trước nghe những tiếng thêm rền rĩ
Sau giận vì duyên để mõm mòm
Tài tử văn nhân ai đó tá
Thân này đâu đã chịu già tom.
-Hai câu đề: Bài thơ được mở đầu bằng tiếng gà gáy trên bom, qua tiếng gà văng vẳng là cả một không gian vắng lặng.
-Hai câu thực: Hai câu thực nói rõ nỗi oán hận và gọi nó là sầu, là thảm.
-Hai câu luận: Vẫn phô bày tiếp nỗi buồn, nỗi giận do những tiếng mõ thảm, những tiếng chuông sầu kia gợi nên.
-Hai câu kết: Kết thúc bài thơ là tiếng gọi vừa có tính chất nghi vấn (hỏi), vừa có tính chất than- gọi Tài tử văn nhân ai đó tá. Ðó là cách gọi suông vì không có ai đáp lại và không được đáp lại thì người gọi đã buồn càng buồn hơn. Song câu kết thúc vẫn là một lời thách đố với số phận, với duyên kia. Duyên kia dù đã mõm mòm nhưng thân này đâu đã chịu già tom. Câu thơ như nói lên cái bản lĩnh cứng cỏi, cái sức sống khỏe khoắn mang màu sắc bướng bỉnh của người con gái đầy oán hận đối với cuộc đời-Hồ Xuân Hương.
Qua bài thơ, chúng ta như nhận ra Hồ Xuân Hương là nhà thơ đau hết chỗ đau, buồn hết độ buồn nhưng vẫn bướng, vẫn ngang, vẫn không chịu đầu hàng, buông xuôi số phận. Vì lẽ đó mà bài thơ có giá trị nhân bản cao.
Ở bài tự tình số II, tác giả lại viết:
Ngán nỗi xuân đi, xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con
Sự sống của đất trời cứ vận hành như muôn thưở vậy, còn riêng mình thì vẫn cứ bất hạnh, hẩm hiu trong số phận, trong tình duyên.
Ðọc thơ bà, người đọc có cảm giác người phụ nữ trong thơ Xuân Hương gần như chưa một lần nhận diện được hạnh phúc.
2.1.2.2.Nỗi đau không được làm chủ cuộc đời.
Nỗi đau này được tác tác giả tập trung khắc hoạ trong bài Bánh trôi nước và Tự tình III.
Bài Bánh trôi nước:
Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bảy nổi ba chìm với nước non.
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son.
-Hai câu khai thừa:
+Câu1: Câu thơ như là sự bằng lòng, sự vừa ý của người phụ nữ ý thức được vẻ đẹp của mình. Ðó là vẻ đẹp của nước da trắng nõn nà, thân hình gọn gàng, xinh xắn.
+Câu 2: Con người với vẻ đẹp ấy đáng lí phải được sống trong hạnh phúc nhưng không, người con gái ấy đã phải sống một cuộc đời bảy nổi ba chìm với nước non .
-Hai câu chuyển hợp:
+Câu 3: Rắn nát (cứng mềm), hạnh phúc hay đau khổ, đời minh ra sao, may mắn, rủi ro đến mức nào là hoàn toàn phụ thuộc vào người khác. Người khác đó là cha, là chồng, bởi xã hội phong kiến vốn là xã hội nam quyền.
Mặc dầu, liên từ vừa nói sự phụ thuộc vừa hàm nghĩa đối lập, ta như nhận ra một thái độ bất chấp, bất cần cuã nhân vật trữ tình. Giọng thơ như thách thức.
+Câu 4: Liên từ mà cũng hàm nghĩa đối lập (có nghĩa là nhưng). Từ này được đặt ở vị trí đầu câu thơ nên ý nghĩa đối lập càng mạnh. Mà em vẫn giữ tấm lòng son. Dù sống trong bất cứ hoàn cảnh nào người phụ nữ vẫn giữ được phẩm chất trong sạch, trắng trong của mình. Giọng thơ quả quyết, tự tin, tự hào. Người phụ nữ ý thức được một cách đầy đủ nỗi đau và vẻ đẹp-vẻ đẹp hình thức và vẻ đẹp tâm hồn của minh.
2.1.2.3.Nỗi đau của thân phận làm lẽ.
-Bài thơ có giá trị nhất trong chùm thơ nói về nỗi đau khổ của người phụ nữ là bài Làm lẽ.
+ Hai câu đề:
Câu phá đề: Nhà thơ nói thẳng ngay vào vấn đề một cách cụ thể bằng
cách dựng lên cảnh:
Kẻ đắp chăn bông, kẻ lạnh lùng
Câu thơ được ngắt làm hai theo biện pháp đối ngẫu của thơ Ðường luật, nhằm đối lập hai cảnh sống trái ngược nhau, một bên thì ấm áp, một bên thì lạnh lẽo.
Câu thừa đề: Tiếp tục ý của câu phá đề, mặt khác tác giả ném ngay cái bực bội, cái căm uất của mình lên cảnh sống bất công đó:
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung
Lời, ý của câu thơ rất mạnh bởi độüng từ chém mang thanh trắc rất gọn, sắc. Ðây là một lời chửi trong khẩu ngữ của quần chúng.
-Hai câu thực:
Từ thái độ căm giận, Xuân Hương đã chuyển sang miêu tả mối quan hệ vợ chồng của cảnh làm lẽ. Cũng tiếp tục ý của hai câu đề, tác giả trình bày sự thiệt thòi của người vợ lẽ một cách cụ thể hơn. Quan hệ ái ân giữa người chồng và người vợ diễn ra trong tình trạng:
Năm thì mười họa hay chăng chớ
Một tháng đôi lần có cũng không
-Hai câu luận:
Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm
Cầm bằng làm mướn, mướn không công
+Xuân Hương đã vận dụng hai thành ngữ chịu đấm ăn xôi và làm mướn
không công để nói lên thân phận người vợ lẽ. Sự láy lại xôi lại hẩm, mướn không công cùng với nghệ thuật tiểu đối đã cực tả được cảnh khổ nhục của người vợ lẽ.
-Hai câu kết:
Thân này ví biết nhường này nhỉ
Thà trước thôi đành ở vậy xong.
Ðây là lời tâm sự của người vợ lẽ, tự lòng mình nói với mình. Hai tiếng thân này cùng với những từ biểu thị ý hối hận buông xuôi đi liền nhau:Ví biết, thà, thôi đành, vậy xong nghe như một tiếng thở dài não ruột, nhưng tiếng thở dài này lại chứa đựng một sự phản ứng, một lời tố cáo đối với chế độ đa thê.
Tóm lại bài thơ đã nói lên nỗi xót xa, tủi nhục của kiếp lấy lẽ và thái độ của tác giả trước thực trạng đó.
2.1.2.4.Nỗi đau của sự dở dang.
Bài thơ Sự dở dang.
Ở bài thơ này tác giả không trực tiếp phản ánh nỗi đau khổ, tủi nhục mà các cô gái lỡ làng phải chịu đựng nhưng qua bài thơ người đọc cũng có thể hình dung ra được sự tàn bạo, sự khắc nghiệt của lễ giáo phong kiến đối với họ.
Tóm lại viết về nỗi khổ của người phụ nữ, Hồ Xuân Hương đã viết được những điều mà không mấy ai viết được. Nhà thơ chưa nói đến toàn bộ nỗi khổ của họ mà chủ yếu bà đi sâu vào những nỗi đau có tính chất giới tính nhưng không kém phần bi kịch. Nhưng những bài thơ trên của Hồ Xuân Hương đã hòa vào tiếng nói chung của văn học đương thời để nói lên tiếng nói về cuộc đời đầy bất hạnh của người phụ nữ.
2.1.3.Vẻ đẹp của hình tượng người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương.
Viết về người phụ nữ, Hồ Xuân Hương còn có những bài thơ bày tỏ niềm kiêu hãnh của mình về vẻ đẹp tâm hồn; vẻ đẹp của tài năng, trí tuệ; vẻ đẹp thân thể của người phụ nữ.
2.1 3.1.Vẻ đẹp tâm hồn.
-Trong bài thơ Ðề tranh tố nữ, tác giả đã ca ngợi vẻ đẹp bất diệt của tuổi xuân, sự trinh trắng của ho:
Hỏi bao nhiêu tuổi hỡi cô mình
Chị cũng xinh mà em cũng xinh
Ðôi lứa như in tờ giấy trắng
Nghìn năm còn mãi cái xuân xanh
-Trong bài Bánh trôi nước, nhà thơ đã ca ngợi, đề cao, trân trọng phẩm chất kiên trinh của người phụ nữ. Dù sống trong hoàn cảnh nào họ cũng giữ được tấm lòng son.
-Trong bài Làm lẽ, tác giả đã ca ngợi vẻ đẹp của sức chịu đựng, sức phản kháng cuả người phụ nữ.
-Bài Mời trầu lại là cái nhìn về vẻ đẹp của khát vọng sống.
-Bài Sự dở dang lại là vẻ đẹp của đức hi sinh, của sức phản kháng.
2.1.3.2.Vẻ đẹp của tài năng, trí tuệ.
-Trong bài Ðề đền Sầm Nghi Ðống, tác giả đã thể hiện đượcsự tự ý thức về mình, thể hiện được tài năng của người phụ nữ.
Ghé mắt trông ngang thấy bảng treo
Kìa đền thái thú đứng cheo leo
Ví đây đổi phận làm trai được.
Thì sự anh hùng há bấy nhiêu.
Ði qua ngôi đền thờ tên tướng bại trận, nhà thơ phụ nữ này đã không chịu cất nón, cúi đầu chào kính cẩn, trái lại còn buông lời chê cười, mỉa mai: ghé mắt tức là nhìn liếc, nhìn bằng nửa con mắt. Kìa là chỉ, trỏ, không đáng chú ý. Ðứng cheo leo: Thế đứng buồn tẻ, không có gì là vững chãi. Ðặc biệt ở hai câu kết nhà thơ đã dám nói một điều táo bạo: Nếu được làm trai thì sự nghiệp anh hùng của ta sẽ không xoàng, không tồi tệ như sự anh hùng của nhà ngươi đâu.
2.1.3.3.Vẻ đẹp thân thể.
-Hồ Xuân Hương còn công khai ca ngợi và khẳng định vẻ đẹp thân thể của người phụ nữ.
-Cách miêu tả của Xuân Hương thuộc vào loại độc đáo nhất của thời dại. Bà chú ý đến những bộ phận thân thể thường được dấu kín của con người. Những bộ phận đó văn học thời đại thường né tránh. Riêng Hồ Xuân Hương lại nhìn thấy đó chính là một trong những biểu hiện của vẻ đẹp thân thể của người phụ nữ. Cách miêu tả của bà cụ thể, không chung chung, mờ nhạt:
Ðôi gò Bồng đảo hương còn ngậm
Một lạch Ðào nguyên suối chửa thông
Tất cả còn phong nhụy, trinh nguyên.
Tóm lại viết về người phụ nữ Hồ Xuân Hương đã biểu thị một thái độ xót thương, thông cảm, tin yêu và đấu tranh bênh vực cho quyền sống của họ. Cũng vì thế mà thơ bà có giá trị nhân đạo sâu sắc.
2.Những vần thơ trữ tình yêu đời.
Hồ Xuân Hương không phải chỉ là một con người nguyền rủa, đập phá mà bà còn là một con người chứa chan tình cảm, giàu khát vọng và thiết tha với đời. Con người trong thơ Hồ Xuân Hương luôn luôn sẵn sàng mở rộng tấm lòng của mình đễ chào đón tất cả những gì trẻ trung, tươi tắn. Ðiều này thể hiện tập trung nhất ở cách nhìn cảnh vật thiên nhiên của tác giả.
Là một nhà thơ yêu đời Xuân Hương thường nhắc đến mùa xuân một cách trực tiếp hay gián tiếp với một tình cảm đằm thắm, lạc quan. Và bao giờ bà cũng tìm thấy ở mùa xuân một hứng thú mới để gắn bó hơn với cuộc sống.
3.Những vần thơ trào phúng.
2.3.1.Ðối tượng trào phúng.
Ðó là những hiền nhân, quân tử, anh hùng, vua chúa, nhà sư, quan thị, những gương mặt nam nhi không xứng mặt nam nhi. So với các tác khác cùng thời, so với văn học dân gian, đối tượng phê phán trong thơ Hồ Xuân Hương phong phú hơn.
2.3.2.Nội dung trào phúng.
-Hồ Xuân Hưỡng lên án, châm biếm thói đạo đức giả .
-Hiền nhân, quân tử, anh hùng, vua chúa là những người theo đòi giáo lý của Khổng- Mạnh, là những người luôn rêu rao tinh thần khắc kỷ để phục lễ, luôn đề cao khẩu hiệu nam nữ thụ thụ bất thân, tự cho mình là người không lưu tâm đến sắc dục. Vậy mà trong thơ Xuân Hương, những hạng người cao quý này lại hiện lên với những ham muốn sắc dục mãnh liệt và duy nhất chỉ có ham muốn ấy mà thôi. Viết điều ấy, đúng là nữ sĩ đã hạ bệ đối tượng chóp bu này không chút thương tiếc.
Tóm lại: Chùm thơ đả kích trào lộng này tuy chưa đề cập đến đời sống vật chất của xã hội nhưng ngòi bút trào lộng sắc sảo của Xuân Hương cũng đã có những đóng góp đáng quý. Cùng với thơ ca dân gian thời kỳ này, chùm thơ phê phán hiện thực trên chắc chắn đã hỗ trợ đắc lực cho phong trào đấu tranh của quần chúng bấy giờ.
4.Một số vấn đề về nghệ thuật.
2.4.1.Vấn đề tục và dâm trong thơ bà.
Ðây là vấn đề từng gây nhiều tranh cãi và nói chung ở mỗi thời đại, mỗi giai cấp đều có những ý kiến khác nhau.
*Trước Cách mạng tháng tám:
-Giai cấp phong kiến cho thơ bà không đứng đắn, tà dâm.
-Giai cấp tư sản tán thành cái tình trong thơ bà nhưng lại cho rằng thơ bà có ý lẳng lơ.
*Sau Cách mạng tháng tám:
-Nhờ có quan niệm mĩ học Mác-Lênin soi rọi các nhà nghiên cứu đều nhất trí cho rằng thơ Xuân Hương chứa chan tinh thần nhân đạo và giá trị phê phán xã hội nhưng vấn đề dâm và tục vẫn chưa nhất trí, tựu trung có ba loại ý kiến:
-Tư tưởng chi phối tập thơ là tư tưởng dâm. (tiêu biểu cho loại ý kiến này là ý kiến cuả ông văn tânVăn Tần).
-Thơ Xuân Hương có bài dâm có bài không dâm mà chỉ là tục (tiêu biểu cho loại ý kiến này là ý kiến cuả ôngTrần Thanh Mại).
-Thơ Xuân Hương có những hình ảnh tục nên một số bài có bị hạn chế nhưng nhìn chung là tốt cả ( tiêu biêu cho loại ý kiến này là ý kiến cuả nhà thơXuân Diệu).
*Chúng ta cần hiểu cơ sở để xác định một tác phẩm nghệ thuật, một tác phẩm văn chương có yếu tố dâm hay không là xác định cho được mục đích phản ánh của cái tục là gì? Tác phẩm văn học là dâm khi nó lấy cái tục làm mục đích và lúc đó cái tục sẽ trở thành nội dung của nghệ thuật. Nếu cái tục chỉ là phương tiện nghệ thuật để nhà văn biểu hiện cảm xúc, tình cảm lành mạnh nào đó thì không thể kết luận tác phẩm ấy có yếu tố dâm.
Tóm lại: Tục và dâm khác nhau ở mục đích phản ánh của từng yếu tố ấy.
Thực tế trong sáng, Xuân Hương đã sử dụng cái tục làm phương tiện nghệ thuật để phê phán, đả kích, trào lộng, để bộc lộ cảm xúc nhân đạo của mình.
2.4.2.Ngôn ngữ thơ ca.
-Ngôn ngữ thơ bà được lựa chọn trong kho tàng ngôn ngữ của văn học dân gian. Trong kiến trúc câu thơ, yếu tố ca dao, tục ngữ được bà đặt rất đúng chỗ nên rất tự nhiên và nó có sức mạnh riêng của nó.
-Tác giả dùng những vần khó gieo, thi pháp trung đại gọi là tử vận-vần chết, khó họa lại nhưng khi sử dụng thành công lại có giá trị độc đáo. Ví dụ vần ênh trong bài Tự tình số III, vần này đã gợi cảm giác bất định, mong manh về số phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến.
-Thơ Ðường luật vốn được dùng trong thi cử, niêm luật chặt chẽ, hình thức đường bệ, nội dung cũng đường bệ. Hồ Xuân Hương đã đem đến cho thể thơ này một nội dung rất thông tục.
III.KẾT LUẬN
Xuân Hương thi tập cũng là một tập thơ của thời đại, thời đại cuối Lê- đầu Nguyễn, thời đại đấu tranh sôi nổi để đẩy lùi lễ giáo phong kiến vô nhân đạo, đấu tranh để đòi hỏi được xác nhận thân phận, đòi hỏi để được xác nhận quyền sống tự do và hạnh phúc. Xuân Hương thi tập đã thể hiện được phần nào những khát vọng đó của con người thời đại.
(Sưu tầm)