Chữ viết ở Việt Nam và Ngôn ngữ văn tự hán

Trang Dimple

New member
Xu
38
CHỮ VIẾT Ở VIỆT NAM VÀ NGÔN NGỮ VĂN TỰ HÁN
2015-02-05-04-14-47_image001.jpg


Như chúng ta đã biết, trước chữ Quốc ngữ hiện nay, đã có một thời gian dài dân tộc ta sử dụng chữ Hán như một thứ văn tự chính.Có nhiều ý kiến thắc mắc:Vậy trước chữ Hán, dân tộc ta đã có chữ viết chưa? Ðây là một vấn đề khá phức tạp chưa thể giải đáp rõ ràng, dứt khoát vì còn thiếu nhiều cứ liệu xác thực, cụ thể.

Nhìn vấn đề một cách tổng quát,chúng ta có đầy đủ cơ sở để khẳng định rằng mọi hệ thống chữ viết hiện nay đều bắt nguồn từ hình vẽ(đi từ đơn giản -> phức tạp -> cách điệu hóa cao độ).Và trong những giai đoạn xa xưa của lịch sử, một dân tộc khi đã biết sử dụng hình vẽ như một phương tiện thông tin giao tiếp thì tất yếu họ cũng sẽ biết vận dụng hình vẽ như một hệ thống ký hiệu nhằm phục vụ việc lưu trữ và truyền thông hoạt động ngôn ngữ của mình. Vấn đề còn lại chỉ là hạn độ thời gian ( hoặc sớm hoặc muộn) và mức độ thôi thúc của các nhu cầu xã hội.

Xã hội ta thời Văn Lang Âu Lạc đã là một xã hội có tổ chức, đã đạt tới những bước tiến nhất định trong lĩnh vực sáng tạo văn hóa ( vật chất và tinh thần). So với trình độ tiến hóa chung của cả vùng, đất nước ta lúc đó là một trong những tụ điểm văn minh sáng chói với nền văn hóa Ðông Sơn rực rỡ mà di tích còn lại đến nay là những bộ sưu tập trống đồng, công cụ lao động, vũ khí v.v..hết sức phong phú, đa dạng, nổi tiếng trên toàn thế giới. Với trình độ phát triển về mọi mặt trong một xã hội có tổ chức như vậy, sự xuất hiện của một hệ thống chữ viết dưới một dạng thức nào đó, được sử dụng trong một phạm vi nhất định nào đó là một hiện tượng văn hóa hoàn toàn phù hợp với qui luật tiến hóa chung của nhân loại.

Ở nước ta, cho tới nay mặc dù chúng ta chưa tìm được đầy đủ ( hoặc đã tìm được nhưng chưa khôi phục, giải mã được) những di vật cụ thể đủ để chứng minh cho những suy đoán và nhận định về hệ thống chữ viết cổ xưa của riêng dân tộc. Nhưng trong sử sách của ta và củaTrung Hoa cổ đại, sự tồn tại và hình dạng của loại chữ viết này đã được ghi lại khá cụ thể:

-Thiên Mộng Kí trong Thánh Tông di thảo có nhắc đến một tờ tâu viết bằng chữ bản địa, hình dạng ngoằn ngoèo nhà vua không đọc được, quần thần cũng chịu sau có thần nhân báo mộng cho biết đó là chữ cổ của nước Nam, ở miền núi rừng còn có người đọc được .

- Sách Tiền Hán thư viết: đời Ðào Ðường (khoảng thiên niên kỉ 2 trước công nguyên) có họ Việt Thường ở phương Nam cử sứ bộ qua và vào triều biếu con rùa thần, có lẽ sống tới nghìn năm, trên lưng nó có khắc chữ như con nòng nọc ghi việc trời đất mở mang vua Nghiêu sai chép lại, gọi là Qui dịch.

Như vậy là cả 2 tài liệu kể trên đều khẳng định người Việt đã có chữ viết riêng từ thời xa xưa và đều thống nhất với nhau ở một điểm chữ viết của người Việt lúc đó khác với chữ Hán về hình dạng và kết cấu.

Trong Thanh Hóa quan phong Vương Duy Trinh-một tác giả TK XIX –cũng nói đến một thứ chữ cổ của ta, khẳng định rằng trước khi dùng chữ Hán ta đã có một thứ chữ khác.

Sau đây là một số giả định về chữ viết của người Việt cổ:

+ Từ thời Văn Lang- Âu Lạc, người Việt cổ có thể đã có chữ viết riêng để ghi lại tiếng nói của mình. Chữ viết ấy có thể do họ tự sáng tạo ra theo đường hướng hình thành và phát triển chung của các loại chữ viết trong thế giới cổ đại, tức là theo trình tự từ hình vẽ thông tin tới ký hiệu qui ước gắn bó với ngôn từ rồi tiến lên xây dựng chữ viết có hệ thống hoàn chỉnh. Như chúng ta đã biết, khả năng sáng tạo ra chữ viết nằm trong tầm tay mọi dân tộc khi đã đạt tới một trình độ phát triển nhất định.Tổ tiên ta thời Hùng Vương dựng nước đã đạt tới trình độ ấy, tất yếu thời kỳ này chúng ta đã có chữ viết riêng.

+ Theo sự giao lưu văn hóa, kinh tế ( øthậm chí theo cả con đường bành trướng xâm lược ) các quốc gia khác nhau trên thế giới sẽ lựa chọn những bộ chữ viết thích hợp, cải tiến, hiệu chỉnh chúng cho phù hợp với yêu cầu của mình, tạo ra những loại chữ viết riêng. Trong khung cảnh đó, người Việt cổ có thể đã có dịp tiếp xúc với các loại chữ viết ghi ý, ghi âm như các loại chữ cổ miền nam Ấn Ðộ chẳng hạn. Họ đã mô phỏng các loại chữ ấy để tạo ra chữ viết.

Qua nhiều tài liệu sách vở của ta và của Trung Hoa cổ đại cho phép ta nghĩ rằng loại chữ như đàn nòng nọc, như giun bò của người Việt có thể chỉ dùng một số lượng ký hiệu rất hữu hạn, rất đơn giản (có lẽ chỉ là những nét ngang, dọïc, ngắn, thẳng và cong) Về cơ bản, đó là loại chữ ghi âm.

Trên cơ sở khẳng định rằng trước khi đế chế Trung Hoa áp đặt nền đô hộ lên đất nước ta, người Việt cổ đã có chữ viết riêng và loại chữ này khác chữ Hán về mặt loại hình, chúng ta thử tìm hiểu những nguyên nhân đã đẩy loại chữ này dần dần đi đến chỗ mai một.

Nguyên nhân thứ 1: Chữ viết của người Việt cổ ở buổi đầu dựng nước chưa được phổ biến rộng rãi lắm.Ðiều này thường thấy khi xem xét đời sống văn hóa của nhiều quốc gia cổ đại.Cũng có thể thời bấy giờ có nhiều loại chữ viết khác nhau cùng song song tồn tại. Bên cạnh chữ viết, có thể người Việt cổ còn sử dụng nhiều hệ thống hình hoạ, ký hiệu khác nữa để thông báo tin tức. Có thể tìm hiểu vấn đề này qua ý nghĩa của các hình khắc vạch trang trí trống đồng với tính cách là một văn bản giáo khoa lịch sử.

Nguyên nhân thứ 2: Vào khoảng thế kỉ 1 trước công nguyên người Việt phải liên tục đương đầu với những đợt sóng xâm lăng của đế chế phương Bắc. Công việc quan trọng nhất lúc đó là chiến đấu chống giặc ngoại xâm. Ở thời kì này, chắc hẳn tổ tiên ta chưa thể dành nhiều thời gian và tâm sức cho việc phát triển và xây dựng văn hóa một cách toàn diện trong đó có việc hoàn thiện và mở rộng phạm vi sử dụng của chữ viết. Trong lúc đó, quân thù lại quyết tâm thực hiện âm mưu Hán hóa người Việt xóa bỏ mọi phong tục, tập quán, thành quả văn hóa, kể cả tiếng nói và chữ viết của người Việt. Nhưng kẻ thù đã thất bại trong âm mưu đồng hóa dân tộc ta trước sức mạnh quật cường của dân tộc.Tiếng Việt vẫn tồn tại và ngày càng phát triển cùng với nền văn hóa cao đẹp có truyền thống lâu đời của người Việt. Nhưng riêng về mặt ngăn chặn, cấm đoán loại chữ viết gắn với tiếng nói ấy thì có lẽ kẻ thù cũng đã đạt được mục đích vì ta thấy, hạn chế cấm đoán một tiếng nói sống động thì rất khó, nhất là khi tiếng nói ấy lại gắn bó với một dân tộc quật cường, bất khuất, có truyền thống văn hóa lâu đời.Nhưng xóa bỏ một thứ chữ viết thì có phần dễ dàng hơn, nhất là khi thứ chữ viết ấy chưa được sử dụng một cách phổ biến, rộng rãi, chưa đi sâu vào mọi mặt của đời sống xã hội, số người biết và sử dụng chữ viết chỉ là thiểu số trong quần chúng.Lịch sử văn hóa cổ đại đã cho chúng ta một thí dụ tiêu biểu: Vào khoảng TK XII trước CN, cùng với nền văn hóa phát triển, người Hy Lạp cổ đã có chữ viết riêng nhưng sau cuộc xâm lăng và nền đô hộ của người Ðôrêan, cuộc sống văn hóa- xã hội của họ đã rơi vào vòng trì trệ trong khoảng thời gian gần 3 thế kỷ. Người Hy Lạp cổ đã quên mất chữ viết thời xưa của mình.Do đó, khoảng TK VIII trước CN, khi dành lại quyền độc lập, họ lại phải mượn hệ thống chữ viết của người Phênixi để đặt ra chữ viết.

Chữ viết của người Việt cổ theo những giả thuyết vừa trình bày trên, coi như đã bị mai một, khó lòng tìm lại dấu vết cụ thể. Quá trình sáng tạo những phương tiện để truyền đạt ngôn ngữ, tư duy, tình cảm.. của người Việt cổ chỉ còn để lại nhũng dấu ấn khá tinh tế, độc đáo trên các hình ảnh chạm khắc và hoa văn trên trống đồng- di vật tiêu biểu của nền văn minh Ðông Sơn huy hoàng- mà có nhà nghiên cứu đã gọi là ngôn ngữ,từ vựng của trống đồng.

Cùng với việc đặt nền đô hộ lên đất nước ta, chính quyền phong kiến phương Bắc cũng tăng cường việc du nhập, truyền bá văn tự Hán.Chữ Hán được đem ra giảng dạy ở một số trung tâm do chính quyền đô hộ tổ chức. Chữ Hán trở thành chữ viết hợp pháp được sử dụng trong các giấy tờ có tính chất quan phương chính thống.Nhưng như vậy không có nghĩa là nhân dân ta ủng hộ hòan toàn việc du nhập chữ Hán vào nước ta làm thứ văn tự chính .Mặc dù sách vở Trung Hoa có nói nhiều đến công lao khai hóa của một số quan lại cầm đầu chính quyền đô hộ như Sĩ Nhiếp v.v..nhưng thực tế cho thấy với con số quá ít ỏi những người tinh thông chữ Hán & những thành quả quá nhỏ bé, mong manh của việc giáo hóa, dạy chữ nghĩa của chính quyền đô hộ còn ghi rõ trong sử sách Trung Hoa đã chứng minh rằng sự thờ ơ, lãnh đạm trên là một thực tế.Tuy vậy, do nhiều yêu cầu (khách quan & chủ quan ) việc giao tiếp văn hóa, ngôn ngữ giữa 2 bên Việt Hán vẫn diễn ra nhưng theo hướng chủ đạo là Việt hóa.

( Qua gần 1000 năm Bắc thuộc, chỉ có dăm ba người tinh thông chữ Hán như Trương Trọng, Lý Cầm, Lý Tiến (thời Hán), Khương Công Phụ ( thời Ðường) nhưng sau khi học đỗ đạt, họ đều ở lại làm quan bên Trung Quốc.Riêng chỉ có Tinh Thiều sau khi đỗ đạt đã tham gia cuộc khởi nghĩa của Lý Nam Ðế, trở thành người dứng đầu ban Văn của triều đình nước Vạn Xuân (544- 603.Lý Nam Ðế tức Lý Bôn, còn gọi là Lý Bí, đánh tan giặc Lương)

Theo đà tiến hóa của xã hội, người Việt sử dụng chữ Hán đôi khi cảm thấy lúng túng khi cần phải nói đến, phải ghi lại những điều gì đó riêng biệt của người Việt (đặc biệt là tên người, tên đất, tên sông núi, hoa cỏ, cây trái..) mà ngôn ngữ Hán tỏ ra bất lực.Hơn nữa, họ cũng cảm thấy cần phải có một thứ chữ riêng để ghi lại tiếng nói của mình, tiếng nói vơiù tính cách là linh hồn dân tộc. Do những yêu cầu trên chữ Nôm chữ viết riêng của người Nam đã ra đời. Về đại thể, có thể chữ Nôm là một hệ thống chữ viết ghi âm, dùng những chữ Hán ( hoặc một bộ phận của chữ Hán ) được cấu tạo lại để ghi tiếng Việt theo nguyên tắc ghi âm tiết. Ngay từ khi mới ra đời, chữ Nôm đã tích cực đóng góp vào việc hình thành nên ngôn ngữ văn hóa dân tộc. Mặc dù trải qua nhiều bước thăng trầm ( Vd thời Lê- Trịnh bị thiêu huỷ, cấm sử dụng ) nhưng hệ thống chữ viết cổ này cũng đã hoạt động liên tục gần 10 thế kỷ.Chữ Nôm không còn là nôm na, cha mách qué nữa mà đã chiếm được lòng tin yêu, trân trọng của những tầng lớp tối cao trong chế độ phong kiến, ngay giữa lúc Hán học đang hồi thịnh vượng.Và hơn thế nữa, trong các thế kỷ XVI, XVII, XIII chữ Nôm còn đạt được nhiều thành tựu lớn hơn nữa trong việc phục vụ công cuộc xây dựng & phát triển nền văn hóa dân tộc.Các tác phẩm Nôm nổi tiếng là Chinh phụ ngâm ( Ðặng Trần Côn, Ðoàn Thị Ðiểm), Cung oán ngâm ( Nguyễn Gia Thiều), Truyện Kiều ( Nguyễn Du ), Lục Vân Tiên (Nguyễn Ðình Chiểu).Truyện Nôm ra đời đánh dấu bước phát triển nhảy vọt của văn Nôm (trong hòan cảnh bị chính quyền Lê Trịnh hết sức cấm đoán). Những chủ trương & hành động thực tế của vua Quang Trung như khuyến khích việc viết văn xuôi bằng chữ Nôm, tổ chức dịch các sách kinh điển của Nho gia ra văn Nômv.v…đã khẳng định vị trí cao quí và khả năng to lớn của tiếng nói và chữ viết dân tộc. Các tác phẩm như Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm là những tác phẩm cho thấy sự trưởng thành vượt bậc của chữ Nôm qua tác phẩm văn học. Mặc dù nhà Nguyễn với chính sách phản động, phản dân tộc đã ra sức đề cao vai trò của chữ Hán, của Nho học nhưng cũng chính trong thời kỳ này chúng ta đã có được Truyện Kiều của Nguyễn Du, Lục Vân Tiên của Nguyễn Ðình Chiểu, Chữ Nôm đã tích cực đóng góp vai trò của mình trong phong trào nhân đân chống Pháp đưới hình thức những bài hịch, những vần thơ tỏ lòng khảng khái mà trước đây vẫn thường được viết bằng chữ Hán. Cho đến những năm đầu thế kỷ XX, trong khi chữ Quốc ngữ được phổ biến rộng rãi nhờ tính chất khoa học và giản đơn của nó, chữ Nôm vẫn tiếp tục được sử dụng và phát huy tác dụng.
 

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top