Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
NGÔN NGỮ HỌC
Tiếng Việt
Chữ Quốc ngữ
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="Hide Nguyễn" data-source="post: 16975" data-attributes="member: 6"><p>4- Cuộc tranh luận về lịch sử được nêu lên lại như thế nào?</p><p></p><p>Cũng vào năm 1645, thời điểm tổ chức tại Macao cuộc bàn luận ngữ học với nhiều ý kiến mâu thuẫn như đã nêu lên, thì Alexandre de Rhodes lại được vị bề trên Manuel de Azevedo ủy thác một sứ mệnh tại Roma (81). Chúng tôi sẽ không đề cập ở đây những khía cạnh ngoại giaP của chuyến đo, cũng như hậu quả của chuyến đi ấy đối với các xứ truyền giáo tại Viễn Ðông (82): những hậu quả này rất đau khổ cho Bồ Ðào Nha, nhưng không thể quy lỗi cho linh mục Rhodes (83). Chúng tôi chỉ ghi lại sự thành công không thể chối cãi và cũng không ai đặt thành vấn đề: việc xuất bản tại Roma cuốn từ điển và cuốn giáo lý mà nhà truyền giáo ấy mang theo trong hành lý của mình, cũng như một số tác phẩm lịch sử khác về công cuộc truyền giáo tại Việt Nam. Dựa vào những tác phẩm được xuất bản này mà nhân vật Alexandre de Rhodes bắt đầu trở thành truyền thuyết, hầu như thần thoại đối với lịch sử của các công cuộc truyền giáo tại Việt Nam cũng như đối với lịch sử tiếng Việt (84). Chúng tôi thấy đây là một sự sai lầm về lịch sử. Hẳn nhiên, Rhodes là một nhà truyền giáo lớn, nhưng không phải là một siêu nhân: khẩn thiết phải trả lại thực trạng con người cho con người ấy, và đặt lại công trạng này trong bối cảnh lịch sử thật của nó. Ngoài những vấn đề liên quan đến nỗ lực xây dựng cho ngữ học Việt Nam, mà chúng ta sẽ bàn thảo, chúng ta nêu llên đây một vấn đề khác nữa.</p><p></p><p>Ki-tô giáo tại Việt nam, mặc dù đã được du nhập vào từ ba thế kỷ rưỡi, vẫn còn tiếp tục chịu đựng sự tẩy chay thực sự trong xã hộị Nhiều người gièm pha trách cứ rằng Ki-tô giáo đã được nhập cảng đến trong mớ hành lý của giới thực dân người Pháp, mà hẳn Alexandre de Rhodes là kẻ mở đường (85). Việc phục hồi danh dự gần đây cho vị này từ phía nhà cầm quyền không gột bỏ hết truyền thuyết xấu xa đó, đặc biệt trong sinh hoạt hải ngoại của người Việt Nam (86). Thiết định lại sự thật lịch sử về những nguồn gốc cộng đồng công giáo sẽ nêu lên được một cách hiển nhiên những thực trạng hoàn toàn khác: chính trong khuôn khổ của một sự đối thoại và trao đổi với nhau, một cách hoàn toàn bình thản, giữa người Bồ Ðào Nha và người Việt Nam mà các nhà truyền giáo, những con người tự do và chân thành, đã thành công trong việc làm cho một phần dân chúng nghe theo mình.</p><p></p><p>Trong bầu không khí thông cảm sâu xa, họ đã hoà mình vào ngôn ngữ và tập tục của những người đối thoại với họ; những người nghe họ đã chọn lựa một cách tự do, và gia nhập vào đức tin mới, được biểu lộ ra trong chính ngôn ngữ của mình. Trong khung cảnh như thế, linh mục Rhodes, thần dân của Giáo Hoàng, đã thi hành tác vụ của ông y như các huynh đệ cùng dòng người Bồ Ðào Nha, Ý hoặc Nhật Bản.</p><p></p><p>Tìm lại sự thật lịch sử, đằng sau huyền thoại được tô vẽ trong cái nhìn theo lối Pháp, là một nỗ lực đặc biệt gian nan và bạc bẽo. Nhưng để thực hiện công tác này, sử gia nghiên cứu về công cuộc truyền giáo tại Việt Nam lại có được những nguồn tài liệu phong phú. Ðây không phải là những tài liệu chính thức, dẫu thuộc lĩnh vực chính trị hay kinh tế; những tài liệu như thế đã từng được biết đến và phần lớn đã được xuất bản và khai thác. Hơn nữa, chẳng bao giờ có thuộc địa Bồ Ðào Nha thực sự tại Việt Nam và những trao đổi chính trọ lại rất ít: hiệp ước duy nhất là thỏa ước nhất thời Bô- Việt năm 1786 (87). Loại tài liệu ấy chỉ giúp xác định bối cảnh xã hội, kinh tế của công cuộc truyền giáo, chớ không xác định được nội dung của nó.</p><p></p><p>Phần thiết yếu của các nguồn tài liệu gồm các bản chép tay do các tu sĩ, phần lớn lại chưa xuất bản. Nói chung, thì ta nên lưu ý là những tài liệu chưa xuất bản có giá trị nghiên cứu hơn những bản đã được xuất bản, nếu chúng có thể tìm được, vì thời đó việc xuất bản trước hết nhằm đào tạo những tâm hồn đạo đức của Âu châu (88) và do đó có thể được gọt giũa cho ăn khớp với mục đích này. Những bản viết tay, đặc biệt là những bản báo cáo chính thức và trao đổi thư từ riêng tư giữa các tu sĩ Dòng Tên, phần lớn được lưu trữ ở Lisbonne, ở Madrid và nhất là ở Roma, rải rác trong nhiều bộ sưu tập (89). Chúng được viết bằng tiếng Bồ Ðào Nha, một số ít bằng tiếng La-tinh, và đôi khi bằng tiếng Ý. Chính nội dung của chúng sẽ cho phép ta thiết lập lại niên kỷ của công cuộc truyền giáo một các chi tiết và thấy rõ vai trò của mỗi một tác nhân trong công cuộc truyền giáo này một cách đúng mức. Cũng nhờ việc làm này, các tiến bộ và những bất ngờ của sinh hoạt ngữ học và văn hóa của các tu sĩ Dòng Tên Bồ Ðào Nha ở Việt Nam được đưa ra ánh sáng, với tên tuổi của những vị khởi xướng đầu tiên.</p><p></p><p>Việc xuất bản và khai thác các nguồn tài liệu này là một công trình còn mở ngỏ. Ðối với chúng tôi, chúng tôi đã ưu tiên thực hiện việc tra cứu mục lục các tài liệu liên quan đến nửa thế kỷ đầu tiên, tức là nửa thế kỷ đã từng chứng kiến phần thiết yếu của công trình sáng chế (1615-1664). Nhưng việc thẩm định lại giá trị toàn bộ sẽ phải là một công trình tập thể dài hơi, đòi hỏi nhiều yếu tố, trong đó có việc nối kết lại những mối liên lạc hợp tác văn hóa giữa người Bồ Ðào Nha và người Việt Nam. Cần có một thế hệ các nhà nghiên cứu người Việt trong tuơng lai có thể tham gia tích cực vào công tác này (90). Một mặt họ sẽ không chen chân vào những tranh cãi nội bộ giữa các người Âu châu, điều mà họ không dính dáng gì vào; mặt khác chỉ có sự đóng góp của chính họ mới truy cứu được thấu đáo những mối liên hệ văn hóa qua những gì đã từng được thực hiện trong cuộc gặp gỡ lịch sử vào thế kỷ XVIII.</p><p></p><p>Chú thích:</p><p></p><p>81. Nhiều khía cạnh của chuyến đi này chỉ được biết qua bản tường thuật của Rhodes. Manuel de Azevedo, sinh ở Viseu (Bồ Ðào Nha) năm 1581, chết tại Ma Cao năm 1650. Với tư cách là "kinh lược các vùng truyền giáo của Nhật Bản và Trung Hoa" (1644-1650), ngài là thẩm quyền cao nhất của hội Dòng Tên ở Viễn Ðông. Ngài được một vị khác người Bồ Ðào Nha phụ tá, João Cabral, bấy giờ là viện trưởng học viện và làm phó giám tỉnh (1645-1646). Sinh ở Celorico da Beira (Bồ Ðào Nha) năm 1598, Cabral làm kinh lược ở Ðàng Ngoài trong các năm 1647-1648. Chính ngài chủ trì cuộc họp ở Ma Cao (1645) mà chúng ta đã nói đến. Ngài chết tại Goa năm 1669.</p><p></p><p>82. Ngoài các tác phẩm của Henri Chappouille và António da Silva Re go trích dẫn ở trên (chú thíc 40), về vấn đề này có thể nhắc đến Ignatio Ting Pong Lee, "La actitud de la sagrada congregación frente al Regio Patronato", trong Joseph Metzler, (ed.). "Sacroe Congregatio nis de Propaganda Fide memoria rerum. 350 ans au service des missions 1622 1 972", tập I/1, Roma/Fribourg em Brisgau/Vienne. Herder, 1971, tr. 353 438.</p><p></p><p>83. Kể từ năm 1654, nghĩa là 5 năm trước khi chấm dứt các cuộc thảo luận ấy, liên quan đến tương lai công cuộc truyền giáo tại Việt Nam vượt ra khỏi khả năng của Rhodes: việc bổ nhiệm các giám mục cho Việt Nam, "công việc" được uỷ thác cho ngài lúc đầu khi rời khỏi Mac Cao, từ nay do các cơ quan thẩm quyền tại Roma xử lý. Chính ngài lại được gửi đi Ba Tư. Xem Lucien Campeau, "Le voyages du Pe`re Alexandre de Rhodes en France 1653-1654 ", trong "Archivum Historicum Societatis Iesu 48", 1979, tr. 65-85, với những tài liệu các văn khố đã trích dẫn.</p><p></p><p>84. Chẳng hạn Stephen Neill, "A history of Christian missions" (Harmonds worth Middlesex (GB), Penguin, 1979). Tác giả quả quyết: "The hero of this epic of conversion was Alexandre de Rhodes" (tr. 195). Nghĩ rằng Rhodes là người duy nhất thực hiện lối viết quốc ngữ, Neill viết tiếp: "The second gift of Rhodes to the Church was the reduction of the Vietnamese languages, a remakably accurate ear; Vietnamese is a tonal language, and the accurate representation of these tones is extraordinarily difficult ..." (tr. 196. Hẳn là phải đặt lại vấn đề, ngoài ra ở đây, tác giả diễn tả như một lối giả thiết, khi không trích dẫn được tài liệu nào chứng minh cho xác quyết của mình.</p><p></p><p>Tiểu sử của Rhodes được viết ra gần đây hơn cả là do Jean La Couture ("Un Avignonnais dans la rizie`re", trong "Je'suites. Une multibi ographie", tập I, "Les conque'rants", Paris, Seuil, 1991, tr. 297 324), lới viết khá "khéo léo" vừa nêu lên nhân vật này cũng như cô ng việc truyền giáo của con người Avignon ấy trong khung cảnh như "huyền thoại", vừa cố đáp ứng những yêu sách của lối phê bình "lịch sử" của các tác giả tân kỳ. Ðáng tiếc là có quá nhiều chi tiết sai lầm làm cho bản văn mất đi giá trị lịch sử chính yếu của nó. Một công trình gần đây nhất khai triển lịch sử công cuộc truyền bá Ki-tô giáo tại Việt Nam trong tiền bán thế kỷ 17 do tu sĩ Dòng Tên Philippe Lécrivain: "La fascin ation de l' Extrême Orient, ou le re^ve interrompu" (L' a^ge de raison", 16 20/30-1750, tập 9 trong bộ "L' histoire du chirstianisme des origines à nos jours" dir. de Jean Marie Mayeur, Charles Pietri, André Vauchez và Mar c Venard, Paris, Desclée, 1997, tr. 755-834.). Nếu tác giả tránh nêu lên rằng Rhodes là chính tác giả sáng chế về ngữ học, thì vẫn tiếp tục trình bày ngài như vị tiên phong, người chủ động chính đáng được nêu lên trong trang sử này.</p><p></p><p>85. Chẳng hạn xem Nicole Dominique Lê, "Les missions étrange`res et la pénétration francaise au Viêt Nam", Paris/ La Haye, Mouton, 1975; Thế H ưng "L' Eglise catholique et la colinisation francaise", trong "Les Catholi ques et le mouvement national, Etudes Vietnamiennes" (Hà Nội), số 53, 1 978, tr.9-81; Trần Tam Tỉnh, "Dieu et Ce'sar: les catholiques dans l'hist oire du Viet Nam, Kỷ yếu hội nghị khoa học tại thành phố Hồ Chi ' Minh ngày 11-12-3-1988" (TP. HCM), Viện Khoa Học Xã Hội và Uỷ ban tôn giáo nhà nước", 1988,</p><p></p><p>86. Về vấn đề phục hồi danh dự, xem chú thích 12. Cộng đồng Việt Nam hải ngoại có hai khuynh hướng cực đoan về vấn đề này. Có nhiều người công giáo ca tụng Alexandre de Rhodes quá mức. Nhiều giới khác, nhân danh tinh thần quốc gia, lại phản ứng ngược lại với suy nghĩ rằng ca tụng người Pháp này như một ân nhân của Việt Nam dường như là cố biện minh cho chế độ thực dân và vì thế người ta phải tố giác.</p><p></p><p>87. Xem nghiên cứu của Pierre Yves Manguin về "Hiệp ước Bangkok ngày 5-12-1786", trong "Les Nguyễn, Macau et le Portugal (1773-1802)", Pa ris, EFEO, 1984, tr. 55-73; cũng như trong bản văn trang 62-67,</p><p></p><p>88. Ðây cũng là trường hợp của hai tác phẩm lớn của Alexand re de Rhodes "Tvnquinensis historiae libri dvo (...)", Lyon, K.B. Denvenet, 1652 (bản dịch Pháp ngữ cũng do nhà xb, này từ 1651); và "Divers voyages et missions" (nêu lên ở trên, trong chú thích 9). Chẳng hạn xem ý kiến của uỷ ban giám định của hội Dòng Tên tại Roma về cuốn sách này: "Các cha duyệt sách xét rằng hai cuốn sách về chuyến đi của cha Alexandre de Rhodes có thể được in, để khích lệ nhiều người về mặt thiêng liêng", Roma, ARSII. "Fondo G esuitico" 668, tr. 196. Liên quan đến cuốn sách của Rhodes viết về thầy giảng André, một trong các giám định viên minh nhiên mong rằng Rhodes cần lưu ý nhiều hơn về các qui luật chép tiểu sử (tldd. tr.186). Chúng tôi thấy dường như một số các nhà chép sử hiện đại dựa vào các sách này nhưng không lưu ý đủ tinh thần kiểm thảo.</p><p></p><p>89. Về các kho văn khố Bồ Ðào Nha và Tây Ban Nha liên hệ, chẳng hạn nên xem Joseph Franz Schutte, "El Archivo de Japón, Vicisitudes del Archivo jesuítico del Extremo Oriente y descripción del fondo existent e en la Real Academía de la Historia de Madrid", Madrid, Real Academía de la Histo'ria 1964; và António Da Siva Rego, "Jesuítas na A'sia", trong Bi blioteca da Ajuda. Revista de Divulgacão", I/1. 5.1980, tr. 95-112; Maria A ugusta da Veiga Ẹ Sousa, "Roteiro e descricão suma'ria dos documentos que existem, em microfilmoteca do Centro de Estudos de Histo'ria e Cartografia antiga" (=BFUP số 47), Lisbonne, 1986. Còn các kho Roma, phần chính văn khố của Hội Dòng Tên (ARSI), đặc biệt là kho JAP. SIN và "Fondo Gesuitico"; cũng có thể xem thư viện trung ương quốc gia, " Fondo Gesuitico" và văn khố Propaganda Fide, Tất cả các cơ sở nà y mở cửa cho các nhà nghiên cứu và giúp họ dễ dàng có được những dụng cụ truy cứu.</p><p></p><p>90. Một số nhà nghiên cứu Việt Nam đã trình những luận án sử học hoặc có liên quan đến lịch sử, nói đến thời liên hệ, tại các đại học ở Paris và Roma. Rất ít luận văn được xb., và gặp phải những thiếu sót như đã nêu lên, đặc biệt vì không đọc hiểu các nguyên bản viết bằng tiếng Bồ Ðào Nha. Chúng tôi xin nêu ra đây : Nguyễn Hữu Trọng, "Le Clergé na tional dans la fondation de l' Eglise au Viêt Nam. Les origines du clergé Vietnamien" (Paris, Institut Catholique, 1955); Vũ Khánh Tường, "Les mi ssions je'suites avant les Missions Étrange`res au Viêt Nam, 1615-1665" (P aris, Institut Catholique, 1956); Ðỗ Quang Chính, "La mission au Viêt Nam, 1624-1630, et 1640 1645" (Paris, Institut Catholique 1956); Phạm Văn Hội, "La fondation de l' E'glise au Viêt Nam, 1615-1715" (Roma, Universit é Gregorienne, 1960); Ðỗ Quang Chính. "La mission au Viêt Nam, 1624-16 30 et 1540-1645, d' Alexandre de Rhodes, sj, avignonnais" (Paris, Ecole Prat ique des Hautes Etudes, 1969). Luận án thần học: Nguyễn Khắc Xuyên, "Le catéchisme en langue vietnamienne romanisée du P. Alexandre de Rhodes, 1651" (Roma, Université Gre'gorienne, 1956-1957); Placide Tân Phát, " Méthodes de catéche`se et de conversion du P. Alexandre de Rhodes, 1593-16 60" (Paris, Institut Catholique, 1963); Mai Ðức Vinh, "La participation d es notables de chétiente's vietnamiennes aux ministe`re des prêtres. Reche rche historico- pastorale, 1533-1953" (Roma, Université St. Thomas, 19977); Nguyễn Chí Thiết, "Le Catéchisme du Pe`re Alexandre de Rhodes et l' â me vietnamienne" (Roma, Université Gregorienne, 1980).</p><p></p><p>Các luận văn về giáo luật: Nguyễn Việt Cử, "De Institutione " Domus Dei in missio nibus Tonkini: Studium Juridicum" (Roma, Université Gregorienne, 1954); Nguyễn Trọng Hồng, "L'Institut des catéchistes et les missions d' Indochi ne au XVII siècles (Roma, Université Urbanienne, 1959); Phạm Quốc Sử, "La maison de Dieu, une organisation des catéchistes au Viêt Nam" (Roma, U niversité Urbanienne, 1975). Như chúng ta đã từng nêu lên, luận văn của Nguyễn Hữu Trọng đã từng được phát hành và gặp phải những phê bình nghiêm khắc từ phía Bồ Ðào Nha: xem lại chú thích 78.</p><p></p><p>Ngoài ra, nhiều giáo sư đại học Việt Nam đã viết về con người và sự nghiệp của Alexandre de Rhodes, đặc biệt vào dịp kỷ niệm 300 năm ngài chết của ngài. Xem các bài báo trong tập san "Tạp chí Ðại học", 1960 và 1961- Huế; số đặc biệt của Việt Nam khảo cổ tập san Sài Gòn. "300 năm sau ngày cha Ðắc Lộ qua đời 1593 1660", số 2.1961. 258 trang.</p><p>5- Tra cứu lại bộ hồ sơ ngữ học</p><p></p><p>Mặc dầu có việc xuất bản gần đây về các nguồn tài liệu của Trung Hoa về ngữ học Việt Nam trong lịch sử (91), thì cuốn từ điển và cuốn giáo lý đã xuất bản tại Roma vào năm 1651 vẫn là hai tác phẩm nền tảng không thể thay thế để biết được thực trạng của tiếng nói này vào cuối thế kỷ XVII, và sự tiến hoá của nó. Nhưng sự kiện chúng đã được xuất bản dưới tên tuổi duy nhất của Alexandre de Rhodes dường như không còn được đặt thành vấn đề để truy cứu cho tận tường hồ sơ ngữ học. Ðến mức độ nào ông là tác giả thật sự của các tác phẩm này? Bằng cách nào ông đã mượn lại những công trình của các vị đi trước mình, trong tư thế của một nhà sưu tập hoặc người biên tập bản văn cuối cùng? Thật khó mà trả lời một cách thích đáng các câu hỏi này; nhưng chúng phải được nêu lên, và phải được tra cứu một cách đúng đắn nhờ những chứng cớ đã được viết ra mà ta có thể có.</p><p></p><p>Thật vậy, ý niệm về sở hữu văn chương nơi các tu sĩ Dòng Tên vào thế kỷ XVII không y như ý niệm ta có bây giờ, chúng t a đưa ra đây hai thí dụ: ta thấy bản tường thuật về việc tử đạo của thầy giảng André, mà bản gốc bằng tiếng Bồ Ðào Nha chắc chắn do chính linh mục Rhodes viết ra, nhưng đôi khi được lấy lại từng chữ một dưới tên các tác giả Matias da Maia (92), Antonio Francisco Cardim (93) hoặc Manuel Ferreira (94). Ngược lại, Rhodes đã xuất bản hoặc tái bản một bản văn được thuận nhận để phổ biến, thì người được đề cử làm công việc này lại ghi tên mình vào đó và mang trách nhiệm cá nhân về công tác của mình. Trong trường hợp của linh mục Rhodes và các vị tử đạo của Nhật Bản, có lẽ đã dựa vào danh tiếng đang lên của con người Avignon này để làm cho cuốn sách được phổ biến rộng rãi hơn.</p><p></p><p>Về hai tác phẩm viết bằng tiếng Việt Nam do Bộ Truyền Bá Ðức Tin xuất bản, hẳn không có vấn đề bán ra cho dân chúng; mục đích duy nhất là phục vụ công cuộc truyền giáo. Do sự kiện Rhodes là người duy nhất ở Roma biết đến ngôn ngữ ấy, thì ông cần đích thân bảo chứng cho các tác phẩm liên hệ, mang lấy trách nhiệm tối hậu trước các vị bề trên của mình và trước Toà Thánh. Sự kiện tên ông xuất hiện trên bìa sách không nhất thiết minh chứng rằng ông là "tác gia" duy nhất của nó và ngay cả là người biên tập chính. Chúng tôi nghĩ rằng đây là lối mang trách nhiệm mà linh mục Rhodes đã thực hiện, chứ không phải là nêu lên tư cách tác giả văn chương theo nghĩa chính xác như chúng ta hiểu; những vị có thể làm điêu này y như cương vị của ông, hoặc có thể cùng làm việc này với ông, thì lại ở xa mút tại một nơi khác.</p><p>Còn cuốn giáo lý, có lẽ phải dành tư thế tác giả cho ông trong việc biên tập dứt điểm bản văn được in ra, và chắc chắn hơn nữa là bản văn la tinh được ông minh nhiên nói đến. Nhưng cũng chính Rhodes đã ghi rằng, trong trường hợp này đây là "phương pháp mà chúng tôi đã dùng để trình bày các màu nhiệm của chúng ta cho người ngoại quốc". Như thế rõ rệt nó được định vị trong một công trình tập thể.</p><p></p><p>(Chúng tôi giải thích từ ngữ "phương pháp" như hàm ngụ các tài liệu được viết ra. Thật thế một bản văn của tu sĩ Dòng Tên Metello Saccano chứng thực rằng các bản văn dạy giáo lý, ít nhất giống như bản của Rhodes, vừa được viết bằng chữ theo vần la- tinh và vừa được viết bằng chữ "nôm" đã hiện hữu rồịi. Và bản văn của tu sĩ này được viết ra ngay trước khi cuốn "Catechismus" xuất bản: "... cuốn Giáo Lý của chúng tôi được viết ra nhằm truyền đạt cho dân chúng nơi ấy. Trong đó các màu nhiệm của chúng ta được trình bày rõ rệt, và những mộng tưởng của các tà phái của họ bị thực sự đánh bạt; toàn tác phẩm chia ra làm tám bài giảng cho chừng đó ngày" (97). Nhà truyền giáo Rhodes dường như có được một bản viết bằng chữ quốc ngữ để sử dụng cho mình, và một bản bằng chữ nôm khác mà người Việt Nam sử dụng.)</p><p></p><p>Còn đối với những gì liên quan đến cuốn từ điển, thì cũng cần có một nhận định tương tự. Trong lời tựa nói với độc giả, cha Rhodes nói rõ rằng ngài đã thực hiện dựa trên căn bản của một cuốn từ điển Việt - Bồ do linh mục Gaspar do Amaral soạn. Nếu người ta không bao giờ tìm ra được văn bả n viết tay của hai tác phẩm có trước, theo ý chúng tôi thì chỉ vì cuốn từ điển được in ra của Rhodes đã hoàn toàn lấy lại phần cơ bản, nên hai cuốn ấy được xem là không cần phải lưu giữ làm gì.</p><p></p><p>Hẳn nhiên những kỳ công sắp xếp của linh mục Avignon này đáng được ca ngợi, ông là người duy nhất đã hoàn tất công trình xuất bản ấy mặc dù phải gặp bao khó khăn mà ta có thể tưởng tượng được. Các vị trước ông, chết sớm, đã không thể làm được việc ấy.</p><p></p><p>(Người Việt Nam dùng kỹ thuật in theo bản khắc trên gỗ để in chữ nôm. Sở truyền giáo Dòng Tên ít nhất đã dùng kỹ thuật in này ở Ðằng Ngoài, trong thời kỳ tương đối họ có đư ợc tự do (98). Nhưng kỹ thuật in này không áp dụng cho mẫu tự la-tinh, và nhất là trong một lãnh vực tế nhị như vậy sự tự do của các nhà truyền giáo rất hạn chế.)</p><p></p><p>Tỉnh Dòng Tên Nhật Bản đã từng sử dụng một máy in chữ rời ở Macao, rồi đem qua Nhật Bản và lại đem về Macao giữa các năm 1588 và 1620 (99). Không hiểu vì lý do gì, máy in đó bị bỏ đi hay bán cho ai đó tại Manila, nên chữ quốc ngữ lại không có dịp in tại đây, như đã từng in chữ Nhật (vần la-tinh và chữ hiragana). Chỉ còn cách là phải in chữ quốc ngữ tại Lisbonne . Nhưng vào thời này, công việc đó rất tế nhị, kéo dài và tốn kém. Một vị pháp đình Bồ Ðào Nha đương thời đã viết:" (Pháp đình thời Trung Cổ) luôn cảnh giác nhằm truy lùng các tà thuyết thật rốt ráo; và việc đó luôn xảy ra như thế tại vương quốc (Bồ Ðào Nha), ở đấy các bản chép phải bị xem lại luôn và phải do nhiều giám sát viên duyệt một cách gắt gao, đó là một trong những lý do tại sao ít sách được xuất bản tại đây ... " (100)</p><p></p><p>Linh mục Rhodes đã thêm vào một bản dịch La ngữ cho phần Việt-Bồ, nơi cuốn từ điển cũng như trong cuốn giáo lý. Ông đã thay thế bản từ vựng Bồ-Việt bằng một bản danh mục La- Việt ngắn, có lẽ là do công trình riêng của ông. Ngoài ra, cuốn từ điển còn cho vào một bản mô tả ngắn về ngữ học và văn phạm tiếng Việt; khi nghiên cứu văn bản này, đối chiếu với một bản khác nhưng tương tự hiện nay, chúng tôi thấy có chứng cớ về một nguồn gốc Bồ Ðào Nha chung đi trước, nguồn tài liệu này cũng đã mất vì việc xuất bản tác phẩm được in cho thấy nó không còn nữa.</p><p></p><p>Chỉ có việc xuất bản và phân tích có phương pháp các nguồn tài liệu mới cho phép ta xác minh, hoặc phê bác giả thiết này cũng như các kết luận tạm thời khác đã từng nêu lên về sự khai sinh ra chữ quốc ngữ. Phần chúng tôi, chúng tôi đã nỗ lực chứng minh rằng ngữ âm Bồ Ðào Nha đã được dùng một cách ưu tiên so với các loại ngữ âm khác với một sự thành công rõ rệt vào thế kỷ XVII để làm phương tiên phân tích cho ngữ âm Việt Nam trong khuôn khổ sáng chế ra hệ thống mẫu tự mới. Chính các nhà văn phạm người Bồ Ðào Nha đã cống hiến phần thiết yếu về các khái niệm căn bản, và các công trình nghiên cứu tiếng Nhật Bản của các tu sĩ Dòng Tên Bồ Ðào Nha khắc đã đem lại phương pháp. Không biết đến các sự kiện này, thì dễ đi đến việc mò mẫm vô ích. Những nghiên cứu giá trị hơn cả về lịch sử tiếng Việt và việc phiên âm tiếng đó qua mẫu tự la- tinh, đặc biệt là các nghiên cứu của André-Georges Haudricourt (102), Kenneth Gregerson (103) hoặc Hoàng Thị Châu (104) mà chúng tôi học hỏi được rất nhiều, đã chỉ có thể hé nhận ra một cách còn lờ mờ về vai trò đặc biệt này của người Bồ Ðào Nha trong việc sáng chế ra chữ quốc ngữ. Ðối với các nhà ngữ học, đây là một dự án còn phải tiếp tục truy cứu; theo chúng tôi tiến trình này đòi hỏi một sự hợp tác đa phương, giữa những nhà chuyên môn ng ười Bồ Ðào Nha cũng như người Việt Nam.</p><p></p><p>Chú thích:</p><p></p><p>91. Vương Lộc (ed.), "Annam dịch ngữ", Hà Nội, Trung Tâm từ điển học, 1995. Ðây là bản từ vựng dùng cho cơ quan hành chánh (nhà Minh) đặc trách giao dịch với các nước nhỏ phải triều cống.</p><p></p><p>92. Relacaõ da gloriosa morte que padeceraõ pella confissaõ da feê de Xpõ nosso Senhor tres cathechistas dos Padres da companhia de JESVS em o Re ino de Cochinchina, nos annos de 1644., e 1645", bản chép tay chưa xuất bản đề năm 1649 tại Goa, ký tên Mathias Da Maya: ARSI, JAP./SIN, 50 a,, tập rời.</p><p></p><p>93. "Batalhas da Companhia de Jesus na sua gloriosa provincia do Japão", bản chép tay năm 1650, xb. Luciano Cordeiro, Lisbonne, Sociedade de Geogra fia/ Imprensa nacional, 1894, tr. 185-198.</p><p></p><p>94. "Noticias summarias das perseguicões da missam de Cochinchina (...)", Lisbonne, Miguel Manescal, 1700, tr. 50-76. Tuy nhiên, bản văn này có nét đặc sắc riêng so với bản chính.</p><p></p><p>95. Alexandre de Rhodes, "Lịch sử về đời sống và cái chết vinh quang của năm cha Dòng Tên, đã chịu khổ ở Nhật Bản. Với ba linh mục triều, năm 1643", Paris, 1653.</p><p></p><p>96. Xem Alexandre de Rhodes, "Divers voyages et missions" (đã dẫn ở chú thích 9), tr. 74.</p><p></p><p>97. Metello Saccano, "Relation des progre`s de la Foy au royaume de la Conchinchine des années 1646 et 1647", Paris Se'bastien et Gabriel Cramoisy, 16 53, tr. 129.</p><p></p><p>98. Xem phúc trình hàng năm của Gaspar do Amaral ngày 31.12.1532: Lisbonne, Biblioteca da Ajuda, collection "Jesuítas na A'sia", cuốn 49/V/31, tr. 219v.</p><p></p><p>99. Xem nghiên cứu về đề tài này của Manuel Cadafaz de Matos, trong phần dẫn nhập của tái bản cuốn đầu in năm 1588 tại Ma Cao: "Christiani pueri institutio, adolescentiaeque perfugium" của Ioannes Bo nifacio (Macao, Instituto Cultural de Macau, 1988).</p><p></p><p>100. Francisco de Santo Agostinho Macedo, "Filipica Portuguesa contra la in vectiva castellana (1645), trích dẫn bởi Charles Ralph Boxer, "The Church Militant and Iberian Expansion 1440^1770", Baltimore/Londres, Johns Hopki ns University Press, (1978), tr. 91.</p><p></p><p>101. Về vấn đề này xin xem nghiên cứu của chúng tôị "L'oeuvre de quelques pionniers portugais dans le domaine de la linguistique vietnam ienne jusqú en 1650" (xem chú thích 53).</p><p></p><p>102. André Georges Haudricourt, "Origine des particularite's de l'alphabet vietnamien", trong "Bulletin Dân Việt Nam", đã nói ở chú thích 8.</p><p></p><p>103. Kenneth J. Gregerson, "A study of Middle Vietnamese Phonology", trong "Bulletin de la Société des Etudes Indochinoises", đợt mới 44/2. 1969 , tr. 131-193.</p><p></p><p>104. Hoàng Thị Châu, "Tiếng Việt trên các miền đất nước" (Phương ngữ học), Hà Nội, xb. Khoa Học Xã Hội, 1989.</p><p></p><p>6- Từ Francisco de Pina đến Ðệ Tam Thiên Niên: Lối viết bằng mẫu tự la-tinh dùng để làm gì?</p><p></p><p>Trái ngược với lối suy nghĩ theo thành kiến, phương tiện chu yển đạt dùng cho việc truyền bá Ki-tô giáo, được các tu sĩ Dòng Tên dưới sự bảo trợ của Bồ Ðào Nha sử dụng khi tiếp cận với người Việt Nam, không phải là chữ viết theo mẫu tự la-tinh. Về điểm này, người Âu Châu cũng bị lầm do sự xuất hiện của cuốn giáo lý và cuốn từ điển. Những nhà truyền giáo tại chỗ đã chọn chữ "nôm", nghĩa là một loại chữ Việt Nam cổ xưa dựa theo chữ Hán (105). Chữ nôm có điểm lợi là tương đối được giới ưu tú của xã hội Việt Nam biết đến - tức là các người có học - nhưng bất tiện là đa số các nhà truyền giáo lại không đọc nổi. Và sự cân nhắc trong quyết định của họ là làm sao tránh việc đẩy cộng đồng Ki-tô giáo vừa mới được khai sinh đi ra khỏi gốc rễ truyền thống của Việt Nam trong bối cảnh của một nền văn hóa có nét Trung Hoa này; hơn nữa nếu làm như thế, thì còn hoàn toàn đi ngược lại những nguyên tắc và phương pháp của các tu sĩ Dòng Tên Bồ Ðào Nha.</p><p></p><p>(Văn hóa Việt Nam có hai nguồn gốc chính hỗ tương cho nhau: một phần là các truyền thống của các sắc dân địa phương và nền tảng của tiếng nói Việt Nam, không thuộc vào nhóm Trung Hoa; một phần khác là văn hóa Trung Hoa, tồn trữ và lưu hành nơi ngôn ngữ của nó qua chữ viết và qua nhiều hình thái vay mượn khác nhau. Chữ nôm có một vị trí đặc biệt trong bối cảnh này như bản lề giữa hai cánh cửa. Những chữ viết lấy từ chữ viết Trung Hoa (hán tự) và tạo được uy thế nhờ nguồn gốc này; nhưng chúng lại đọc thành tiếng Việt với một nghĩa đặc biệt của tiếng Việt ấy; nên chúng đúng là một quốc tự, nghĩa là chữ viết quốc gia. Những chữ viết "nôm" lại có thể trực tiếp mượn các nguồn chữ hán một cách thoải mái, nên mãi phát triển rộng và sâu. Chữ quốc ngữ không bao giờ có được sức tác dụng có tính cách tượng trưng đó.)</p><p></p><p>Vấn đề chữ viết Việt Nam có vẻ rối rắm vì nhiều tác giả tây phương lẫn lộn vấn đề tiếng nói và chữ viết (106). Thật thế, các tu sĩ Dòng Tên buộc phải chọn lựa giữa hai thứ "tiếng nói": thay vì Trung Hoa (là tiếng chính thức, tiếng dùng giáo dục lớp người có học), thì họ thích tiếng Việt Nam (tiếng nói của dân chúng). Trong những hoàn cảnh hạn chế như đã nêu, họ cũng áp dụng "chữ viết" truyền thống (chữ nôm) của tiếng nói dân gian ấy; đồng thời họ sáng tác ra một vần la-tinh áp dụng vào tiếng nói này (tức là chữ quốc ngữ) để dùng riêng trong công việc của họ. Việc sử dụng tiếng hán nhiều hay ít trong ngôn ngữ Việt Nam không liên quan gì đến chữ viết. Nhưng cần xác định thêm rằng đường lối sử dụng ngôn ngữ như thế là chính sách chung của các nhà truyền giáo; không có gì cho phép ta nêu lên rằng trong lãnh vực này, Alexand re de Rhodes có một lập trường độc đáo cả.</p><p></p><p>Nhưng dẫu sao, chúng tôi phải nêu lên rằng lối phê bình của ông Lê Thành Khôi, một nhà viết sử Việt Nam, về việc này là lầm lẫn, ông ấy viết: "Sáng chế (chữ quốc ngữ) trước hết phát sinh do một mục đích truyền đạo. Thật vậy, trở ngại lớn cho việc truyền đạo Ki-tô phát xuất từ khung cảnh giáo dục phổ quát của Khổng học. Ðể đi vào tâm thức quần chúng, các nhà truyền giáo phải chống lại văn hóa Trung Hoa và chữ viết tiêu biểu cho nền văn hóa đó. Họ cố trao cho dân chúng phương tiện để quẳng bỏ chữ viết đang thịnh hành, và họ đã đạt được ý định khi bày ra hệ thống chuyển âm tiếng Việt nhờ mẫu tự la-tinh, kèm theo những âm tiêu để có được những dấu thăng trầm khác nhau. Các người trở lại đạo dùng chữ viết quốc ngữ không còn đọc tiếng Hán nữa; tiếng Hán này lại được dùng trong các văn kiện nhà nước và phần lớn sinh hoạt văn chương. Ta thấy đó là tầm mức chính trị của sự kiện, đã làm cho người công giáo Việt Nam trở thành một nhóm riêng trong cộng đồng quốc gia trong một thời gian dài."(102) Một lối phê bình như thế phản ảnh một sự quên lãng gia trọng (bên cạnh nhiều yếu tố khác nữa) về nỗ lực văn hóa rất tích cực do chính những vị tu sĩ Dòng Tên này của đoàn truyền giáo của Trung Hoa, trong đường hướng của Matteo Ricci (1610). Lối phê bình đó không đứng vững trước những sự kiện, đặc biệt là khối lượng sáng tác và phát hành của văn chương Ki-tô giáo bằng chữ nôm, khởi đầu ngay từ các thời đầu tiên của công việc truyền giáo. Khi nhà truyền giáo Kerónimo Mayorica qua đời năm 1659, bề trên đã viết một loại điếu văn và nhắc đến "thư viện phong phú gồm 48 bộ sách mà ngài đã viết hoặc dịch ra tiếng nói và ra 'chữ viết' xứ ấy" (108), Và mãi cho đến ngay giữa thế kỷ 20, dưới chế độ thực dân Pháp, các nhà xuất bản công giáo Việt Nam vẫn phổ biến cho Ki-tô hữu nhiều sách bằng chữ nôm và chữ hán (109).</p><p></p><p>Ngoài ra, trong giai đoạn đầu, rất ít Ki-tô hữu hiểu được lối chữ Việt theo vần la-tinh mà các vị thừa sai có thể chỉ cho họ, vì chữ viết này hoàn toàn xa lạ. Như thế, tại sao lúc bấy giờ Francisco de Pina và các người kế tiếp ông lại phí nhiều công sức và tài trí để sáng tác rồi hoàn chỉnh lối viết theo mẫu tự la tinh, tức là chữ quốc ngữ ấy? Sự kiện đã xảy ra vì chữ quốc ngữ có mục đích trước hết là để dạy cho các nhà truyền giáo và giúp họ sử dụng. Nó cống hiến cho các vị này một bước trung gian rất thuận lợi để tiếp cận với lối nói của người Việt; ngoài ra nó còn đem lại một phương tiện trao đổi về mặt học hỏi và giao tiếp bằng chữ viết với những người Việt lãnh đạo chính yếu của cộng đoàn, mà người ta buộc phải học lối viết mới này trong mục đích hạn chế đó (110). Tình trạng phổ biến rất hạn chế của chữ quốc ngữ như thếm sẽ biến đổi một cách chậm chạp vào giữa thế kỷ XVIIII. Chỉ đến lúc này, chữ viết theo mẫu tự la-tinh mới bắt đầu lan tràn rộng rãi trong cộng đồng người Ki-tô giáo; đây là vì những lý do an ninh trước một chế độ cấm đạo (111) và cũng có thể vì việc sử dụng rất tiện lợi.</p><p></p><p>Viễn tượng mới đó kéo theo hậu quả không thể tránh khỏi đó là sự tiến hóa dần dần chữ quốc ngữ. Mục đích chính lúc đầu đòi hỏi phải ưu tiên cho khía cạnh thuần túy ngữ âm, nghĩa là cho việc mô tả cách phát âm, nhằm giúp cho người n goại quốc mới bắt đầu học đọc tiếng Việt cho thật đúng. Khi việc sử dụng lối viết này được phổ biến hơn nơi những người nói tiếng Việt cho thật đúng. Khi việc sử dụng lối viết này được phổ biến hơn nơi những người nói tiếng Việt như tiếng mẹ đẻ, thì người ta lại ưu tiên khía cạnh âm vị học (112), thiết thực cho họ hơn.</p><p></p><p>(Trong khuôn khổ của bản văn này, chúng tôi xin chỉ nêu lên một thí dụ. Trong lối viết quốc ngữ, mà cuốn từ điển của Al exandre de Rhodes cho ta thấy, các phụ âm mũi cuối mặt lưỡi vòm trước (consonnes nasales finales dorso-prépalatale), mặt lưỡi-vòm mềm (dorso- ve'laire) và môi vòm mềm (labio- ve'laire) được diễn tả bằng ba lối chép thành chữ khác nhau, như sau: "nh" (chẳng hạn "lành"); "ng" (chẳng hạn "làng"), và một dấu gọi là dấu "apex", lấy từ dấu "til" (tilde) chữ viết Bồ Ðào Nha "~", đặt trên đầu chữ ghi nguyên âm (chẳng hạn "lão", ngày nay viết là "lòng"). Những lối ghi chép đánh dấu đó phản ánh cách đọc chuẩn của vùng Hà Nội, đúng như một người Bồ Ðào Nha cố nghe và phân tích được dựa vào hệ thống ghi chép mà người ấy quen thuộc. Trong lối viết nơi cuốn từ điển của Pigneau de Be'haine và Taberd (xem chú thích 114), hai mẫu phụ âm sau cùng nêu lên trên đây lại cho phép y như nhau là "ng", bởi lẽ chúng không đối chọi gì nhau, sự xuất lộ của chúng lệ thuộc vào nguyên âm đi trước. Việc phân biệt hai mẫu phụ âm này đối với một người gốc Việt Nam là một việc thừa. Người ta hầu như đã đơn giản hóa đến mức tối da khi chung lộn hai ký hiệu "nh" và "ng": trong hệ thống tiếng Việt, không cần đến sự phân biệt này nếu lưu ý đến các nguyên âm /a/ và /oe/ (113).</p><p></p><p>Cần lưu ý rằng đây không hề có việc sửa chữa những sai lầm có thể có về việc ghi chép, nhưng nhằm đơn giản hóa các luật của nó (114). Nhưng thực sự thì đổi thay không nhiều lắm, nên ngày nay chỉ cần học vài phút thì độc giả Việt Nam có thể đi vào toàn bộ các bản văn bằng chữ quốc ngữ viết vào thế kỷ XVIII.</p><p></p><p>Vì chữ Nôm và chữ Hán cũng rất khó học đối với giới cai trị của Pháp, không kém gì trường hợp của các vị truyền giáo trước đây, nên chế độ thực dân đã tha thiết ngay với lối chữ viết theo mẫu tự la tinh này; sau này họ đã cho nó một qui chế chính thức, buộc phải sử dụng trong tất cả các dịch vụ hành chánh (115). Và như vậy, vào đầu thế kỷ XX, chữ viết theo mẫu tự la-tinh do người Bồ Ðào Nha gợi ra trước đây bắt đầu lan tràn ra ngoài cộng đồng Ki-tô giáo. Nho sĩ yêu nước trong xứ, rất đông, cương quyết chống lại sự mới mẻ này, nại lý do bảo vệ truyền thống và bản chất Việt Nam. Nhưng dần dần, vì nhận thấy hiệu năng thiết thực của nó, họ lại cố học chữ viết lối mới và sử dụng (116). Sự thành công của chữ quốc ngữ không phải là kết quả của sự áp đặt do luật lệ của bạo quyền. Ai cũng thấy kháng cự chống lại chữ viết mới mẻ này chẳng lợi ích gì; tương lai xã hội lại đòi hỏi phải canh tân cơ chế xã hội và đẩy mạnh giáo dục quần chúng. Dường như sau những thất bại của các phong trào yêu nước vào năm 1930, những đối kháng về chữ quốc ngữ không còn nữa; giới ưu tú lãnh đạo đã rút tỉa bài học qua các biến cố đau thương này. Vậy chữ nôm từ lâu chỉ dành cho một thiểu số nho sĩ, giới nho quan truyền thống. Chỉ có chữ quốc ngữ mới cống hiến được phương tiện kiến hiệu nhằm thoát ra khỏi tình trạng này và cổ võ cho lý tưởng thoáng hé lộ (117).</p><p></p><p>Những xác tín như thế trở thành phổ biến khi nhìn về một Việt Nam thời hậu thực dân. Và chữ nôm bị xóa dần đi đế n độ biến mất hẳn; chữ viết duy nhất của tất cả người Việt Nam: "Quốc ngữ". Mọi người dùng chữ quốc ngữ, và chữ viết đó đã chứng thực rằng nó có thể áp dụng một cách dễ dàng và hữu hiệu để đi vào tất cả các lãnh vực của kiến thức (118). Ngoài ra, chính chữ quốc ngữ đã cống hiến nhiều hơn cả trong việc bảo tồn sự thống nhất ngôn ngữ, ngay cả trong cuộc chiến gay gắt giữa đôi bên: nó đẩy lui được các khuynh hướng chủ trương phân cách, một cách hữu hiệu hơn điều người ta có thể mong ước thực hiện hoặc nơi một lối chữ viết áp dụng âm vị học một cách rốt ráo do một số người chủ trương (119).</p><p></p><p>Làm sao quên được công trình vĩ đại mà các vị tiên phong của công cuộc truyền giáo tại Việt Nam đã thực hiện? Những điều mà các vị truyền giáo Dòng Tên đến từ Bồ Ðào Nha, do Bồ Ðào Nha gửi đi, đã thực hiện trong phạm vi ngữ học kỳ cùng là những công trình có tính cách quyết định cho tương lai văn hóa Việt Nam đến độ ngày nay tương lai đó không thể qu an niệm được nếu không có chữ viết theo mẫu tự la-tinh. Tấm bia tưởng niệm đã được dựng lên lại vào cuối năm 1995 ở thư viện quốc gia tại Hà Nội, và chỉ tôn vinh một mình Al exandre de Rhodes; đó là một dấu hiệu cho thấy sự đóng góp văn hóa đặc biệt của người Bồ Ðào Nha bị quên lảng, ngay cả trong giới khoa học. Nhưng người ta cũng thấy nơi tấm bia kỷ niệm đó một dấu chỉ chờ đợi, một dấu móc đầu tiên nhằm nối lại cuộc đối thoại văn hóa với Tây phương về quá khứ hung và về tương lai. Trong khuôn khổ đó, nước Pháp và các nước nói tiếng Pháp chắc chắn có đóng một vai trò; nhưng đáng tiếc là các nước này đã không hợp tác với các quốc gia tây phương khác nữa để cùng thực hiện cuộc đối thoại nêu trên, vì kinh nghiệm về Á châu của họ xa xưa hơn, và họ lại không có nhược điểm của một quá khứ thực dân còn gây ấn tượng đau thương nơi ý thức quốc gia của người Việt Nam</p><p></p><p>Chú thích:</p><p></p><p>105. Một bằng chứng cho thấy qua Phạm Xuân Hy, "Ba bản Kinh Tin Kính bằng chữ Nôm", trong Trần Anh Dũng (dir.), "Hàng giáo phẩm Công giáo Việt Nam 1960-1995", Paris, tự xb., 1996, tr. 487-503. Ngoài ra, xem bài dẫn nhập của Vũ Văn Kính, "Ðất nước 4000 năm: Bảng tra chữ Nôm thế kỷ XVII " (Qua tác phẩm của Maiorica) NXB. TP. HCM, 1992.</p><p></p><p>Về chữ Nôm, có nhiều thư mục bằng tiếng Việt, chúng ta chỉ nêu lên đây, chẳng hạn Trần Nghĩa, "Dẫn nhập tổng quát" , trong "Di sản Hán Nôm Việt Nam thư mục đề yếu", do Trần Nghĩa và Francois Gros, Hà Nội, Ed. Sciences Sociales, 1993, tập I, tr. 15-47; Nguyễn Ðình Hoà, "Chữ Nôm, the demotic system of writing in Vietnam", trong "Journal of the American Oriental Society, 1959; Bửu Cầm, "Nguồn gốc chữ Nôm" trong "Văn hóa nguyệt san" 50, 1960, 347-355; Bu +?u Cầm, "Dẫn nhập nghiên cứu chữ Nôm", Sài Gòn, 1962.</p><p></p><p>106. Chẳng hạn xem Stephen Neil, "A history of Christian missions" (đa nêu ở chú thích 84): "Furthemore, he (Rhodes) rejected the tendency of the scholars to a high style of writing, with many words and phrases borrowe d from Chinese and written in Chinese characters; he set himself to develop the "quoc ngu", the ordinay language of the people, and to make it a fit ins trument for the expression of Christian truth" (tr. 196-197).</p><p></p><p>107. Lê Thành Khôi, "Histoire du Viêt Nam des origines à 1858", Paris, Sudestasie, 1982, tr. 290.</p><p></p><p>108. "Uma copiosa liuraria de 48 volumes, que compos, ou uerteo nesta lingo a, e letra natiua": Francisco Rangel, "Annua du Tonkin 1659", ARSI, JAP.-SIN. 64, tr. 366v. Giorolamo Maiorica là một tu sĩ Dòng Tên người Ý truyền giáo tại Ðàng Ngoàị Xem Hoàng Xuân Hãn, "Girol amo Majorica. Ses oeuvres en langue vietnamienne conservées à la Bibliothe `que Nationale de Paris", trong "Archivum Historicum Societatis Iesu", 22, 1 953, tr. 203-214.</p><p></p><p>109. Chẳng hạn xem các danh mục của các nhà in truyền giáo ở Q ui Nhơn 1920, Kẻ Sở 1920 và 1925, Tân Ðịnh 1922, Hà Nội 1926, Phu ' Nhai 1927. Chúng ta có thể ghi nhận việc tái bản một truyện thánh rất xưa bằng chữ Nôm về tháng Anton de Padoua (hoặc đúng hơn Anton Lisbonne), một vị thánh Bồ Ðào Nha rất được dân chúng mến mộ: "Chuyện ông thánh Anton hay làm phép lạ", chuyển ngữ do Nguyễn Hưng (Xb, TP HCM do tác giả) 1995. Việc phổ biến tập sách nhỏ này, dấu tích của một thời đã qua. Vì từ nay phải chuyển ngữ từ chữ Nôm qua quốc ngữ, biểu hiện một nỗ lực đối thoại văn hóa mà những nhà truyền giáo đầu tiên và các tín hữu đầu tiên thực hiện trong cộng đồng công giáo Việt Nam, xuyên qua các thế kỷ.</p><p></p><p>110. Xem những suy nghĩ của Francisco de Pina về vấn đề này tro ng bức thư đã dẫn (Biblioteca da Ajuda, cuốn 49/V/7, tr. 413 416). Nhưng thủ bút đầu tiên do người Việt Nam viết bằng chữ quốc ngữ có từ 1659: đó là những bức thư gửi cho tu sĩ Dòng Tên Giovanni Filippo Marini: ARSI, JAP.-SIN, 81, tr. 245-259.</p><p></p><p>111. Xem André Marillier, "Nos pe`res dans la foị Notes sur le clergé ca tholique du Tonkin de 1666 à 1765", tập 3, Paris, Eglise d' Asie, 1995, t r. 170-172. Trong văn khố của Hội Truyền Giáo Paris, tác giả đã nêu lên một cách hệ thống các ám chỉ nói đến việc sử dụng tiếng nói và hai cách viết tiếng nói này; những kết luận rút ra hoàn toàn trùng hợp với những gì nêu lên ở đây. Sự kiện đó đòi hỏi phải xét lại những khẳng quyết vội vàng; chúng tôi nêu lên ví dụ qua một quan điểm rất ôn hoà, đó là quan điểm của Jean Comby: Alexandre de Rhodes không phải là người sáng chế chữ quốc ngữ, nhưng ngài đã "cống hiến việc phổ cập hoá chữ viết đó." ("Deux mille ans d' e'vange'lisation", Tournai, Desclée, 1992, tr. 165-166). Nói đến việc phổ cập hoá vào thế kỷ 17 là hoàn toàn phản niên kỷ. Cũng như xác quyết sau đây của Henri Bernard Mai^tre: "Alexandre de Rhodes phải được xem như nhà truyền bá chính về sáng chế phi thường này". (Le P. De Rhodes et les Missions d' Indochine 1615-1645", trong Simon Delacoix (dir.), ("Histoire universelle des Missions catholiques", tập II, Paris, Grund,, ( 1957), tr. 53-69, tr. 57. Kỳ thực, các tác phẩm của Rhodes được in ra rất ít được "phổ biến".</p><p></p><p>112. Ở đây chúng tôi không dùng các ý niệm "ngữ âm" và "âm vị" một cách chính xác như các nhà ngữ học thường sử dụng. Ngoài ra, trong trường hợp chữ quốc ngữ, các khuynh hướng đề cập vấn đề không có gì tuyệt đốị Việc ghi chép theo ngữ âm muốn mô tả hết sức trung thực các hiện tượng cấu âm và âm học, nghĩa là cái gì thực sự được đọc lên và được nghe. Còn âm vị học là một khoa học mới có đây, nhằm nghiên cứu cách phát âm dưới góc độ của vai trò mà các cách phát âm đã thực hiện (các đối vi....,) dựa vào những ý niệm về hệ thống và sự thích đáng trên bình diện truyền thông.</p><p></p><p>113. Thật vậy, các nhà ngữ học hiện nay cho rằng ba phụ âm mũi cuối ở phần sau hết của một chữ nêu lên trên đây không chống kháng nhau mà chỉ là một siêu âm vị, mà lối phát âm thay đổi tuỳ thuộc vào nguyên âm đi trước, (...)</p><p></p><p>114. Ðáng lưu ý khi nhận ra được rõ ràng một sự tiến hoá ngay nơi một người sử dụng lối chữ này. Ta thấy cũng một người ký tên Việt Giacobe Nguyễn ghi lại những lời kai của các nhân chứng trong vụ án phong thánh cho những người Tây Ban Nha tử đạo đầu tiên tại Việt Nam trong năm 1746 và trong năm 1768. Giữa hai năm này có những quy ước chính tả đổi mới (Arch ivo Segreto Vaticano, kho "Riti", số 3014 và 3013). Nhưng nhân chứng rõ rệt nhất về những đổi thay này là cuốn "Dictionarium Anna miticum Latinum" de Pierre Pigneau de Be'haine, bản viết tay hoàn thành năm 1772, xb. sau đó bởi Jean Louis Taberd: "Dictionnarium Annamitico- Latinum", Serampore (Inde), 1838. Trái lại các bản văn của Philiph do Rosa'rio Bỉnh vẫn giữ lại những quy ước cũ; vị tu sĩ Dòng Tên người Việt này sống ở Lisbonne từ 1796 cho đến khi chết vào năm 1832, là người chủ trương bênh vực quyền bảo trợ của Bồ Ðào Nha trong các công tác truyền giáo tại Việt Nam, và không muốn ảnh hưởng của các vị truyền giáo người Pháp (xem Biblioteca Apostolica Vaticana, kho "Codici Borgiani Tonchinesi", số 1 đến 23).</p><p></p><p>115. Xem các minh xác trên đây ở chú thích 3.</p><p></p><p>116. Lợi ích của chữ quốc ngữ ngay từ 1907-1908 đã được phong trào văn chương ái quốc "Ðông Kinh Nghĩa Thục" đề xướng, Tuyên ngôn của phong trào này, tức khắc bị chính quyền thực dân đàn áp; tuyên ngôn đó cũng nói đến việc sáng chế chữ quốc ngữ là do "các linh mục Bồ Ðào Nha", nhưng không đưa ra lý chứng rõ rệt. Chúng tôi trích dẫn theo "Văn tuyển Văn Học Việt Nam 1858-1930", Hà Nội, xb. Giáo Dục 1981, tr.195. Cũng xem thêm Nguyễn Khắc Viện (dir.), "Anthologie de la litte'rature vietna mienne", tập III, Hà Nội, Ed. en Langues Étrange`res, 1975, tr. 25 30, và 248.</p><p></p><p>117. Chẳng hạn xem Lê Thành Khôi "Introduction à l' histoire et à la culture du Viêt Nam", trong "La jeune et la rouge", Paris, Ecole Polytech nique, số 525, 5.1997 (tr. 5-13): trang 13. Trong bài báo này, nhà sử học dường như đã gia giảm lối phê phán của mình (xem lại chú thích 107).</p><p></p><p>118. Ðây là điển hình về việc phục hồi danh dự cho Rhodes, qua một bản văn có tính cách quyết định, mà chúng ta có lần nói đến: "Together with European missionaries he set to romanize the scr ipt of Vietnam, using the Roman alphabet to record the Vietnam language. It took the group nearly half a century to complete this collective work in whi ch Alexandre de Rhodes played the main rolẹ Not until two centuries later d id quốc ngữ (national script) become the popular written language of Vie tnam and efficient vehicle in the modernization of the Vietnamese society... Alexandre de Rhodes's services to Vietnam are immeasurable... It is time to correct the erromeous appraisal... and to do him justice in the light of truth and fairness..." ("Let's do justice to Alexandre de Rhodes"; "Vietnam Social Sciences" (Hà Nội), 40, 2/1994. tr. 88-89.) Theo quan điểm của chúng tôi, những gì nêu lên ở đây để tôn vinh Alexandre de Rhodes, thì hẳn nhiên cũng áp dụng cho các nhà truyền giáo người Bồ Ðào Nha.</p><p></p><p></p><p>- Hết -</p><p>Trích từ nguồn BBC</p></blockquote><p></p>
[QUOTE="Hide Nguyễn, post: 16975, member: 6"] 4- Cuộc tranh luận về lịch sử được nêu lên lại như thế nào? Cũng vào năm 1645, thời điểm tổ chức tại Macao cuộc bàn luận ngữ học với nhiều ý kiến mâu thuẫn như đã nêu lên, thì Alexandre de Rhodes lại được vị bề trên Manuel de Azevedo ủy thác một sứ mệnh tại Roma (81). Chúng tôi sẽ không đề cập ở đây những khía cạnh ngoại giaP của chuyến đo, cũng như hậu quả của chuyến đi ấy đối với các xứ truyền giáo tại Viễn Ðông (82): những hậu quả này rất đau khổ cho Bồ Ðào Nha, nhưng không thể quy lỗi cho linh mục Rhodes (83). Chúng tôi chỉ ghi lại sự thành công không thể chối cãi và cũng không ai đặt thành vấn đề: việc xuất bản tại Roma cuốn từ điển và cuốn giáo lý mà nhà truyền giáo ấy mang theo trong hành lý của mình, cũng như một số tác phẩm lịch sử khác về công cuộc truyền giáo tại Việt Nam. Dựa vào những tác phẩm được xuất bản này mà nhân vật Alexandre de Rhodes bắt đầu trở thành truyền thuyết, hầu như thần thoại đối với lịch sử của các công cuộc truyền giáo tại Việt Nam cũng như đối với lịch sử tiếng Việt (84). Chúng tôi thấy đây là một sự sai lầm về lịch sử. Hẳn nhiên, Rhodes là một nhà truyền giáo lớn, nhưng không phải là một siêu nhân: khẩn thiết phải trả lại thực trạng con người cho con người ấy, và đặt lại công trạng này trong bối cảnh lịch sử thật của nó. Ngoài những vấn đề liên quan đến nỗ lực xây dựng cho ngữ học Việt Nam, mà chúng ta sẽ bàn thảo, chúng ta nêu llên đây một vấn đề khác nữa. Ki-tô giáo tại Việt nam, mặc dù đã được du nhập vào từ ba thế kỷ rưỡi, vẫn còn tiếp tục chịu đựng sự tẩy chay thực sự trong xã hộị Nhiều người gièm pha trách cứ rằng Ki-tô giáo đã được nhập cảng đến trong mớ hành lý của giới thực dân người Pháp, mà hẳn Alexandre de Rhodes là kẻ mở đường (85). Việc phục hồi danh dự gần đây cho vị này từ phía nhà cầm quyền không gột bỏ hết truyền thuyết xấu xa đó, đặc biệt trong sinh hoạt hải ngoại của người Việt Nam (86). Thiết định lại sự thật lịch sử về những nguồn gốc cộng đồng công giáo sẽ nêu lên được một cách hiển nhiên những thực trạng hoàn toàn khác: chính trong khuôn khổ của một sự đối thoại và trao đổi với nhau, một cách hoàn toàn bình thản, giữa người Bồ Ðào Nha và người Việt Nam mà các nhà truyền giáo, những con người tự do và chân thành, đã thành công trong việc làm cho một phần dân chúng nghe theo mình. Trong bầu không khí thông cảm sâu xa, họ đã hoà mình vào ngôn ngữ và tập tục của những người đối thoại với họ; những người nghe họ đã chọn lựa một cách tự do, và gia nhập vào đức tin mới, được biểu lộ ra trong chính ngôn ngữ của mình. Trong khung cảnh như thế, linh mục Rhodes, thần dân của Giáo Hoàng, đã thi hành tác vụ của ông y như các huynh đệ cùng dòng người Bồ Ðào Nha, Ý hoặc Nhật Bản. Tìm lại sự thật lịch sử, đằng sau huyền thoại được tô vẽ trong cái nhìn theo lối Pháp, là một nỗ lực đặc biệt gian nan và bạc bẽo. Nhưng để thực hiện công tác này, sử gia nghiên cứu về công cuộc truyền giáo tại Việt Nam lại có được những nguồn tài liệu phong phú. Ðây không phải là những tài liệu chính thức, dẫu thuộc lĩnh vực chính trị hay kinh tế; những tài liệu như thế đã từng được biết đến và phần lớn đã được xuất bản và khai thác. Hơn nữa, chẳng bao giờ có thuộc địa Bồ Ðào Nha thực sự tại Việt Nam và những trao đổi chính trọ lại rất ít: hiệp ước duy nhất là thỏa ước nhất thời Bô- Việt năm 1786 (87). Loại tài liệu ấy chỉ giúp xác định bối cảnh xã hội, kinh tế của công cuộc truyền giáo, chớ không xác định được nội dung của nó. Phần thiết yếu của các nguồn tài liệu gồm các bản chép tay do các tu sĩ, phần lớn lại chưa xuất bản. Nói chung, thì ta nên lưu ý là những tài liệu chưa xuất bản có giá trị nghiên cứu hơn những bản đã được xuất bản, nếu chúng có thể tìm được, vì thời đó việc xuất bản trước hết nhằm đào tạo những tâm hồn đạo đức của Âu châu (88) và do đó có thể được gọt giũa cho ăn khớp với mục đích này. Những bản viết tay, đặc biệt là những bản báo cáo chính thức và trao đổi thư từ riêng tư giữa các tu sĩ Dòng Tên, phần lớn được lưu trữ ở Lisbonne, ở Madrid và nhất là ở Roma, rải rác trong nhiều bộ sưu tập (89). Chúng được viết bằng tiếng Bồ Ðào Nha, một số ít bằng tiếng La-tinh, và đôi khi bằng tiếng Ý. Chính nội dung của chúng sẽ cho phép ta thiết lập lại niên kỷ của công cuộc truyền giáo một các chi tiết và thấy rõ vai trò của mỗi một tác nhân trong công cuộc truyền giáo này một cách đúng mức. Cũng nhờ việc làm này, các tiến bộ và những bất ngờ của sinh hoạt ngữ học và văn hóa của các tu sĩ Dòng Tên Bồ Ðào Nha ở Việt Nam được đưa ra ánh sáng, với tên tuổi của những vị khởi xướng đầu tiên. Việc xuất bản và khai thác các nguồn tài liệu này là một công trình còn mở ngỏ. Ðối với chúng tôi, chúng tôi đã ưu tiên thực hiện việc tra cứu mục lục các tài liệu liên quan đến nửa thế kỷ đầu tiên, tức là nửa thế kỷ đã từng chứng kiến phần thiết yếu của công trình sáng chế (1615-1664). Nhưng việc thẩm định lại giá trị toàn bộ sẽ phải là một công trình tập thể dài hơi, đòi hỏi nhiều yếu tố, trong đó có việc nối kết lại những mối liên lạc hợp tác văn hóa giữa người Bồ Ðào Nha và người Việt Nam. Cần có một thế hệ các nhà nghiên cứu người Việt trong tuơng lai có thể tham gia tích cực vào công tác này (90). Một mặt họ sẽ không chen chân vào những tranh cãi nội bộ giữa các người Âu châu, điều mà họ không dính dáng gì vào; mặt khác chỉ có sự đóng góp của chính họ mới truy cứu được thấu đáo những mối liên hệ văn hóa qua những gì đã từng được thực hiện trong cuộc gặp gỡ lịch sử vào thế kỷ XVIII. Chú thích: 81. Nhiều khía cạnh của chuyến đi này chỉ được biết qua bản tường thuật của Rhodes. Manuel de Azevedo, sinh ở Viseu (Bồ Ðào Nha) năm 1581, chết tại Ma Cao năm 1650. Với tư cách là "kinh lược các vùng truyền giáo của Nhật Bản và Trung Hoa" (1644-1650), ngài là thẩm quyền cao nhất của hội Dòng Tên ở Viễn Ðông. Ngài được một vị khác người Bồ Ðào Nha phụ tá, João Cabral, bấy giờ là viện trưởng học viện và làm phó giám tỉnh (1645-1646). Sinh ở Celorico da Beira (Bồ Ðào Nha) năm 1598, Cabral làm kinh lược ở Ðàng Ngoài trong các năm 1647-1648. Chính ngài chủ trì cuộc họp ở Ma Cao (1645) mà chúng ta đã nói đến. Ngài chết tại Goa năm 1669. 82. Ngoài các tác phẩm của Henri Chappouille và António da Silva Re go trích dẫn ở trên (chú thíc 40), về vấn đề này có thể nhắc đến Ignatio Ting Pong Lee, "La actitud de la sagrada congregación frente al Regio Patronato", trong Joseph Metzler, (ed.). "Sacroe Congregatio nis de Propaganda Fide memoria rerum. 350 ans au service des missions 1622 1 972", tập I/1, Roma/Fribourg em Brisgau/Vienne. Herder, 1971, tr. 353 438. 83. Kể từ năm 1654, nghĩa là 5 năm trước khi chấm dứt các cuộc thảo luận ấy, liên quan đến tương lai công cuộc truyền giáo tại Việt Nam vượt ra khỏi khả năng của Rhodes: việc bổ nhiệm các giám mục cho Việt Nam, "công việc" được uỷ thác cho ngài lúc đầu khi rời khỏi Mac Cao, từ nay do các cơ quan thẩm quyền tại Roma xử lý. Chính ngài lại được gửi đi Ba Tư. Xem Lucien Campeau, "Le voyages du Pe`re Alexandre de Rhodes en France 1653-1654 ", trong "Archivum Historicum Societatis Iesu 48", 1979, tr. 65-85, với những tài liệu các văn khố đã trích dẫn. 84. Chẳng hạn Stephen Neill, "A history of Christian missions" (Harmonds worth Middlesex (GB), Penguin, 1979). Tác giả quả quyết: "The hero of this epic of conversion was Alexandre de Rhodes" (tr. 195). Nghĩ rằng Rhodes là người duy nhất thực hiện lối viết quốc ngữ, Neill viết tiếp: "The second gift of Rhodes to the Church was the reduction of the Vietnamese languages, a remakably accurate ear; Vietnamese is a tonal language, and the accurate representation of these tones is extraordinarily difficult ..." (tr. 196. Hẳn là phải đặt lại vấn đề, ngoài ra ở đây, tác giả diễn tả như một lối giả thiết, khi không trích dẫn được tài liệu nào chứng minh cho xác quyết của mình. Tiểu sử của Rhodes được viết ra gần đây hơn cả là do Jean La Couture ("Un Avignonnais dans la rizie`re", trong "Je'suites. Une multibi ographie", tập I, "Les conque'rants", Paris, Seuil, 1991, tr. 297 324), lới viết khá "khéo léo" vừa nêu lên nhân vật này cũng như cô ng việc truyền giáo của con người Avignon ấy trong khung cảnh như "huyền thoại", vừa cố đáp ứng những yêu sách của lối phê bình "lịch sử" của các tác giả tân kỳ. Ðáng tiếc là có quá nhiều chi tiết sai lầm làm cho bản văn mất đi giá trị lịch sử chính yếu của nó. Một công trình gần đây nhất khai triển lịch sử công cuộc truyền bá Ki-tô giáo tại Việt Nam trong tiền bán thế kỷ 17 do tu sĩ Dòng Tên Philippe Lécrivain: "La fascin ation de l' Extrême Orient, ou le re^ve interrompu" (L' a^ge de raison", 16 20/30-1750, tập 9 trong bộ "L' histoire du chirstianisme des origines à nos jours" dir. de Jean Marie Mayeur, Charles Pietri, André Vauchez và Mar c Venard, Paris, Desclée, 1997, tr. 755-834.). Nếu tác giả tránh nêu lên rằng Rhodes là chính tác giả sáng chế về ngữ học, thì vẫn tiếp tục trình bày ngài như vị tiên phong, người chủ động chính đáng được nêu lên trong trang sử này. 85. Chẳng hạn xem Nicole Dominique Lê, "Les missions étrange`res et la pénétration francaise au Viêt Nam", Paris/ La Haye, Mouton, 1975; Thế H ưng "L' Eglise catholique et la colinisation francaise", trong "Les Catholi ques et le mouvement national, Etudes Vietnamiennes" (Hà Nội), số 53, 1 978, tr.9-81; Trần Tam Tỉnh, "Dieu et Ce'sar: les catholiques dans l'hist oire du Viet Nam, Kỷ yếu hội nghị khoa học tại thành phố Hồ Chi ' Minh ngày 11-12-3-1988" (TP. HCM), Viện Khoa Học Xã Hội và Uỷ ban tôn giáo nhà nước", 1988, 86. Về vấn đề phục hồi danh dự, xem chú thích 12. Cộng đồng Việt Nam hải ngoại có hai khuynh hướng cực đoan về vấn đề này. Có nhiều người công giáo ca tụng Alexandre de Rhodes quá mức. Nhiều giới khác, nhân danh tinh thần quốc gia, lại phản ứng ngược lại với suy nghĩ rằng ca tụng người Pháp này như một ân nhân của Việt Nam dường như là cố biện minh cho chế độ thực dân và vì thế người ta phải tố giác. 87. Xem nghiên cứu của Pierre Yves Manguin về "Hiệp ước Bangkok ngày 5-12-1786", trong "Les Nguyễn, Macau et le Portugal (1773-1802)", Pa ris, EFEO, 1984, tr. 55-73; cũng như trong bản văn trang 62-67, 88. Ðây cũng là trường hợp của hai tác phẩm lớn của Alexand re de Rhodes "Tvnquinensis historiae libri dvo (...)", Lyon, K.B. Denvenet, 1652 (bản dịch Pháp ngữ cũng do nhà xb, này từ 1651); và "Divers voyages et missions" (nêu lên ở trên, trong chú thích 9). Chẳng hạn xem ý kiến của uỷ ban giám định của hội Dòng Tên tại Roma về cuốn sách này: "Các cha duyệt sách xét rằng hai cuốn sách về chuyến đi của cha Alexandre de Rhodes có thể được in, để khích lệ nhiều người về mặt thiêng liêng", Roma, ARSII. "Fondo G esuitico" 668, tr. 196. Liên quan đến cuốn sách của Rhodes viết về thầy giảng André, một trong các giám định viên minh nhiên mong rằng Rhodes cần lưu ý nhiều hơn về các qui luật chép tiểu sử (tldd. tr.186). Chúng tôi thấy dường như một số các nhà chép sử hiện đại dựa vào các sách này nhưng không lưu ý đủ tinh thần kiểm thảo. 89. Về các kho văn khố Bồ Ðào Nha và Tây Ban Nha liên hệ, chẳng hạn nên xem Joseph Franz Schutte, "El Archivo de Japón, Vicisitudes del Archivo jesuítico del Extremo Oriente y descripción del fondo existent e en la Real Academía de la Historia de Madrid", Madrid, Real Academía de la Histo'ria 1964; và António Da Siva Rego, "Jesuítas na A'sia", trong Bi blioteca da Ajuda. Revista de Divulgacão", I/1. 5.1980, tr. 95-112; Maria A ugusta da Veiga Ẹ Sousa, "Roteiro e descricão suma'ria dos documentos que existem, em microfilmoteca do Centro de Estudos de Histo'ria e Cartografia antiga" (=BFUP số 47), Lisbonne, 1986. Còn các kho Roma, phần chính văn khố của Hội Dòng Tên (ARSI), đặc biệt là kho JAP. SIN và "Fondo Gesuitico"; cũng có thể xem thư viện trung ương quốc gia, " Fondo Gesuitico" và văn khố Propaganda Fide, Tất cả các cơ sở nà y mở cửa cho các nhà nghiên cứu và giúp họ dễ dàng có được những dụng cụ truy cứu. 90. Một số nhà nghiên cứu Việt Nam đã trình những luận án sử học hoặc có liên quan đến lịch sử, nói đến thời liên hệ, tại các đại học ở Paris và Roma. Rất ít luận văn được xb., và gặp phải những thiếu sót như đã nêu lên, đặc biệt vì không đọc hiểu các nguyên bản viết bằng tiếng Bồ Ðào Nha. Chúng tôi xin nêu ra đây : Nguyễn Hữu Trọng, "Le Clergé na tional dans la fondation de l' Eglise au Viêt Nam. Les origines du clergé Vietnamien" (Paris, Institut Catholique, 1955); Vũ Khánh Tường, "Les mi ssions je'suites avant les Missions Étrange`res au Viêt Nam, 1615-1665" (P aris, Institut Catholique, 1956); Ðỗ Quang Chính, "La mission au Viêt Nam, 1624-1630, et 1640 1645" (Paris, Institut Catholique 1956); Phạm Văn Hội, "La fondation de l' E'glise au Viêt Nam, 1615-1715" (Roma, Universit é Gregorienne, 1960); Ðỗ Quang Chính. "La mission au Viêt Nam, 1624-16 30 et 1540-1645, d' Alexandre de Rhodes, sj, avignonnais" (Paris, Ecole Prat ique des Hautes Etudes, 1969). Luận án thần học: Nguyễn Khắc Xuyên, "Le catéchisme en langue vietnamienne romanisée du P. Alexandre de Rhodes, 1651" (Roma, Université Gre'gorienne, 1956-1957); Placide Tân Phát, " Méthodes de catéche`se et de conversion du P. Alexandre de Rhodes, 1593-16 60" (Paris, Institut Catholique, 1963); Mai Ðức Vinh, "La participation d es notables de chétiente's vietnamiennes aux ministe`re des prêtres. Reche rche historico- pastorale, 1533-1953" (Roma, Université St. Thomas, 19977); Nguyễn Chí Thiết, "Le Catéchisme du Pe`re Alexandre de Rhodes et l' â me vietnamienne" (Roma, Université Gregorienne, 1980). Các luận văn về giáo luật: Nguyễn Việt Cử, "De Institutione " Domus Dei in missio nibus Tonkini: Studium Juridicum" (Roma, Université Gregorienne, 1954); Nguyễn Trọng Hồng, "L'Institut des catéchistes et les missions d' Indochi ne au XVII siècles (Roma, Université Urbanienne, 1959); Phạm Quốc Sử, "La maison de Dieu, une organisation des catéchistes au Viêt Nam" (Roma, U niversité Urbanienne, 1975). Như chúng ta đã từng nêu lên, luận văn của Nguyễn Hữu Trọng đã từng được phát hành và gặp phải những phê bình nghiêm khắc từ phía Bồ Ðào Nha: xem lại chú thích 78. Ngoài ra, nhiều giáo sư đại học Việt Nam đã viết về con người và sự nghiệp của Alexandre de Rhodes, đặc biệt vào dịp kỷ niệm 300 năm ngài chết của ngài. Xem các bài báo trong tập san "Tạp chí Ðại học", 1960 và 1961- Huế; số đặc biệt của Việt Nam khảo cổ tập san Sài Gòn. "300 năm sau ngày cha Ðắc Lộ qua đời 1593 1660", số 2.1961. 258 trang. 5- Tra cứu lại bộ hồ sơ ngữ học Mặc dầu có việc xuất bản gần đây về các nguồn tài liệu của Trung Hoa về ngữ học Việt Nam trong lịch sử (91), thì cuốn từ điển và cuốn giáo lý đã xuất bản tại Roma vào năm 1651 vẫn là hai tác phẩm nền tảng không thể thay thế để biết được thực trạng của tiếng nói này vào cuối thế kỷ XVII, và sự tiến hoá của nó. Nhưng sự kiện chúng đã được xuất bản dưới tên tuổi duy nhất của Alexandre de Rhodes dường như không còn được đặt thành vấn đề để truy cứu cho tận tường hồ sơ ngữ học. Ðến mức độ nào ông là tác giả thật sự của các tác phẩm này? Bằng cách nào ông đã mượn lại những công trình của các vị đi trước mình, trong tư thế của một nhà sưu tập hoặc người biên tập bản văn cuối cùng? Thật khó mà trả lời một cách thích đáng các câu hỏi này; nhưng chúng phải được nêu lên, và phải được tra cứu một cách đúng đắn nhờ những chứng cớ đã được viết ra mà ta có thể có. Thật vậy, ý niệm về sở hữu văn chương nơi các tu sĩ Dòng Tên vào thế kỷ XVII không y như ý niệm ta có bây giờ, chúng t a đưa ra đây hai thí dụ: ta thấy bản tường thuật về việc tử đạo của thầy giảng André, mà bản gốc bằng tiếng Bồ Ðào Nha chắc chắn do chính linh mục Rhodes viết ra, nhưng đôi khi được lấy lại từng chữ một dưới tên các tác giả Matias da Maia (92), Antonio Francisco Cardim (93) hoặc Manuel Ferreira (94). Ngược lại, Rhodes đã xuất bản hoặc tái bản một bản văn được thuận nhận để phổ biến, thì người được đề cử làm công việc này lại ghi tên mình vào đó và mang trách nhiệm cá nhân về công tác của mình. Trong trường hợp của linh mục Rhodes và các vị tử đạo của Nhật Bản, có lẽ đã dựa vào danh tiếng đang lên của con người Avignon này để làm cho cuốn sách được phổ biến rộng rãi hơn. Về hai tác phẩm viết bằng tiếng Việt Nam do Bộ Truyền Bá Ðức Tin xuất bản, hẳn không có vấn đề bán ra cho dân chúng; mục đích duy nhất là phục vụ công cuộc truyền giáo. Do sự kiện Rhodes là người duy nhất ở Roma biết đến ngôn ngữ ấy, thì ông cần đích thân bảo chứng cho các tác phẩm liên hệ, mang lấy trách nhiệm tối hậu trước các vị bề trên của mình và trước Toà Thánh. Sự kiện tên ông xuất hiện trên bìa sách không nhất thiết minh chứng rằng ông là "tác gia" duy nhất của nó và ngay cả là người biên tập chính. Chúng tôi nghĩ rằng đây là lối mang trách nhiệm mà linh mục Rhodes đã thực hiện, chứ không phải là nêu lên tư cách tác giả văn chương theo nghĩa chính xác như chúng ta hiểu; những vị có thể làm điêu này y như cương vị của ông, hoặc có thể cùng làm việc này với ông, thì lại ở xa mút tại một nơi khác. Còn cuốn giáo lý, có lẽ phải dành tư thế tác giả cho ông trong việc biên tập dứt điểm bản văn được in ra, và chắc chắn hơn nữa là bản văn la tinh được ông minh nhiên nói đến. Nhưng cũng chính Rhodes đã ghi rằng, trong trường hợp này đây là "phương pháp mà chúng tôi đã dùng để trình bày các màu nhiệm của chúng ta cho người ngoại quốc". Như thế rõ rệt nó được định vị trong một công trình tập thể. (Chúng tôi giải thích từ ngữ "phương pháp" như hàm ngụ các tài liệu được viết ra. Thật thế một bản văn của tu sĩ Dòng Tên Metello Saccano chứng thực rằng các bản văn dạy giáo lý, ít nhất giống như bản của Rhodes, vừa được viết bằng chữ theo vần la- tinh và vừa được viết bằng chữ "nôm" đã hiện hữu rồịi. Và bản văn của tu sĩ này được viết ra ngay trước khi cuốn "Catechismus" xuất bản: "... cuốn Giáo Lý của chúng tôi được viết ra nhằm truyền đạt cho dân chúng nơi ấy. Trong đó các màu nhiệm của chúng ta được trình bày rõ rệt, và những mộng tưởng của các tà phái của họ bị thực sự đánh bạt; toàn tác phẩm chia ra làm tám bài giảng cho chừng đó ngày" (97). Nhà truyền giáo Rhodes dường như có được một bản viết bằng chữ quốc ngữ để sử dụng cho mình, và một bản bằng chữ nôm khác mà người Việt Nam sử dụng.) Còn đối với những gì liên quan đến cuốn từ điển, thì cũng cần có một nhận định tương tự. Trong lời tựa nói với độc giả, cha Rhodes nói rõ rằng ngài đã thực hiện dựa trên căn bản của một cuốn từ điển Việt - Bồ do linh mục Gaspar do Amaral soạn. Nếu người ta không bao giờ tìm ra được văn bả n viết tay của hai tác phẩm có trước, theo ý chúng tôi thì chỉ vì cuốn từ điển được in ra của Rhodes đã hoàn toàn lấy lại phần cơ bản, nên hai cuốn ấy được xem là không cần phải lưu giữ làm gì. Hẳn nhiên những kỳ công sắp xếp của linh mục Avignon này đáng được ca ngợi, ông là người duy nhất đã hoàn tất công trình xuất bản ấy mặc dù phải gặp bao khó khăn mà ta có thể tưởng tượng được. Các vị trước ông, chết sớm, đã không thể làm được việc ấy. (Người Việt Nam dùng kỹ thuật in theo bản khắc trên gỗ để in chữ nôm. Sở truyền giáo Dòng Tên ít nhất đã dùng kỹ thuật in này ở Ðằng Ngoài, trong thời kỳ tương đối họ có đư ợc tự do (98). Nhưng kỹ thuật in này không áp dụng cho mẫu tự la-tinh, và nhất là trong một lãnh vực tế nhị như vậy sự tự do của các nhà truyền giáo rất hạn chế.) Tỉnh Dòng Tên Nhật Bản đã từng sử dụng một máy in chữ rời ở Macao, rồi đem qua Nhật Bản và lại đem về Macao giữa các năm 1588 và 1620 (99). Không hiểu vì lý do gì, máy in đó bị bỏ đi hay bán cho ai đó tại Manila, nên chữ quốc ngữ lại không có dịp in tại đây, như đã từng in chữ Nhật (vần la-tinh và chữ hiragana). Chỉ còn cách là phải in chữ quốc ngữ tại Lisbonne . Nhưng vào thời này, công việc đó rất tế nhị, kéo dài và tốn kém. Một vị pháp đình Bồ Ðào Nha đương thời đã viết:" (Pháp đình thời Trung Cổ) luôn cảnh giác nhằm truy lùng các tà thuyết thật rốt ráo; và việc đó luôn xảy ra như thế tại vương quốc (Bồ Ðào Nha), ở đấy các bản chép phải bị xem lại luôn và phải do nhiều giám sát viên duyệt một cách gắt gao, đó là một trong những lý do tại sao ít sách được xuất bản tại đây ... " (100) Linh mục Rhodes đã thêm vào một bản dịch La ngữ cho phần Việt-Bồ, nơi cuốn từ điển cũng như trong cuốn giáo lý. Ông đã thay thế bản từ vựng Bồ-Việt bằng một bản danh mục La- Việt ngắn, có lẽ là do công trình riêng của ông. Ngoài ra, cuốn từ điển còn cho vào một bản mô tả ngắn về ngữ học và văn phạm tiếng Việt; khi nghiên cứu văn bản này, đối chiếu với một bản khác nhưng tương tự hiện nay, chúng tôi thấy có chứng cớ về một nguồn gốc Bồ Ðào Nha chung đi trước, nguồn tài liệu này cũng đã mất vì việc xuất bản tác phẩm được in cho thấy nó không còn nữa. Chỉ có việc xuất bản và phân tích có phương pháp các nguồn tài liệu mới cho phép ta xác minh, hoặc phê bác giả thiết này cũng như các kết luận tạm thời khác đã từng nêu lên về sự khai sinh ra chữ quốc ngữ. Phần chúng tôi, chúng tôi đã nỗ lực chứng minh rằng ngữ âm Bồ Ðào Nha đã được dùng một cách ưu tiên so với các loại ngữ âm khác với một sự thành công rõ rệt vào thế kỷ XVII để làm phương tiên phân tích cho ngữ âm Việt Nam trong khuôn khổ sáng chế ra hệ thống mẫu tự mới. Chính các nhà văn phạm người Bồ Ðào Nha đã cống hiến phần thiết yếu về các khái niệm căn bản, và các công trình nghiên cứu tiếng Nhật Bản của các tu sĩ Dòng Tên Bồ Ðào Nha khắc đã đem lại phương pháp. Không biết đến các sự kiện này, thì dễ đi đến việc mò mẫm vô ích. Những nghiên cứu giá trị hơn cả về lịch sử tiếng Việt và việc phiên âm tiếng đó qua mẫu tự la- tinh, đặc biệt là các nghiên cứu của André-Georges Haudricourt (102), Kenneth Gregerson (103) hoặc Hoàng Thị Châu (104) mà chúng tôi học hỏi được rất nhiều, đã chỉ có thể hé nhận ra một cách còn lờ mờ về vai trò đặc biệt này của người Bồ Ðào Nha trong việc sáng chế ra chữ quốc ngữ. Ðối với các nhà ngữ học, đây là một dự án còn phải tiếp tục truy cứu; theo chúng tôi tiến trình này đòi hỏi một sự hợp tác đa phương, giữa những nhà chuyên môn ng ười Bồ Ðào Nha cũng như người Việt Nam. Chú thích: 91. Vương Lộc (ed.), "Annam dịch ngữ", Hà Nội, Trung Tâm từ điển học, 1995. Ðây là bản từ vựng dùng cho cơ quan hành chánh (nhà Minh) đặc trách giao dịch với các nước nhỏ phải triều cống. 92. Relacaõ da gloriosa morte que padeceraõ pella confissaõ da feê de Xpõ nosso Senhor tres cathechistas dos Padres da companhia de JESVS em o Re ino de Cochinchina, nos annos de 1644., e 1645", bản chép tay chưa xuất bản đề năm 1649 tại Goa, ký tên Mathias Da Maya: ARSI, JAP./SIN, 50 a,, tập rời. 93. "Batalhas da Companhia de Jesus na sua gloriosa provincia do Japão", bản chép tay năm 1650, xb. Luciano Cordeiro, Lisbonne, Sociedade de Geogra fia/ Imprensa nacional, 1894, tr. 185-198. 94. "Noticias summarias das perseguicões da missam de Cochinchina (...)", Lisbonne, Miguel Manescal, 1700, tr. 50-76. Tuy nhiên, bản văn này có nét đặc sắc riêng so với bản chính. 95. Alexandre de Rhodes, "Lịch sử về đời sống và cái chết vinh quang của năm cha Dòng Tên, đã chịu khổ ở Nhật Bản. Với ba linh mục triều, năm 1643", Paris, 1653. 96. Xem Alexandre de Rhodes, "Divers voyages et missions" (đã dẫn ở chú thích 9), tr. 74. 97. Metello Saccano, "Relation des progre`s de la Foy au royaume de la Conchinchine des années 1646 et 1647", Paris Se'bastien et Gabriel Cramoisy, 16 53, tr. 129. 98. Xem phúc trình hàng năm của Gaspar do Amaral ngày 31.12.1532: Lisbonne, Biblioteca da Ajuda, collection "Jesuítas na A'sia", cuốn 49/V/31, tr. 219v. 99. Xem nghiên cứu về đề tài này của Manuel Cadafaz de Matos, trong phần dẫn nhập của tái bản cuốn đầu in năm 1588 tại Ma Cao: "Christiani pueri institutio, adolescentiaeque perfugium" của Ioannes Bo nifacio (Macao, Instituto Cultural de Macau, 1988). 100. Francisco de Santo Agostinho Macedo, "Filipica Portuguesa contra la in vectiva castellana (1645), trích dẫn bởi Charles Ralph Boxer, "The Church Militant and Iberian Expansion 1440^1770", Baltimore/Londres, Johns Hopki ns University Press, (1978), tr. 91. 101. Về vấn đề này xin xem nghiên cứu của chúng tôị "L'oeuvre de quelques pionniers portugais dans le domaine de la linguistique vietnam ienne jusqú en 1650" (xem chú thích 53). 102. André Georges Haudricourt, "Origine des particularite's de l'alphabet vietnamien", trong "Bulletin Dân Việt Nam", đã nói ở chú thích 8. 103. Kenneth J. Gregerson, "A study of Middle Vietnamese Phonology", trong "Bulletin de la Société des Etudes Indochinoises", đợt mới 44/2. 1969 , tr. 131-193. 104. Hoàng Thị Châu, "Tiếng Việt trên các miền đất nước" (Phương ngữ học), Hà Nội, xb. Khoa Học Xã Hội, 1989. 6- Từ Francisco de Pina đến Ðệ Tam Thiên Niên: Lối viết bằng mẫu tự la-tinh dùng để làm gì? Trái ngược với lối suy nghĩ theo thành kiến, phương tiện chu yển đạt dùng cho việc truyền bá Ki-tô giáo, được các tu sĩ Dòng Tên dưới sự bảo trợ của Bồ Ðào Nha sử dụng khi tiếp cận với người Việt Nam, không phải là chữ viết theo mẫu tự la-tinh. Về điểm này, người Âu Châu cũng bị lầm do sự xuất hiện của cuốn giáo lý và cuốn từ điển. Những nhà truyền giáo tại chỗ đã chọn chữ "nôm", nghĩa là một loại chữ Việt Nam cổ xưa dựa theo chữ Hán (105). Chữ nôm có điểm lợi là tương đối được giới ưu tú của xã hội Việt Nam biết đến - tức là các người có học - nhưng bất tiện là đa số các nhà truyền giáo lại không đọc nổi. Và sự cân nhắc trong quyết định của họ là làm sao tránh việc đẩy cộng đồng Ki-tô giáo vừa mới được khai sinh đi ra khỏi gốc rễ truyền thống của Việt Nam trong bối cảnh của một nền văn hóa có nét Trung Hoa này; hơn nữa nếu làm như thế, thì còn hoàn toàn đi ngược lại những nguyên tắc và phương pháp của các tu sĩ Dòng Tên Bồ Ðào Nha. (Văn hóa Việt Nam có hai nguồn gốc chính hỗ tương cho nhau: một phần là các truyền thống của các sắc dân địa phương và nền tảng của tiếng nói Việt Nam, không thuộc vào nhóm Trung Hoa; một phần khác là văn hóa Trung Hoa, tồn trữ và lưu hành nơi ngôn ngữ của nó qua chữ viết và qua nhiều hình thái vay mượn khác nhau. Chữ nôm có một vị trí đặc biệt trong bối cảnh này như bản lề giữa hai cánh cửa. Những chữ viết lấy từ chữ viết Trung Hoa (hán tự) và tạo được uy thế nhờ nguồn gốc này; nhưng chúng lại đọc thành tiếng Việt với một nghĩa đặc biệt của tiếng Việt ấy; nên chúng đúng là một quốc tự, nghĩa là chữ viết quốc gia. Những chữ viết "nôm" lại có thể trực tiếp mượn các nguồn chữ hán một cách thoải mái, nên mãi phát triển rộng và sâu. Chữ quốc ngữ không bao giờ có được sức tác dụng có tính cách tượng trưng đó.) Vấn đề chữ viết Việt Nam có vẻ rối rắm vì nhiều tác giả tây phương lẫn lộn vấn đề tiếng nói và chữ viết (106). Thật thế, các tu sĩ Dòng Tên buộc phải chọn lựa giữa hai thứ "tiếng nói": thay vì Trung Hoa (là tiếng chính thức, tiếng dùng giáo dục lớp người có học), thì họ thích tiếng Việt Nam (tiếng nói của dân chúng). Trong những hoàn cảnh hạn chế như đã nêu, họ cũng áp dụng "chữ viết" truyền thống (chữ nôm) của tiếng nói dân gian ấy; đồng thời họ sáng tác ra một vần la-tinh áp dụng vào tiếng nói này (tức là chữ quốc ngữ) để dùng riêng trong công việc của họ. Việc sử dụng tiếng hán nhiều hay ít trong ngôn ngữ Việt Nam không liên quan gì đến chữ viết. Nhưng cần xác định thêm rằng đường lối sử dụng ngôn ngữ như thế là chính sách chung của các nhà truyền giáo; không có gì cho phép ta nêu lên rằng trong lãnh vực này, Alexand re de Rhodes có một lập trường độc đáo cả. Nhưng dẫu sao, chúng tôi phải nêu lên rằng lối phê bình của ông Lê Thành Khôi, một nhà viết sử Việt Nam, về việc này là lầm lẫn, ông ấy viết: "Sáng chế (chữ quốc ngữ) trước hết phát sinh do một mục đích truyền đạo. Thật vậy, trở ngại lớn cho việc truyền đạo Ki-tô phát xuất từ khung cảnh giáo dục phổ quát của Khổng học. Ðể đi vào tâm thức quần chúng, các nhà truyền giáo phải chống lại văn hóa Trung Hoa và chữ viết tiêu biểu cho nền văn hóa đó. Họ cố trao cho dân chúng phương tiện để quẳng bỏ chữ viết đang thịnh hành, và họ đã đạt được ý định khi bày ra hệ thống chuyển âm tiếng Việt nhờ mẫu tự la-tinh, kèm theo những âm tiêu để có được những dấu thăng trầm khác nhau. Các người trở lại đạo dùng chữ viết quốc ngữ không còn đọc tiếng Hán nữa; tiếng Hán này lại được dùng trong các văn kiện nhà nước và phần lớn sinh hoạt văn chương. Ta thấy đó là tầm mức chính trị của sự kiện, đã làm cho người công giáo Việt Nam trở thành một nhóm riêng trong cộng đồng quốc gia trong một thời gian dài."(102) Một lối phê bình như thế phản ảnh một sự quên lãng gia trọng (bên cạnh nhiều yếu tố khác nữa) về nỗ lực văn hóa rất tích cực do chính những vị tu sĩ Dòng Tên này của đoàn truyền giáo của Trung Hoa, trong đường hướng của Matteo Ricci (1610). Lối phê bình đó không đứng vững trước những sự kiện, đặc biệt là khối lượng sáng tác và phát hành của văn chương Ki-tô giáo bằng chữ nôm, khởi đầu ngay từ các thời đầu tiên của công việc truyền giáo. Khi nhà truyền giáo Kerónimo Mayorica qua đời năm 1659, bề trên đã viết một loại điếu văn và nhắc đến "thư viện phong phú gồm 48 bộ sách mà ngài đã viết hoặc dịch ra tiếng nói và ra 'chữ viết' xứ ấy" (108), Và mãi cho đến ngay giữa thế kỷ 20, dưới chế độ thực dân Pháp, các nhà xuất bản công giáo Việt Nam vẫn phổ biến cho Ki-tô hữu nhiều sách bằng chữ nôm và chữ hán (109). Ngoài ra, trong giai đoạn đầu, rất ít Ki-tô hữu hiểu được lối chữ Việt theo vần la-tinh mà các vị thừa sai có thể chỉ cho họ, vì chữ viết này hoàn toàn xa lạ. Như thế, tại sao lúc bấy giờ Francisco de Pina và các người kế tiếp ông lại phí nhiều công sức và tài trí để sáng tác rồi hoàn chỉnh lối viết theo mẫu tự la tinh, tức là chữ quốc ngữ ấy? Sự kiện đã xảy ra vì chữ quốc ngữ có mục đích trước hết là để dạy cho các nhà truyền giáo và giúp họ sử dụng. Nó cống hiến cho các vị này một bước trung gian rất thuận lợi để tiếp cận với lối nói của người Việt; ngoài ra nó còn đem lại một phương tiện trao đổi về mặt học hỏi và giao tiếp bằng chữ viết với những người Việt lãnh đạo chính yếu của cộng đoàn, mà người ta buộc phải học lối viết mới này trong mục đích hạn chế đó (110). Tình trạng phổ biến rất hạn chế của chữ quốc ngữ như thếm sẽ biến đổi một cách chậm chạp vào giữa thế kỷ XVIIII. Chỉ đến lúc này, chữ viết theo mẫu tự la-tinh mới bắt đầu lan tràn rộng rãi trong cộng đồng người Ki-tô giáo; đây là vì những lý do an ninh trước một chế độ cấm đạo (111) và cũng có thể vì việc sử dụng rất tiện lợi. Viễn tượng mới đó kéo theo hậu quả không thể tránh khỏi đó là sự tiến hóa dần dần chữ quốc ngữ. Mục đích chính lúc đầu đòi hỏi phải ưu tiên cho khía cạnh thuần túy ngữ âm, nghĩa là cho việc mô tả cách phát âm, nhằm giúp cho người n goại quốc mới bắt đầu học đọc tiếng Việt cho thật đúng. Khi việc sử dụng lối viết này được phổ biến hơn nơi những người nói tiếng Việt cho thật đúng. Khi việc sử dụng lối viết này được phổ biến hơn nơi những người nói tiếng Việt như tiếng mẹ đẻ, thì người ta lại ưu tiên khía cạnh âm vị học (112), thiết thực cho họ hơn. (Trong khuôn khổ của bản văn này, chúng tôi xin chỉ nêu lên một thí dụ. Trong lối viết quốc ngữ, mà cuốn từ điển của Al exandre de Rhodes cho ta thấy, các phụ âm mũi cuối mặt lưỡi vòm trước (consonnes nasales finales dorso-prépalatale), mặt lưỡi-vòm mềm (dorso- ve'laire) và môi vòm mềm (labio- ve'laire) được diễn tả bằng ba lối chép thành chữ khác nhau, như sau: "nh" (chẳng hạn "lành"); "ng" (chẳng hạn "làng"), và một dấu gọi là dấu "apex", lấy từ dấu "til" (tilde) chữ viết Bồ Ðào Nha "~", đặt trên đầu chữ ghi nguyên âm (chẳng hạn "lão", ngày nay viết là "lòng"). Những lối ghi chép đánh dấu đó phản ánh cách đọc chuẩn của vùng Hà Nội, đúng như một người Bồ Ðào Nha cố nghe và phân tích được dựa vào hệ thống ghi chép mà người ấy quen thuộc. Trong lối viết nơi cuốn từ điển của Pigneau de Be'haine và Taberd (xem chú thích 114), hai mẫu phụ âm sau cùng nêu lên trên đây lại cho phép y như nhau là "ng", bởi lẽ chúng không đối chọi gì nhau, sự xuất lộ của chúng lệ thuộc vào nguyên âm đi trước. Việc phân biệt hai mẫu phụ âm này đối với một người gốc Việt Nam là một việc thừa. Người ta hầu như đã đơn giản hóa đến mức tối da khi chung lộn hai ký hiệu "nh" và "ng": trong hệ thống tiếng Việt, không cần đến sự phân biệt này nếu lưu ý đến các nguyên âm /a/ và /oe/ (113). Cần lưu ý rằng đây không hề có việc sửa chữa những sai lầm có thể có về việc ghi chép, nhưng nhằm đơn giản hóa các luật của nó (114). Nhưng thực sự thì đổi thay không nhiều lắm, nên ngày nay chỉ cần học vài phút thì độc giả Việt Nam có thể đi vào toàn bộ các bản văn bằng chữ quốc ngữ viết vào thế kỷ XVIII. Vì chữ Nôm và chữ Hán cũng rất khó học đối với giới cai trị của Pháp, không kém gì trường hợp của các vị truyền giáo trước đây, nên chế độ thực dân đã tha thiết ngay với lối chữ viết theo mẫu tự la tinh này; sau này họ đã cho nó một qui chế chính thức, buộc phải sử dụng trong tất cả các dịch vụ hành chánh (115). Và như vậy, vào đầu thế kỷ XX, chữ viết theo mẫu tự la-tinh do người Bồ Ðào Nha gợi ra trước đây bắt đầu lan tràn ra ngoài cộng đồng Ki-tô giáo. Nho sĩ yêu nước trong xứ, rất đông, cương quyết chống lại sự mới mẻ này, nại lý do bảo vệ truyền thống và bản chất Việt Nam. Nhưng dần dần, vì nhận thấy hiệu năng thiết thực của nó, họ lại cố học chữ viết lối mới và sử dụng (116). Sự thành công của chữ quốc ngữ không phải là kết quả của sự áp đặt do luật lệ của bạo quyền. Ai cũng thấy kháng cự chống lại chữ viết mới mẻ này chẳng lợi ích gì; tương lai xã hội lại đòi hỏi phải canh tân cơ chế xã hội và đẩy mạnh giáo dục quần chúng. Dường như sau những thất bại của các phong trào yêu nước vào năm 1930, những đối kháng về chữ quốc ngữ không còn nữa; giới ưu tú lãnh đạo đã rút tỉa bài học qua các biến cố đau thương này. Vậy chữ nôm từ lâu chỉ dành cho một thiểu số nho sĩ, giới nho quan truyền thống. Chỉ có chữ quốc ngữ mới cống hiến được phương tiện kiến hiệu nhằm thoát ra khỏi tình trạng này và cổ võ cho lý tưởng thoáng hé lộ (117). Những xác tín như thế trở thành phổ biến khi nhìn về một Việt Nam thời hậu thực dân. Và chữ nôm bị xóa dần đi đế n độ biến mất hẳn; chữ viết duy nhất của tất cả người Việt Nam: "Quốc ngữ". Mọi người dùng chữ quốc ngữ, và chữ viết đó đã chứng thực rằng nó có thể áp dụng một cách dễ dàng và hữu hiệu để đi vào tất cả các lãnh vực của kiến thức (118). Ngoài ra, chính chữ quốc ngữ đã cống hiến nhiều hơn cả trong việc bảo tồn sự thống nhất ngôn ngữ, ngay cả trong cuộc chiến gay gắt giữa đôi bên: nó đẩy lui được các khuynh hướng chủ trương phân cách, một cách hữu hiệu hơn điều người ta có thể mong ước thực hiện hoặc nơi một lối chữ viết áp dụng âm vị học một cách rốt ráo do một số người chủ trương (119). Làm sao quên được công trình vĩ đại mà các vị tiên phong của công cuộc truyền giáo tại Việt Nam đã thực hiện? Những điều mà các vị truyền giáo Dòng Tên đến từ Bồ Ðào Nha, do Bồ Ðào Nha gửi đi, đã thực hiện trong phạm vi ngữ học kỳ cùng là những công trình có tính cách quyết định cho tương lai văn hóa Việt Nam đến độ ngày nay tương lai đó không thể qu an niệm được nếu không có chữ viết theo mẫu tự la-tinh. Tấm bia tưởng niệm đã được dựng lên lại vào cuối năm 1995 ở thư viện quốc gia tại Hà Nội, và chỉ tôn vinh một mình Al exandre de Rhodes; đó là một dấu hiệu cho thấy sự đóng góp văn hóa đặc biệt của người Bồ Ðào Nha bị quên lảng, ngay cả trong giới khoa học. Nhưng người ta cũng thấy nơi tấm bia kỷ niệm đó một dấu chỉ chờ đợi, một dấu móc đầu tiên nhằm nối lại cuộc đối thoại văn hóa với Tây phương về quá khứ hung và về tương lai. Trong khuôn khổ đó, nước Pháp và các nước nói tiếng Pháp chắc chắn có đóng một vai trò; nhưng đáng tiếc là các nước này đã không hợp tác với các quốc gia tây phương khác nữa để cùng thực hiện cuộc đối thoại nêu trên, vì kinh nghiệm về Á châu của họ xa xưa hơn, và họ lại không có nhược điểm của một quá khứ thực dân còn gây ấn tượng đau thương nơi ý thức quốc gia của người Việt Nam Chú thích: 105. Một bằng chứng cho thấy qua Phạm Xuân Hy, "Ba bản Kinh Tin Kính bằng chữ Nôm", trong Trần Anh Dũng (dir.), "Hàng giáo phẩm Công giáo Việt Nam 1960-1995", Paris, tự xb., 1996, tr. 487-503. Ngoài ra, xem bài dẫn nhập của Vũ Văn Kính, "Ðất nước 4000 năm: Bảng tra chữ Nôm thế kỷ XVII " (Qua tác phẩm của Maiorica) NXB. TP. HCM, 1992. Về chữ Nôm, có nhiều thư mục bằng tiếng Việt, chúng ta chỉ nêu lên đây, chẳng hạn Trần Nghĩa, "Dẫn nhập tổng quát" , trong "Di sản Hán Nôm Việt Nam thư mục đề yếu", do Trần Nghĩa và Francois Gros, Hà Nội, Ed. Sciences Sociales, 1993, tập I, tr. 15-47; Nguyễn Ðình Hoà, "Chữ Nôm, the demotic system of writing in Vietnam", trong "Journal of the American Oriental Society, 1959; Bửu Cầm, "Nguồn gốc chữ Nôm" trong "Văn hóa nguyệt san" 50, 1960, 347-355; Bu +?u Cầm, "Dẫn nhập nghiên cứu chữ Nôm", Sài Gòn, 1962. 106. Chẳng hạn xem Stephen Neil, "A history of Christian missions" (đa nêu ở chú thích 84): "Furthemore, he (Rhodes) rejected the tendency of the scholars to a high style of writing, with many words and phrases borrowe d from Chinese and written in Chinese characters; he set himself to develop the "quoc ngu", the ordinay language of the people, and to make it a fit ins trument for the expression of Christian truth" (tr. 196-197). 107. Lê Thành Khôi, "Histoire du Viêt Nam des origines à 1858", Paris, Sudestasie, 1982, tr. 290. 108. "Uma copiosa liuraria de 48 volumes, que compos, ou uerteo nesta lingo a, e letra natiua": Francisco Rangel, "Annua du Tonkin 1659", ARSI, JAP.-SIN. 64, tr. 366v. Giorolamo Maiorica là một tu sĩ Dòng Tên người Ý truyền giáo tại Ðàng Ngoàị Xem Hoàng Xuân Hãn, "Girol amo Majorica. Ses oeuvres en langue vietnamienne conservées à la Bibliothe `que Nationale de Paris", trong "Archivum Historicum Societatis Iesu", 22, 1 953, tr. 203-214. 109. Chẳng hạn xem các danh mục của các nhà in truyền giáo ở Q ui Nhơn 1920, Kẻ Sở 1920 và 1925, Tân Ðịnh 1922, Hà Nội 1926, Phu ' Nhai 1927. Chúng ta có thể ghi nhận việc tái bản một truyện thánh rất xưa bằng chữ Nôm về tháng Anton de Padoua (hoặc đúng hơn Anton Lisbonne), một vị thánh Bồ Ðào Nha rất được dân chúng mến mộ: "Chuyện ông thánh Anton hay làm phép lạ", chuyển ngữ do Nguyễn Hưng (Xb, TP HCM do tác giả) 1995. Việc phổ biến tập sách nhỏ này, dấu tích của một thời đã qua. Vì từ nay phải chuyển ngữ từ chữ Nôm qua quốc ngữ, biểu hiện một nỗ lực đối thoại văn hóa mà những nhà truyền giáo đầu tiên và các tín hữu đầu tiên thực hiện trong cộng đồng công giáo Việt Nam, xuyên qua các thế kỷ. 110. Xem những suy nghĩ của Francisco de Pina về vấn đề này tro ng bức thư đã dẫn (Biblioteca da Ajuda, cuốn 49/V/7, tr. 413 416). Nhưng thủ bút đầu tiên do người Việt Nam viết bằng chữ quốc ngữ có từ 1659: đó là những bức thư gửi cho tu sĩ Dòng Tên Giovanni Filippo Marini: ARSI, JAP.-SIN, 81, tr. 245-259. 111. Xem André Marillier, "Nos pe`res dans la foị Notes sur le clergé ca tholique du Tonkin de 1666 à 1765", tập 3, Paris, Eglise d' Asie, 1995, t r. 170-172. Trong văn khố của Hội Truyền Giáo Paris, tác giả đã nêu lên một cách hệ thống các ám chỉ nói đến việc sử dụng tiếng nói và hai cách viết tiếng nói này; những kết luận rút ra hoàn toàn trùng hợp với những gì nêu lên ở đây. Sự kiện đó đòi hỏi phải xét lại những khẳng quyết vội vàng; chúng tôi nêu lên ví dụ qua một quan điểm rất ôn hoà, đó là quan điểm của Jean Comby: Alexandre de Rhodes không phải là người sáng chế chữ quốc ngữ, nhưng ngài đã "cống hiến việc phổ cập hoá chữ viết đó." ("Deux mille ans d' e'vange'lisation", Tournai, Desclée, 1992, tr. 165-166). Nói đến việc phổ cập hoá vào thế kỷ 17 là hoàn toàn phản niên kỷ. Cũng như xác quyết sau đây của Henri Bernard Mai^tre: "Alexandre de Rhodes phải được xem như nhà truyền bá chính về sáng chế phi thường này". (Le P. De Rhodes et les Missions d' Indochine 1615-1645", trong Simon Delacoix (dir.), ("Histoire universelle des Missions catholiques", tập II, Paris, Grund,, ( 1957), tr. 53-69, tr. 57. Kỳ thực, các tác phẩm của Rhodes được in ra rất ít được "phổ biến". 112. Ở đây chúng tôi không dùng các ý niệm "ngữ âm" và "âm vị" một cách chính xác như các nhà ngữ học thường sử dụng. Ngoài ra, trong trường hợp chữ quốc ngữ, các khuynh hướng đề cập vấn đề không có gì tuyệt đốị Việc ghi chép theo ngữ âm muốn mô tả hết sức trung thực các hiện tượng cấu âm và âm học, nghĩa là cái gì thực sự được đọc lên và được nghe. Còn âm vị học là một khoa học mới có đây, nhằm nghiên cứu cách phát âm dưới góc độ của vai trò mà các cách phát âm đã thực hiện (các đối vi....,) dựa vào những ý niệm về hệ thống và sự thích đáng trên bình diện truyền thông. 113. Thật vậy, các nhà ngữ học hiện nay cho rằng ba phụ âm mũi cuối ở phần sau hết của một chữ nêu lên trên đây không chống kháng nhau mà chỉ là một siêu âm vị, mà lối phát âm thay đổi tuỳ thuộc vào nguyên âm đi trước, (...) 114. Ðáng lưu ý khi nhận ra được rõ ràng một sự tiến hoá ngay nơi một người sử dụng lối chữ này. Ta thấy cũng một người ký tên Việt Giacobe Nguyễn ghi lại những lời kai của các nhân chứng trong vụ án phong thánh cho những người Tây Ban Nha tử đạo đầu tiên tại Việt Nam trong năm 1746 và trong năm 1768. Giữa hai năm này có những quy ước chính tả đổi mới (Arch ivo Segreto Vaticano, kho "Riti", số 3014 và 3013). Nhưng nhân chứng rõ rệt nhất về những đổi thay này là cuốn "Dictionarium Anna miticum Latinum" de Pierre Pigneau de Be'haine, bản viết tay hoàn thành năm 1772, xb. sau đó bởi Jean Louis Taberd: "Dictionnarium Annamitico- Latinum", Serampore (Inde), 1838. Trái lại các bản văn của Philiph do Rosa'rio Bỉnh vẫn giữ lại những quy ước cũ; vị tu sĩ Dòng Tên người Việt này sống ở Lisbonne từ 1796 cho đến khi chết vào năm 1832, là người chủ trương bênh vực quyền bảo trợ của Bồ Ðào Nha trong các công tác truyền giáo tại Việt Nam, và không muốn ảnh hưởng của các vị truyền giáo người Pháp (xem Biblioteca Apostolica Vaticana, kho "Codici Borgiani Tonchinesi", số 1 đến 23). 115. Xem các minh xác trên đây ở chú thích 3. 116. Lợi ích của chữ quốc ngữ ngay từ 1907-1908 đã được phong trào văn chương ái quốc "Ðông Kinh Nghĩa Thục" đề xướng, Tuyên ngôn của phong trào này, tức khắc bị chính quyền thực dân đàn áp; tuyên ngôn đó cũng nói đến việc sáng chế chữ quốc ngữ là do "các linh mục Bồ Ðào Nha", nhưng không đưa ra lý chứng rõ rệt. Chúng tôi trích dẫn theo "Văn tuyển Văn Học Việt Nam 1858-1930", Hà Nội, xb. Giáo Dục 1981, tr.195. Cũng xem thêm Nguyễn Khắc Viện (dir.), "Anthologie de la litte'rature vietna mienne", tập III, Hà Nội, Ed. en Langues Étrange`res, 1975, tr. 25 30, và 248. 117. Chẳng hạn xem Lê Thành Khôi "Introduction à l' histoire et à la culture du Viêt Nam", trong "La jeune et la rouge", Paris, Ecole Polytech nique, số 525, 5.1997 (tr. 5-13): trang 13. Trong bài báo này, nhà sử học dường như đã gia giảm lối phê phán của mình (xem lại chú thích 107). 118. Ðây là điển hình về việc phục hồi danh dự cho Rhodes, qua một bản văn có tính cách quyết định, mà chúng ta có lần nói đến: "Together with European missionaries he set to romanize the scr ipt of Vietnam, using the Roman alphabet to record the Vietnam language. It took the group nearly half a century to complete this collective work in whi ch Alexandre de Rhodes played the main rolẹ Not until two centuries later d id quốc ngữ (national script) become the popular written language of Vie tnam and efficient vehicle in the modernization of the Vietnamese society... Alexandre de Rhodes's services to Vietnam are immeasurable... It is time to correct the erromeous appraisal... and to do him justice in the light of truth and fairness..." ("Let's do justice to Alexandre de Rhodes"; "Vietnam Social Sciences" (Hà Nội), 40, 2/1994. tr. 88-89.) Theo quan điểm của chúng tôi, những gì nêu lên ở đây để tôn vinh Alexandre de Rhodes, thì hẳn nhiên cũng áp dụng cho các nhà truyền giáo người Bồ Ðào Nha. - Hết - Trích từ nguồn BBC [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
NGÔN NGỮ HỌC
Tiếng Việt
Chữ Quốc ngữ
Top