ngan trang
New member
- Xu
- 159
Văn học Việt Nam giai đoạn 1945-1975 đã đạt nhiều thành tựu to lớn, đặc biệt là những mảng tác phẩm thẻ hiện phẩm chất anh hừng của con người Việt Nam trong hai cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại chống lại kẻ thù xâm lược thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Hai tác phẩm “rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành và “ những đứa con trong gia đình” của Nguyễn Thi là hai tác phẩm đã thành công trong sự khắc họa những hình tượng nhân vật tiêu biểu cho chủ nghĩa anh hùng cách mạng cao đẹp, cho lòng yêu nước và cam thù giặc sâu sắc, sức mạnh chiến đấu của dân tộc Việt Nam chống lại giặc ngoại xâm.
Chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong là sự thể hiện của lòng yêu nước thiết tha, căm thù giặc sâu sắc, tinh thần chiến đấu bất khuất chống lại kẻ thù xâm lược để bảo vệ tổ quốc của con người Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, là sự trung thành với lí tưởng cách mạng được thử thách trong những hoàn cảnh khốc liệt, qua đó bộc lộ được vẻ đẹp của phẩm chất anh hùng có tính chất tiêu biểu cho cả dân tộc.
Cả hai tác giả Nguyễn Trung Thành và Nguyễn Thi đều gắn bó với cuộc chiến đấu chống Mĩ, là những nhà văn chiến sĩ ở tuyến đầu máu lửa à Tác phẩm của họ mang hơi thở nóng hổi của cuộc chiến đấu với những hình tượng nhân vật sinh động, bước vào văn học từ thực tế chiến đấu. Nguyễn Trung Thành sinh 1932, khi mới 18 tuổi, năm 1950, ông đã vào bộ đội, sau đó làm phóng viên báo quân đội nhân dân Liên khu V, những năm tháng lăn lộn trong cuộc kháng chiến chống Pháp ở Liên khu V đã giúp ông hiểu biết sâu sắc về Tây Nguyên, để sau khi tập kết ra Bắc có thể viết những cuốn tiểu thuyết cho sự nghiệp văn chương của mình thấm đẫm tinh thần cách mạng dân tộc. Còn Nguyễn Thi sinh năm 1928, khi mới 17 tuổi, năm 1945, ông đã tham gia cách mạng rồi gia nhập lực lượng vũ trang. Ông trở thành một trong những cây bút văn xuôi hàng đầu của văn nghệ giải phóng miền Nam thời ì kháng chiến chống Mỹ. Chính từ những năm tháng tham gia chiến đấu đó, Hai truyện ngắn “Rừng xà nu” ( 1965), “Những đứa con trong gia đình” (1966) đều ra đời trong giai đoạn ác liệt của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, khi đế quốc Mĩ đổ quân vào miền Nam nước ta, dân tộc ta đứng trước trận chiến một mất một còn để bảo vệ độc lập tự do, bảo vệ quyền sống. Đó là bối cảnh lịch sử để từ đó hai tác phẩm ngợi ca chủ nghĩa anh hùng cách mạng, với chất sử thi đậm đà.
Những nhân vật chính trong hai câu chuyện đều là là những người con được sinh ra từ truyền thống bất khuất của gia đình, của quê hương, của dân tộc. Làng Xô Man- quê hương Tnú ở trong tầm đại bác của giặc, nơi mà từng người dân đều hướng về cách mạng, bảo vệ cán bộ “ Đảng còn thì núi nước này còn”. Còn Chiến và Việt sinh ra trong gia đình có truyền thống yêu nước, căm thù giặc: Cha là cán bộ cách mạng, má là người phụ nữ Nam bộ kiên cường trong đấu tranh, hai con tiếp nối lí tưởng của cha mẹ.
Những con người đó đã chịu nhiều đau thương, mất mát do kẻ thù gây ra, tiêu biểu cho đau thương mất mát của cả dân tộc. Tnú có một mối tình với Mai đẹp tựa như trong truyện truyền kì, cuộc đời còn hứa hẹn biết bao hạnh phúc ở trước mắt nhưng chính Tnú lại có một số phận đầy bi kịch. Kẻ thù đã bắt vợ con anh và tra tấn họ đến chết. Tnú tận mắt chứng kiến tất cả và lòng căm thù, long yêu thương đã khiến đôi mắt anh hiện lên như hai hòn lửa lớn. Anh lao thẳng vào lũ giặc nhưng vẫn không thể cứu được vợ con, vì anh chỉ có hai bàn tay trắng, không vũ khí. Bản thân anh cũng bị địch bắt, và thật là đau xót, anh bị chúng đốt cả mười đầu ngón tay bằng chính thứ nhựa xà nu vàng óng, thơm mát của quê hương mình. Đó là một bi kịch vô lí và đớn đau.
Còn Chiến và Việt, những đứa trẻ còn thơ, mới lớn đã phải chứng kiến cái chết đầy thương tâm của ông nội và bố, mẹ vừa phải vất vả nuôi con vừa phải đương đầu với những đe dọa, hạch sách của bọn giặc, cuối cùng cũng chết vì đạn bom.
Và những đau thương đó hun đúc tinh thần chiến đấu, lòng căm thù giặc sâu sắc của con người Việt Nam. Biến đau thương thành sức mạnh chiến đấu cũng là một biểu hiện của chủ nghĩa anh hùng cách mạng: Tnú lên đường đi “lực lượng” dù mỗi ngón tay mất đi một đốt, Chiến và Việt cùng vào bộ đội, coi việc đánh giặc trả nợ nước thù nhà là lẽ sống. Họ chiến đấu bởi sức mạnh của lòng căm thù giặc, cũng là bởi sức mạnh của tình yêu thương, vì: chỉ có cầm vũ khí đứng lên, ta mới có thể bảo vệ được những gì thiêng liêng nhất, bảo vệ tình yêu và sự sống. Chân lí đó đã được minh chứng qua số phận và con đường cách mạng của những người dân Nam Bộ trong hai tác phẩm trên, chân lí đó cũng được rút ra từ thực tế đau thương mất mát nên nó càng có giá trị, càng phải khắc sâu vào lòng người.
Chịu bao thương đau, mất mát nhưng họ đều mang phẩm chất anh hùng, bất khuất, là những con người Việt Nam kiên trung trong cuộc chiến đấu chống giặc ngoại xâm. Tnú là nhân vật được kết tinh từ vẻ đẹp tiêu biểu nhất của con người Tây Nguyên: gan góc, dũng cảm, mạnh mẽ và rất giàu lòng yêu thương. Trước hết, Tnú rất gắn bó với cách mạng. được cụ Mết chỉ bảo nên ngay từ lúc nhỏ, Tnú đã tham gia việc nuôi giấu cán bộ và hoàn thành xuất sắc công việc giao liên. Nhiều đêm Tnú phải ngủ lại trong rừng vì sợ lỡ giặc lùng ai dắt cán bộ chạy. Tnú luôn nghe lời chỉ huy của cán bộ. Được anh Quyết dạy chữ, Tnú khắc phục khó khăn, cố gắng học tập. Không có bảng, không có phấn, Tnú lấu nứa làm bảng và để ba ngày đường tới núi Ngọc Linh mang về một xà lết đầy đá trắng làm phấn. Khi Tnú tỏ ra chán nản vì mình tối dạ, học không nhớ được thì một lời động viên của anh Quyết đã truyền thêm sức mạnh tinh thần giúp Tnú cố gắng hơn. Tnú vô cùng gan dạ, dũng cảm. Ngay từ ngày làm giao liên, Tnú không bao giờ chịu đi đừng mòn, cứ xé rừng mà đi, lọt tất cả vào các vòng vây. Qua sông, Tnú không thích lội chỗ nước êm, cứ lựa chỗ thác mạnh mà bơi ngang. Khi bị giặc bắt, Tnú can đảm chịu những đòn tra tấn, để sau khi vượt ngục vẫn tiếp tục cùng cụ Mết lãnh đạo dân lang Xô Man mài giáo, mài rựa chống lại kẻ thù. Khi bản làng bị càn quét, vợ con Tnú bị giặc hành hạ, giết chết một cách giã man, nhất là khi anh bị thằng Dục tẩm nhựa xà nu để đốt mười ngón tay thành mười ngọn đuốc. Tnú càng thấm thía nỗi đau thương và căm thù giặc, dần dần nhận thức sâu sắc về kẻ thù và quyết tâm hành động. Anh ra đi “ lực lượng” quyết tiêu diệt cho hết kẻ thù tàn ác, bởi lẽ “ chúng nó đứa nào cũng là thằng Dục cả”. Ngoài ra Tnú là một con người giàu tình cảm yêu thương. Anh yêu thiết tha bản làng. Sinh ra và lớn lên giữa núi rừng Tây Nguyên hùng vĩ, giữa hững con người mộc mạc, thuần hậu, Tnú thấy gắn bó thân thiết với cảnh và người ở quê hương mình. Ba năm đi chiến đấu xa bản làng, khi trở về, Tnú vô cùng xú động. Anh nhớ rõ từng hàng cây, con đường, nơi mà ngày xưa Mai đã thổ lộ tình cảm yêu mến ngay khi anh mới ở tù về. Anh cũng bồi hồi khi ghe tiếng chày dã gạo của người dân làng, tiếng chày chuyên cần, rộn rã của những người đàn bà, những cô gái Strá, của mẹ anh ngày xưa mà suốt cuộc đời anh vẫn nhớ. Anh yêu thương vợ con tha thiết. Chính vì yêu thương rất nhiều nên anh căm tù sâu sắc bọn giặc đã dùng cây sắt đánh chết vợ con anh. Anh cũng yêu thương mọi người. Làng Xô Man đã dành cho anh một tình cảm đặc biệt nồng hậu, thân thiết. Những cặp mắt tròn xoe rồi những tiếng ré lên và những tiếng reo vui của mọi người đã thể hiện niềm vui mừng khi đón Tnú về làng. Vô cùng dũng cảm khi đối diện với kẻ thù, tha thiết yêu thương bản làng, quê hương, ấp ôm một kỉ niệm đớn đau về cái chết của vơ con, luôn luôn gắn bó với cách mạng, ở Tnú toát lên vẻ đẹp của người anh hùng trong sử thi Tây Nguyên và vẻ đẹp của chủ nghĩa anh hùng cách mạng thời chống Mỹ.
Còn với những đứa con trong gia đình, Trước hết là nhân vật Chiến , người con gái mang vẻ đẹp kiểu Út Tịch, một vẻ đẹp rất riêng của người phục nữ Nam bộ mà Nguyễn Thi vẫn hằng ưa thích: hồn nhiên, chất phác, tảo tần, biết lo toan việc nước, việc nhà trọn vẹn mọi bề trước sau, đánh giặc thì xông xáo, gan góc, dũng cảm mà trở về với cuộc sống thường nhật lại rất giàu tình cảm và long yêu thương. Trong kí ức của Việt, chị Chiến như là sự hiện thân, sự kế thừa của má. Chị Chiến cũng mang vóc dáng của mẹ mình” hai bắp tay tròn vo, sạm đỏ màu cháy nắng... thân người to và chắc nịch”. Đặc biệt nhất là cai đêm hai chị em sắp xa nhà đi bộ đội. Phải tự mình đứng ra lo liệu việc nhà, thu xếp để cùng Việt lê đường, Chiến mới bộc lộ hết tính cách người lớn, đảm đang, tháo vát, biết thay mẹ quán xuyến, cắt đặt mọi việc trong nhà đâu ra đấy, từ việc em út, nhà cửa, ruộng vườn, cho đến cả cái giường, ván và nơi gửi bàn thờ má. Chưa bao giờ Việt lại thấy chị Chiến liệu việc nhà giống má đến như vậy :” Chà, chị Chiến bữa nay nói in hệt má vậy. Cũng ở trong giường mà nói với ra, cũng nằm với thằng út em, ở trên cái giường đó”. Chính Chiến đêm ấy cũng thấy mình như đang hoà vào mẹ. Cho nên không phải ngẫu nhiên đén sáng hôm sau. khi nghe Chiến trình bày lại sự sắp đặt của mình, chú Năm đã phải khen “ Khôn, việc nhà nó thu được gọn thì việc nước nó mới mở được rộng, gọn bề gia thế đặng bề nước non...” Hai chị em đều là những chiến sĩ dũng cảm tuy tuổi đều còn nhỏ, nhưng so với Việt, Chiến chỉ hơn Việt một tuổi mà đã người lớn hơn hẳn Việt. Chiến cũng gắn bó với lớp người đi trước nhiều hơn. Vì có thể bỏ cả ăn để đánh vần cuốn sổ truyền thống của gia đình. không chỉ giống má, Chiến còn học được cả cách nói “ trọng trọng” của chú Năm. Ví truyền thống cách mạng của cả gia đình là một dòng sông và mỗi người là một khúc sông của dòng sông ấy thì so với lớp người đi trước, Chiến là một khúc sông sau. Khúc sông bao giờ cũng chảy được xa hơn khúc sông trước. Đấy cũng là chõ để Chiến khác với mẹ mình. Người mẹ trước nỗi đau mất chồn đã không có dịp nào được cầm súng, còn Chiến đã được đi bộ đội để đánh giặc trả thù nhà với quyết tâm : Tao đã thưa với chú Năm rồi, đã làm thân con gái ra đi thì tao chỉ có một câu: nếu giặc còn thì tao mất, vậy à”. và Chiến đã lập được nhiều chiến công lớn, bắn chìm tàu chiến của địch trên sông Dịch Thuỷ, trở thành một tiểu đội trưởng của bộ đội nữ địa phương quân tỉnh Bến Tre....
Việt là hình tượng nhân vật xuất hiện nhiều hơn cả và cũng chịu đựng nhiều nét tâm lí, tính cách khá độc đáo. người đọc thích nhân vật này trước hết ở cái vẻ ngoài lộc ngộc, vô lo vô nghĩa của cậu con trai đang tuổi ăn tuổi lớn. nhưng sự trẻ con vô tư vẫn khong ngă cản Việt trở thành một dũng sĩ diệt Mỹ. Ngựợc lại chính nó càng làm cho phẩm chất anh hùng của Việt ngày thêm độc đáo. Đọc truyện ta chưa thấy lúc nào Việt hết ngây thơ, nhưng ta vẫn chưa thấy lúc nào Việc phải chịu khuất phục trước sự tàn bạo của quân giặc. Ngay từ lúc còn bé tí, Việt đã dám xông vào đá cái thằng giặc đã giết cha mình. Đến lúc bị thương nặng, nằm lại một mình giữa chiến trương mênh mông bóng tối, đôi mắt không còn nhìn thấy gì và hai bàn tay còn tê nhức đến dại đi, vậy mà lúc tỉnh lại, nghe tiếng trực thăng trên đầu và tiếng pháo cày trước mặt vẫn ăn thua sống mái vói quân thù: “ trên trời có mày, dưới đất có mày, khu rừng này còn có mình tao. Mày có bắn tao thì tao cũng bắn được mày”. Cứ vậy, Việt coi việc đi đánh giặc nó cũng tự nhiên như chuyện đi bắt ếch hay đi bắn ná thun thôi, đánh giặc kì cho đến lúc đền được nợ nước, trả xong thù nhà thì cũng là chuyện tự nhiên thường tình, chứ có gì đâu mà phải bắn hay nghỉ ngơi. Việt chính là hiện thân của khí thế tiến công của thời đại và cùng với chị Chiến “ những người con trong gia đình” đã thật sự cứng cáp, trưởng thành, chững chạc trong tư thế người anh hùng.
Và chủ nghĩa anh hùng cách mạng không chỉ thể hiện ở từng nhân vật , mà còn thể hiện ở tập thể nhân vật anh hùng, và mỗi nhân vật đều tượng trưng cho phẩm chất của cả cộng đồng: Cụ Mết, Mai, Dít, Heng trong “Rừng xà nu”; ba, má, chú Năm trong “Những đứa con trong gia đình”. Họ đều là những con người yêu quê hương đất nước, gắn bó với buôn làng, với gia đình, với người thân yêu. Tình yêu tổ quốc của họ bắt đầu từ những tình cảm bình dị đó, cho nên nó càng bền bỉ, càng có sức mạnh lớn lao khiến kẻ thù phải run sợ. Như vậy, các nhân vật của hai truyện ngắn đều đã vượt lên nỗi đau và bi kịch cá nhân để sống có ích cho đất nước. Những đau thương của họ cũng chính là đau thương của dân tộc trong những năm tháng thương đau của chiến tranh. Tinh thần quả cảm, kiên cường của họ cũng chính là tinh thần của cả dân tộc Việt Nam, là biểu hiện cao đẹp của chủ nghĩa anh hùng cách mạng.
Chủ nghĩa anh hùng cách mạng còn thể hiện ở sức sống bất diệt của con người Việt Nam trong cuộc chiến đấu ác liệt: Dân làng Xô Man như rừng cây xà nu mặc dù “ Trong rừng hàng vạn cây, không cây nào không bị thương”, nhưng vẫn “ ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho làng”, một cây ngã xuống thì bốn năm cây con mọc lên. Mai hi sinh thì Dít vươn lên thay thế, Heng như cây xà nu non hứa hẹn trở thành cây xà nu cường tráng tiếp nối cha anh. Tầng tầng, lớp lớp những người dân Xô Man Tây Nguyên tiếp nối đứng lên kiên cường chiến đấu với quân thù để bảo vệ quê hương đất nước mình. còn trong những đứa con trong gia đình, Ông nội bị giặc giết, cha của Chiến và Việt trở thành cán bộ Việt Minh, cha bị giết hại dã man, má Việt tiếp tục nuôi con và chiến đấu, đến khi má ngã xuống thì anh em Chiến và Việt lại tiếp nối con đường chiến đấu, thực hiện lí tưởng của gia đình, và trong dòng sông truyền thống của gia đình, họ là khúc sông sau nên hứa hẹn đi xa hơn cả thế hệ trước. Sự tiếp nối và kế thừa đó đã làm nên chủ nghĩa anh hùng cách mạng của con người Việt Nam thời chống Mĩ, là sức sống bất diệt giúp họ vượt qua bao đau thương do kẻ thù gây ra để tiếp tục chiến đấu và chiến thắng.
Nghệ thuật sử thi với những vấn đề cơ bản nhất, có ý nghĩa sống còn của đất nước đã góp phần phản ánh sâu sắc chủ nghĩa anh hùng cách mạng yêu nước. Đó là những lời ngợi ca, thấm đẫm cảm hứng lãng mạn cách mạng, ngợi ca phẩm chất anh hùng của con người Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ, những con người tiêu biểu cho cộng đồng về lí tưởng và phẩm chất, nhân danh cộng đồng mà chiến đấu, hi sinh.
Chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam thời đại chống Mĩ hiện diện trên khắp mọi miền của đất nước. Từ nông thôn đến thành thị, từ miền ngược đến miền xuôi, từ đồng bằng đến miền núi. Tất cả tạo nên một sức mạnh long trời lở đất để “ nhấn chìm lũ bán nước và quân cướp nước”. Hai tác phẩm với Cuộc đời và sự hi sinh của những con người Việt Nam anh hùng mãi mãi là bản anh hùng ca tuyệt đẹp cho các thế hệ Việt Nam noi theo.
Chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong là sự thể hiện của lòng yêu nước thiết tha, căm thù giặc sâu sắc, tinh thần chiến đấu bất khuất chống lại kẻ thù xâm lược để bảo vệ tổ quốc của con người Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, là sự trung thành với lí tưởng cách mạng được thử thách trong những hoàn cảnh khốc liệt, qua đó bộc lộ được vẻ đẹp của phẩm chất anh hùng có tính chất tiêu biểu cho cả dân tộc.
Cả hai tác giả Nguyễn Trung Thành và Nguyễn Thi đều gắn bó với cuộc chiến đấu chống Mĩ, là những nhà văn chiến sĩ ở tuyến đầu máu lửa à Tác phẩm của họ mang hơi thở nóng hổi của cuộc chiến đấu với những hình tượng nhân vật sinh động, bước vào văn học từ thực tế chiến đấu. Nguyễn Trung Thành sinh 1932, khi mới 18 tuổi, năm 1950, ông đã vào bộ đội, sau đó làm phóng viên báo quân đội nhân dân Liên khu V, những năm tháng lăn lộn trong cuộc kháng chiến chống Pháp ở Liên khu V đã giúp ông hiểu biết sâu sắc về Tây Nguyên, để sau khi tập kết ra Bắc có thể viết những cuốn tiểu thuyết cho sự nghiệp văn chương của mình thấm đẫm tinh thần cách mạng dân tộc. Còn Nguyễn Thi sinh năm 1928, khi mới 17 tuổi, năm 1945, ông đã tham gia cách mạng rồi gia nhập lực lượng vũ trang. Ông trở thành một trong những cây bút văn xuôi hàng đầu của văn nghệ giải phóng miền Nam thời ì kháng chiến chống Mỹ. Chính từ những năm tháng tham gia chiến đấu đó, Hai truyện ngắn “Rừng xà nu” ( 1965), “Những đứa con trong gia đình” (1966) đều ra đời trong giai đoạn ác liệt của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, khi đế quốc Mĩ đổ quân vào miền Nam nước ta, dân tộc ta đứng trước trận chiến một mất một còn để bảo vệ độc lập tự do, bảo vệ quyền sống. Đó là bối cảnh lịch sử để từ đó hai tác phẩm ngợi ca chủ nghĩa anh hùng cách mạng, với chất sử thi đậm đà.
Những nhân vật chính trong hai câu chuyện đều là là những người con được sinh ra từ truyền thống bất khuất của gia đình, của quê hương, của dân tộc. Làng Xô Man- quê hương Tnú ở trong tầm đại bác của giặc, nơi mà từng người dân đều hướng về cách mạng, bảo vệ cán bộ “ Đảng còn thì núi nước này còn”. Còn Chiến và Việt sinh ra trong gia đình có truyền thống yêu nước, căm thù giặc: Cha là cán bộ cách mạng, má là người phụ nữ Nam bộ kiên cường trong đấu tranh, hai con tiếp nối lí tưởng của cha mẹ.
Những con người đó đã chịu nhiều đau thương, mất mát do kẻ thù gây ra, tiêu biểu cho đau thương mất mát của cả dân tộc. Tnú có một mối tình với Mai đẹp tựa như trong truyện truyền kì, cuộc đời còn hứa hẹn biết bao hạnh phúc ở trước mắt nhưng chính Tnú lại có một số phận đầy bi kịch. Kẻ thù đã bắt vợ con anh và tra tấn họ đến chết. Tnú tận mắt chứng kiến tất cả và lòng căm thù, long yêu thương đã khiến đôi mắt anh hiện lên như hai hòn lửa lớn. Anh lao thẳng vào lũ giặc nhưng vẫn không thể cứu được vợ con, vì anh chỉ có hai bàn tay trắng, không vũ khí. Bản thân anh cũng bị địch bắt, và thật là đau xót, anh bị chúng đốt cả mười đầu ngón tay bằng chính thứ nhựa xà nu vàng óng, thơm mát của quê hương mình. Đó là một bi kịch vô lí và đớn đau.
Còn Chiến và Việt, những đứa trẻ còn thơ, mới lớn đã phải chứng kiến cái chết đầy thương tâm của ông nội và bố, mẹ vừa phải vất vả nuôi con vừa phải đương đầu với những đe dọa, hạch sách của bọn giặc, cuối cùng cũng chết vì đạn bom.
Và những đau thương đó hun đúc tinh thần chiến đấu, lòng căm thù giặc sâu sắc của con người Việt Nam. Biến đau thương thành sức mạnh chiến đấu cũng là một biểu hiện của chủ nghĩa anh hùng cách mạng: Tnú lên đường đi “lực lượng” dù mỗi ngón tay mất đi một đốt, Chiến và Việt cùng vào bộ đội, coi việc đánh giặc trả nợ nước thù nhà là lẽ sống. Họ chiến đấu bởi sức mạnh của lòng căm thù giặc, cũng là bởi sức mạnh của tình yêu thương, vì: chỉ có cầm vũ khí đứng lên, ta mới có thể bảo vệ được những gì thiêng liêng nhất, bảo vệ tình yêu và sự sống. Chân lí đó đã được minh chứng qua số phận và con đường cách mạng của những người dân Nam Bộ trong hai tác phẩm trên, chân lí đó cũng được rút ra từ thực tế đau thương mất mát nên nó càng có giá trị, càng phải khắc sâu vào lòng người.
Chịu bao thương đau, mất mát nhưng họ đều mang phẩm chất anh hùng, bất khuất, là những con người Việt Nam kiên trung trong cuộc chiến đấu chống giặc ngoại xâm. Tnú là nhân vật được kết tinh từ vẻ đẹp tiêu biểu nhất của con người Tây Nguyên: gan góc, dũng cảm, mạnh mẽ và rất giàu lòng yêu thương. Trước hết, Tnú rất gắn bó với cách mạng. được cụ Mết chỉ bảo nên ngay từ lúc nhỏ, Tnú đã tham gia việc nuôi giấu cán bộ và hoàn thành xuất sắc công việc giao liên. Nhiều đêm Tnú phải ngủ lại trong rừng vì sợ lỡ giặc lùng ai dắt cán bộ chạy. Tnú luôn nghe lời chỉ huy của cán bộ. Được anh Quyết dạy chữ, Tnú khắc phục khó khăn, cố gắng học tập. Không có bảng, không có phấn, Tnú lấu nứa làm bảng và để ba ngày đường tới núi Ngọc Linh mang về một xà lết đầy đá trắng làm phấn. Khi Tnú tỏ ra chán nản vì mình tối dạ, học không nhớ được thì một lời động viên của anh Quyết đã truyền thêm sức mạnh tinh thần giúp Tnú cố gắng hơn. Tnú vô cùng gan dạ, dũng cảm. Ngay từ ngày làm giao liên, Tnú không bao giờ chịu đi đừng mòn, cứ xé rừng mà đi, lọt tất cả vào các vòng vây. Qua sông, Tnú không thích lội chỗ nước êm, cứ lựa chỗ thác mạnh mà bơi ngang. Khi bị giặc bắt, Tnú can đảm chịu những đòn tra tấn, để sau khi vượt ngục vẫn tiếp tục cùng cụ Mết lãnh đạo dân lang Xô Man mài giáo, mài rựa chống lại kẻ thù. Khi bản làng bị càn quét, vợ con Tnú bị giặc hành hạ, giết chết một cách giã man, nhất là khi anh bị thằng Dục tẩm nhựa xà nu để đốt mười ngón tay thành mười ngọn đuốc. Tnú càng thấm thía nỗi đau thương và căm thù giặc, dần dần nhận thức sâu sắc về kẻ thù và quyết tâm hành động. Anh ra đi “ lực lượng” quyết tiêu diệt cho hết kẻ thù tàn ác, bởi lẽ “ chúng nó đứa nào cũng là thằng Dục cả”. Ngoài ra Tnú là một con người giàu tình cảm yêu thương. Anh yêu thiết tha bản làng. Sinh ra và lớn lên giữa núi rừng Tây Nguyên hùng vĩ, giữa hững con người mộc mạc, thuần hậu, Tnú thấy gắn bó thân thiết với cảnh và người ở quê hương mình. Ba năm đi chiến đấu xa bản làng, khi trở về, Tnú vô cùng xú động. Anh nhớ rõ từng hàng cây, con đường, nơi mà ngày xưa Mai đã thổ lộ tình cảm yêu mến ngay khi anh mới ở tù về. Anh cũng bồi hồi khi ghe tiếng chày dã gạo của người dân làng, tiếng chày chuyên cần, rộn rã của những người đàn bà, những cô gái Strá, của mẹ anh ngày xưa mà suốt cuộc đời anh vẫn nhớ. Anh yêu thương vợ con tha thiết. Chính vì yêu thương rất nhiều nên anh căm tù sâu sắc bọn giặc đã dùng cây sắt đánh chết vợ con anh. Anh cũng yêu thương mọi người. Làng Xô Man đã dành cho anh một tình cảm đặc biệt nồng hậu, thân thiết. Những cặp mắt tròn xoe rồi những tiếng ré lên và những tiếng reo vui của mọi người đã thể hiện niềm vui mừng khi đón Tnú về làng. Vô cùng dũng cảm khi đối diện với kẻ thù, tha thiết yêu thương bản làng, quê hương, ấp ôm một kỉ niệm đớn đau về cái chết của vơ con, luôn luôn gắn bó với cách mạng, ở Tnú toát lên vẻ đẹp của người anh hùng trong sử thi Tây Nguyên và vẻ đẹp của chủ nghĩa anh hùng cách mạng thời chống Mỹ.
Còn với những đứa con trong gia đình, Trước hết là nhân vật Chiến , người con gái mang vẻ đẹp kiểu Út Tịch, một vẻ đẹp rất riêng của người phục nữ Nam bộ mà Nguyễn Thi vẫn hằng ưa thích: hồn nhiên, chất phác, tảo tần, biết lo toan việc nước, việc nhà trọn vẹn mọi bề trước sau, đánh giặc thì xông xáo, gan góc, dũng cảm mà trở về với cuộc sống thường nhật lại rất giàu tình cảm và long yêu thương. Trong kí ức của Việt, chị Chiến như là sự hiện thân, sự kế thừa của má. Chị Chiến cũng mang vóc dáng của mẹ mình” hai bắp tay tròn vo, sạm đỏ màu cháy nắng... thân người to và chắc nịch”. Đặc biệt nhất là cai đêm hai chị em sắp xa nhà đi bộ đội. Phải tự mình đứng ra lo liệu việc nhà, thu xếp để cùng Việt lê đường, Chiến mới bộc lộ hết tính cách người lớn, đảm đang, tháo vát, biết thay mẹ quán xuyến, cắt đặt mọi việc trong nhà đâu ra đấy, từ việc em út, nhà cửa, ruộng vườn, cho đến cả cái giường, ván và nơi gửi bàn thờ má. Chưa bao giờ Việt lại thấy chị Chiến liệu việc nhà giống má đến như vậy :” Chà, chị Chiến bữa nay nói in hệt má vậy. Cũng ở trong giường mà nói với ra, cũng nằm với thằng út em, ở trên cái giường đó”. Chính Chiến đêm ấy cũng thấy mình như đang hoà vào mẹ. Cho nên không phải ngẫu nhiên đén sáng hôm sau. khi nghe Chiến trình bày lại sự sắp đặt của mình, chú Năm đã phải khen “ Khôn, việc nhà nó thu được gọn thì việc nước nó mới mở được rộng, gọn bề gia thế đặng bề nước non...” Hai chị em đều là những chiến sĩ dũng cảm tuy tuổi đều còn nhỏ, nhưng so với Việt, Chiến chỉ hơn Việt một tuổi mà đã người lớn hơn hẳn Việt. Chiến cũng gắn bó với lớp người đi trước nhiều hơn. Vì có thể bỏ cả ăn để đánh vần cuốn sổ truyền thống của gia đình. không chỉ giống má, Chiến còn học được cả cách nói “ trọng trọng” của chú Năm. Ví truyền thống cách mạng của cả gia đình là một dòng sông và mỗi người là một khúc sông của dòng sông ấy thì so với lớp người đi trước, Chiến là một khúc sông sau. Khúc sông bao giờ cũng chảy được xa hơn khúc sông trước. Đấy cũng là chõ để Chiến khác với mẹ mình. Người mẹ trước nỗi đau mất chồn đã không có dịp nào được cầm súng, còn Chiến đã được đi bộ đội để đánh giặc trả thù nhà với quyết tâm : Tao đã thưa với chú Năm rồi, đã làm thân con gái ra đi thì tao chỉ có một câu: nếu giặc còn thì tao mất, vậy à”. và Chiến đã lập được nhiều chiến công lớn, bắn chìm tàu chiến của địch trên sông Dịch Thuỷ, trở thành một tiểu đội trưởng của bộ đội nữ địa phương quân tỉnh Bến Tre....
Việt là hình tượng nhân vật xuất hiện nhiều hơn cả và cũng chịu đựng nhiều nét tâm lí, tính cách khá độc đáo. người đọc thích nhân vật này trước hết ở cái vẻ ngoài lộc ngộc, vô lo vô nghĩa của cậu con trai đang tuổi ăn tuổi lớn. nhưng sự trẻ con vô tư vẫn khong ngă cản Việt trở thành một dũng sĩ diệt Mỹ. Ngựợc lại chính nó càng làm cho phẩm chất anh hùng của Việt ngày thêm độc đáo. Đọc truyện ta chưa thấy lúc nào Việt hết ngây thơ, nhưng ta vẫn chưa thấy lúc nào Việc phải chịu khuất phục trước sự tàn bạo của quân giặc. Ngay từ lúc còn bé tí, Việt đã dám xông vào đá cái thằng giặc đã giết cha mình. Đến lúc bị thương nặng, nằm lại một mình giữa chiến trương mênh mông bóng tối, đôi mắt không còn nhìn thấy gì và hai bàn tay còn tê nhức đến dại đi, vậy mà lúc tỉnh lại, nghe tiếng trực thăng trên đầu và tiếng pháo cày trước mặt vẫn ăn thua sống mái vói quân thù: “ trên trời có mày, dưới đất có mày, khu rừng này còn có mình tao. Mày có bắn tao thì tao cũng bắn được mày”. Cứ vậy, Việt coi việc đi đánh giặc nó cũng tự nhiên như chuyện đi bắt ếch hay đi bắn ná thun thôi, đánh giặc kì cho đến lúc đền được nợ nước, trả xong thù nhà thì cũng là chuyện tự nhiên thường tình, chứ có gì đâu mà phải bắn hay nghỉ ngơi. Việt chính là hiện thân của khí thế tiến công của thời đại và cùng với chị Chiến “ những người con trong gia đình” đã thật sự cứng cáp, trưởng thành, chững chạc trong tư thế người anh hùng.
Và chủ nghĩa anh hùng cách mạng không chỉ thể hiện ở từng nhân vật , mà còn thể hiện ở tập thể nhân vật anh hùng, và mỗi nhân vật đều tượng trưng cho phẩm chất của cả cộng đồng: Cụ Mết, Mai, Dít, Heng trong “Rừng xà nu”; ba, má, chú Năm trong “Những đứa con trong gia đình”. Họ đều là những con người yêu quê hương đất nước, gắn bó với buôn làng, với gia đình, với người thân yêu. Tình yêu tổ quốc của họ bắt đầu từ những tình cảm bình dị đó, cho nên nó càng bền bỉ, càng có sức mạnh lớn lao khiến kẻ thù phải run sợ. Như vậy, các nhân vật của hai truyện ngắn đều đã vượt lên nỗi đau và bi kịch cá nhân để sống có ích cho đất nước. Những đau thương của họ cũng chính là đau thương của dân tộc trong những năm tháng thương đau của chiến tranh. Tinh thần quả cảm, kiên cường của họ cũng chính là tinh thần của cả dân tộc Việt Nam, là biểu hiện cao đẹp của chủ nghĩa anh hùng cách mạng.
Chủ nghĩa anh hùng cách mạng còn thể hiện ở sức sống bất diệt của con người Việt Nam trong cuộc chiến đấu ác liệt: Dân làng Xô Man như rừng cây xà nu mặc dù “ Trong rừng hàng vạn cây, không cây nào không bị thương”, nhưng vẫn “ ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho làng”, một cây ngã xuống thì bốn năm cây con mọc lên. Mai hi sinh thì Dít vươn lên thay thế, Heng như cây xà nu non hứa hẹn trở thành cây xà nu cường tráng tiếp nối cha anh. Tầng tầng, lớp lớp những người dân Xô Man Tây Nguyên tiếp nối đứng lên kiên cường chiến đấu với quân thù để bảo vệ quê hương đất nước mình. còn trong những đứa con trong gia đình, Ông nội bị giặc giết, cha của Chiến và Việt trở thành cán bộ Việt Minh, cha bị giết hại dã man, má Việt tiếp tục nuôi con và chiến đấu, đến khi má ngã xuống thì anh em Chiến và Việt lại tiếp nối con đường chiến đấu, thực hiện lí tưởng của gia đình, và trong dòng sông truyền thống của gia đình, họ là khúc sông sau nên hứa hẹn đi xa hơn cả thế hệ trước. Sự tiếp nối và kế thừa đó đã làm nên chủ nghĩa anh hùng cách mạng của con người Việt Nam thời chống Mĩ, là sức sống bất diệt giúp họ vượt qua bao đau thương do kẻ thù gây ra để tiếp tục chiến đấu và chiến thắng.
Nghệ thuật sử thi với những vấn đề cơ bản nhất, có ý nghĩa sống còn của đất nước đã góp phần phản ánh sâu sắc chủ nghĩa anh hùng cách mạng yêu nước. Đó là những lời ngợi ca, thấm đẫm cảm hứng lãng mạn cách mạng, ngợi ca phẩm chất anh hùng của con người Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ, những con người tiêu biểu cho cộng đồng về lí tưởng và phẩm chất, nhân danh cộng đồng mà chiến đấu, hi sinh.
Chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam thời đại chống Mĩ hiện diện trên khắp mọi miền của đất nước. Từ nông thôn đến thành thị, từ miền ngược đến miền xuôi, từ đồng bằng đến miền núi. Tất cả tạo nên một sức mạnh long trời lở đất để “ nhấn chìm lũ bán nước và quân cướp nước”. Hai tác phẩm với Cuộc đời và sự hi sinh của những con người Việt Nam anh hùng mãi mãi là bản anh hùng ca tuyệt đẹp cho các thế hệ Việt Nam noi theo.