rubi_mos2002
New member
- Xu
- 0
Tham khảo : Are Dogs More Intelligent than Cats?
Dogs are smarter than cats and their advantage by Stanley Coren, Ph.D., F.R.S.C. in Canine Corner
So sánh trí thông minh của các động vật thuộc những loài khác nhau là khó khăn dù người ta đã thiết kế những bài kiểm tra được chứng minh là hữu ích. Thực hiện những bài kiểm tra tương đương cho cá heo sống ở dưới nước và một con ngựa sống ở mặt đất rõ ràng là phức tạp và có lẽ là không khả thi. Trong trường hợp của chó và mèo, chúng ta cũng có một rắc rối vì mỗi loài chuyên về những thứ khác nhau. Chó chạy tốt hơn mèo Trong khi đó mèo có khả năng thao tác với đồ vật bằng chân tốt hơn. Do đó một bài kiểm tra bao gồm việc kéo duỗi hoặc nâng hạ có xu hướng có lợi cho mèo, trong khi đó một bài kiểm tra bao gồm việc di chuyển từ nơi này đến nơi khác ( tốc độ là tiêu chí đánh giá khả năng ) thì có lợi cho chó. Charles Darwin nói, " trí thông minh dựa trên tính hiệu quả của một loài khi thực hiện điều gì cần thiết để sinh tồn," và bạn có thể tranh luận theo định nghĩa này thì tất cả các loài sống khỏe mạnh , duy trì số lượng loài và tránh bị tuyệt chủng là thông minh như nhau.
Bởi vì gặp những vấn đề trong việc đánh giá trí thông minh nên các nhà tâm lý học và sinh học đã tìm kiếm một kỹ thuật nhằm đánh giá trí thông minh mà không đòi hỏi những bài kiểm tra cụ thể hoặc thậm chí là sự hợp tác của các động vật. Điều này bắt đầu với tranh luận rằng , một bộ não to hơn thì phải thông minh hơn vì nó cho phép lưu giữ nhiều trí nhớ hơn và nhanh hơn , đơn giản vì nó có nhiều nơ ron và những kết nối. Ví dụ, một người với kích thước não là 1500 cm3 sẽ có trung bình 600 triệu tế bào thần kinh vỏ não hơn một người với kích thước não là 1400 cm3 .
Ở so sánh thứ nhất chúng ta thấy loài người có bộ não lớn hơn ( trung bình 1400 grams ) khỉ ( 97 grams ) , chó ( trung bình 72 grams ) , và điều này tạo nên ấn tượng chung của chúng ta về tương quan trí thông minh giữa các loài. Tuy nhiên nếu chúng ta sử dụng một mình trọng lượng bộ não , chúng ta buộc phải kết luận rằng voi với bộ não 6000 gram thì thông minh hơn loài người, và cá voi là thiên tài của trái đất với bộ não trung bình 7800 grams. Vấn đề là những động vật to lớn hơn thì có Bộ não lớn hơn. Chúng cần bộ não lớn để kiểm soát những chuyển động của những khối cơ bắp lớn. Chúng cũng cần một bộ não lớn để truyền thông tin cảm giác - Ví dụ, mỗi cm2 da trên bề mặt sẽ cần nhiều nơ ron vỏ não hơn để truyền những cảm giác như nóng, lạnh , đụng chạm và đau từ những vùng của cơ thể.
Cuối thập niên 70, nhà tâm lý học Harry J. Jerison phát triển một phương pháp thay thế được gọi là EQ ( Encephalization Quotient ). Đó là một so sánh toán học của trọng lượng não thực sự của một động vật so với khối lượng não được kì vọng cho kích thước cơ thể động vật đó. Dựa vào EQ thì động vật thông Minh nhất hành tinh là loài người, tiếp theo là dã nhân , cá heo và voi, chó. Mèo đứng sau chó. Như một quy luật chung, những động vật kiếm ăn bằng cách săn mồi thì thông minh hơn động vật ăn cỏ ( vì bạn không cần nhiều trí thông minh để khôn/ láu cá hơn một cái lá.
Yếu tố khác rất quan trọng là mức độ xã hội của loài động vật. Những động vật sống trong những nhóm xã hội thì luôn luôn thông minh hơn và có EQ lớn hơn những động vật sống đơn độc. Điều này bởi vì những động vật xã hội phải tham gia vào việc giải quyết vấn đề mỗi lần chúng tương tác với những động vật khác trong nhóm. Kiểu như " nếu tôi làm điều này, sau đó anh ấy sẽ làm điều kia, do đó tôi có thể làm điều khác." Điều này nghĩa là những con tinh tinh thì thông minh hơn những con orangutan đơn độc. Và chó thông minh hơn mèo vì chó là động vật mang tính xã hội hơn mèo và sự tương tác của chúng trong bầy đàn thường bao gồm những hành vi phức tạp.
Một vài tư liệu gần đây được cung cấp bởi Suzanne Shultz và Robin Dunbar ở trường đại học Oxford , hon tự hỏi liệu có những sự thay đổi mang tính tiến hoá trong dữ liệu Encephalization. Ví dụ, khi chúng ta thuần hoá động vật , đặc biệt như một con chó, chúng ta đang đặt ra những yêu cầu mới lên con chó. Một số yêu cầu mang tính xã hội như hiểu những từ ngữ và điệu bộ giao tiếp của loài người. Chó dễ bị thuần phục bởi sức ép này nhiều hơn mèo. Do đó chúng ta có thể kì vọng là chó sẽ gia tăng chỉ số EQ hơn mèo. Điều này đã được xác minh bởi các nhà nghiên cứu trường Oxford. Nghĩa là chó không chỉ thông minh hơn mào mà khoảng cách giữa hai loài này đang gia tăng theo thời gian.
Dogs are smarter than cats and their advantage by Stanley Coren, Ph.D., F.R.S.C. in Canine Corner
So sánh trí thông minh của các động vật thuộc những loài khác nhau là khó khăn dù người ta đã thiết kế những bài kiểm tra được chứng minh là hữu ích. Thực hiện những bài kiểm tra tương đương cho cá heo sống ở dưới nước và một con ngựa sống ở mặt đất rõ ràng là phức tạp và có lẽ là không khả thi. Trong trường hợp của chó và mèo, chúng ta cũng có một rắc rối vì mỗi loài chuyên về những thứ khác nhau. Chó chạy tốt hơn mèo Trong khi đó mèo có khả năng thao tác với đồ vật bằng chân tốt hơn. Do đó một bài kiểm tra bao gồm việc kéo duỗi hoặc nâng hạ có xu hướng có lợi cho mèo, trong khi đó một bài kiểm tra bao gồm việc di chuyển từ nơi này đến nơi khác ( tốc độ là tiêu chí đánh giá khả năng ) thì có lợi cho chó. Charles Darwin nói, " trí thông minh dựa trên tính hiệu quả của một loài khi thực hiện điều gì cần thiết để sinh tồn," và bạn có thể tranh luận theo định nghĩa này thì tất cả các loài sống khỏe mạnh , duy trì số lượng loài và tránh bị tuyệt chủng là thông minh như nhau.
Bởi vì gặp những vấn đề trong việc đánh giá trí thông minh nên các nhà tâm lý học và sinh học đã tìm kiếm một kỹ thuật nhằm đánh giá trí thông minh mà không đòi hỏi những bài kiểm tra cụ thể hoặc thậm chí là sự hợp tác của các động vật. Điều này bắt đầu với tranh luận rằng , một bộ não to hơn thì phải thông minh hơn vì nó cho phép lưu giữ nhiều trí nhớ hơn và nhanh hơn , đơn giản vì nó có nhiều nơ ron và những kết nối. Ví dụ, một người với kích thước não là 1500 cm3 sẽ có trung bình 600 triệu tế bào thần kinh vỏ não hơn một người với kích thước não là 1400 cm3 .
Ở so sánh thứ nhất chúng ta thấy loài người có bộ não lớn hơn ( trung bình 1400 grams ) khỉ ( 97 grams ) , chó ( trung bình 72 grams ) , và điều này tạo nên ấn tượng chung của chúng ta về tương quan trí thông minh giữa các loài. Tuy nhiên nếu chúng ta sử dụng một mình trọng lượng bộ não , chúng ta buộc phải kết luận rằng voi với bộ não 6000 gram thì thông minh hơn loài người, và cá voi là thiên tài của trái đất với bộ não trung bình 7800 grams. Vấn đề là những động vật to lớn hơn thì có Bộ não lớn hơn. Chúng cần bộ não lớn để kiểm soát những chuyển động của những khối cơ bắp lớn. Chúng cũng cần một bộ não lớn để truyền thông tin cảm giác - Ví dụ, mỗi cm2 da trên bề mặt sẽ cần nhiều nơ ron vỏ não hơn để truyền những cảm giác như nóng, lạnh , đụng chạm và đau từ những vùng của cơ thể.
Cuối thập niên 70, nhà tâm lý học Harry J. Jerison phát triển một phương pháp thay thế được gọi là EQ ( Encephalization Quotient ). Đó là một so sánh toán học của trọng lượng não thực sự của một động vật so với khối lượng não được kì vọng cho kích thước cơ thể động vật đó. Dựa vào EQ thì động vật thông Minh nhất hành tinh là loài người, tiếp theo là dã nhân , cá heo và voi, chó. Mèo đứng sau chó. Như một quy luật chung, những động vật kiếm ăn bằng cách săn mồi thì thông minh hơn động vật ăn cỏ ( vì bạn không cần nhiều trí thông minh để khôn/ láu cá hơn một cái lá.
Yếu tố khác rất quan trọng là mức độ xã hội của loài động vật. Những động vật sống trong những nhóm xã hội thì luôn luôn thông minh hơn và có EQ lớn hơn những động vật sống đơn độc. Điều này bởi vì những động vật xã hội phải tham gia vào việc giải quyết vấn đề mỗi lần chúng tương tác với những động vật khác trong nhóm. Kiểu như " nếu tôi làm điều này, sau đó anh ấy sẽ làm điều kia, do đó tôi có thể làm điều khác." Điều này nghĩa là những con tinh tinh thì thông minh hơn những con orangutan đơn độc. Và chó thông minh hơn mèo vì chó là động vật mang tính xã hội hơn mèo và sự tương tác của chúng trong bầy đàn thường bao gồm những hành vi phức tạp.
Một vài tư liệu gần đây được cung cấp bởi Suzanne Shultz và Robin Dunbar ở trường đại học Oxford , hon tự hỏi liệu có những sự thay đổi mang tính tiến hoá trong dữ liệu Encephalization. Ví dụ, khi chúng ta thuần hoá động vật , đặc biệt như một con chó, chúng ta đang đặt ra những yêu cầu mới lên con chó. Một số yêu cầu mang tính xã hội như hiểu những từ ngữ và điệu bộ giao tiếp của loài người. Chó dễ bị thuần phục bởi sức ép này nhiều hơn mèo. Do đó chúng ta có thể kì vọng là chó sẽ gia tăng chỉ số EQ hơn mèo. Điều này đã được xác minh bởi các nhà nghiên cứu trường Oxford. Nghĩa là chó không chỉ thông minh hơn mào mà khoảng cách giữa hai loài này đang gia tăng theo thời gian.