H
HuyNam
Guest
Chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước
Chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta được xây dựng một mặt dựa trên quan điểm cơ bản của học thuyết Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về tín ngưỡng, tôn giáo; mặt khác căn cứ vào đặc điểm tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam. Tư tưởng nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước ta là tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân.
Việt Nam là một nước đa tín ngưỡng, tôn giáo với khoảng hơn 20 triệu tín đồ theo các tôn giáo khác nhau. Từ xưa đến nay, các tín ngưỡng, tôn giáo luôn chung sống hoà hợp, gắn bó với dân tộc. Trong quá trình dựng nước và giữ nước, các dân tộc đã kề vai, đoàn kết bên nhau đấu tranh giành độc lập dân tộc, tích cực tham gia vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Cả 54 dân tộc anh em trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam đã hình thành một truyền thống tốt đẹp từ ngàn xưa, đó là xây dựng cuộc sống đan xen, hoà bình, trong đó mỗi dân tộc đều có tín ngưỡng, tôn giáo, phong tục tập quán và văn hoá khác nhau góp phần tạo nên bản sắc văn hoá Việt Nam.
Đảng và Nhà nước ta hiểu rõ nhu cầu tâm linh của nhân dân Việt Nam bởi lẽ, hầu hết nhân dân Việt Nam không những có tín ngưỡng truyền thống thờ cúng tổ tiên, thờ các vị thành hoàng, những vị đã có công xây dựng quê hương, đất nước…mà không ít người là tín đồ các tôn giáo. Bản tính của người Việt Nam là khoan dung, cởi mở. Do vậy, dù là tôn giáo nào, tín ngưỡng nào, từ đâu đến thì cộng đồng cũng sẵn sàng chấp nhận miễn là nó không xâm phạm đến lợi ích quốc gia và đi ngược lại truyền thống văn hoá dân tộc.
Chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta được xây dựng một mặt dựa trên quan điểm cơ bản của học thuyết Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về tín ngưỡng, tôn giáo; mặt khác căn cứ vào đặc điểm tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam. Tư tưởng nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước ta là tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân; Tinh thần đó được Đảng và Nhà nước ta thể hiện bằng hệ thống chính sách phù hợp với từng giai đoạn cách mạng.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn luôn có quan điểm, thái độ rõ ràng về tín ngưỡng, tôn giáo theo lịch sử phát triển của dân tộc. Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng năm 1991 đã khẳng định: “Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Đảng và Nhà nước ta tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân, thực hiện bình đẳng, đoàn kết lương giáo và giữa các tôn giáo. Khắc phục mọi thái độ hẹp hòi, thành kiến, phân biệt đối xử với đồng bào có đạo, chống những hành vi lợi dụng tôn giáo phá hoại độc lập dân tộc và đoàn kết dân tộc, chống phá chủ nghĩa xã hội, ngăn cản tín đồ làm nghĩa vụ công dân”. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội cũng ghi rõ: “Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, đồng thời chống việc lợi dụng tín ngưỡng để làm tổn hại đến lợi ích của Tổ quốc và nhân dân”.
Chủ trương, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với tín ngưỡng, tôn giáo rất đúng đắn, minh bạch và từng bước được hoàn thiện. Đến đầu thập kỷ 90, trong những năm đầu thực hiện công cuộc đổi mới, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 24/NQ-TW Về công tác tôn giáo trong tình hình mới, đã ghi dấu son về sự đổi mới đường lối, chính sách tín ngưỡng, tôn giáo. Nghị quyết 24/NQ-TW xác định:…Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới”. Sau gần 10 năm thực hiện Nghị quyết 24/NQ-TW, Đảng ta đã tổng kết, đánh giá những thành tựu và nêu rõ những khuyết điểm, đồng thời Bộ Chính trị ra Chỉ thị 37/CT-TW ngày 02/7/1998Về công tác tôn giáo trong tình hình mới. Cho đến Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ bảy, khoá IX về công tác tôn giáo (Nghị quyết 25/NQ-TW ngày 12/3/2003) thì quan điểm chính sách của Đảng ta đối với tín ngưỡng, tôn giáo tiếp tục được khẳng định và phát triển thêm một bước mới phù hợp với sự nghiệp đổi mới đất nước. Đó là: “Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo đúng pháp luật”. Những quan điểm của Đảng ta từ ngày thành lập đến nay chứng minh rằng Đảng coi quyền tự do tín ngưỡng là một nhu cầu quan trọng của con người, là một trong những quyền công dân, quyền chính đáng của con người. Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta luôn luôn tôn trọng đức tin của đồng bào theo tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau; tôn trọng quyền được theo bất cứ tôn giáo nào, mong muốn cho người dân theo tôn giáo được “phần hồn thong dong, phần xác ấm no”.
Nhà nước ta chỉ một ngày sau lễ Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, trong phiên họp đầu tiên vào ngày 03/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề nghị Chính phủ lâm thời tuyên bố: “Tín ngưỡng tự do và lương giáo đoàn kết”, coi đó là một trong sáu nhiệm vụ của Nhà nước còn non trẻ. Sau đó, thay mặt Chính phủ lâm thời, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Võ Nguyên Giáp đã ký văn bản ngày 20/9/1945, trong đó Điều I ghi rõ: “Đền chùa, lăng tẩm, nhà thờ, tất cả những nơi có tính cách tôn giáo, bất cứ tôn giáo nào, nhân dân đều phải tôn trọng, không được xâm phạm”. Nhưng văn bản có tính pháp luật tiêu biểu và hoàn chỉnh nhất trên chặng đường đầu tiên xây dựng luật pháp về tôn giáo, tín ngưỡng là Sắc lệnh số 234-SL ngày 14/6/1955 do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký. Điều 15 trong Sắc lệnh ghi rõ: “việc tự do, tín ngưỡng, thờ cúng là một quyền lợi của nhân dân. Chính quyền dân chủ cộng hoà luôn luôn tôn trọng quyền lợi ấy và giúp đỡ nhân dân thực hiện”.
Ngay trong năm đầu của cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc do đế quốc Mỹ gây ra, mặc dù phải lo đối phó với cuộc chiến tranh ác liệt nhưng Chính phủ vẫn quan tâm đến nhu cầu tâm linh của quần chúng tín đồ. Bằng chứng là, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã ký Thông tư 60-TTg, ngày 11/6/1964 bổ sung Thông tư 593-TTg (năm 1957) yêu cầu thi hành chính sách tôn giáo theo sắc lệnh 234-SL. Sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, ngày 11/11/1977, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 297-CP về “Một số chính sách đối với tôn giáo” trong đó nêu năm nguyên tắc về tự do tôn giáo. Để đáp ứng với yêu cầu của quá trình đổi mới, ngày 21/3/1991, Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Nghị định 69-HĐBT “Quy định về các hoạt động tôn giáo”. Nghị định 69 là văn bản mang tính pháp quy, là sự kế thừa thực tiễn của quá trình thực hiện Nghị định 297- CP và cụ thể hoá chính sách của Đảng ta đối với tôn giáo trong quá trình thực hiện công cuộc đổi mới. Sự nghiệp cách mạng là của toàn dân, đổi mới về nhận thức và thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo là nhằm đảm bảo nhu cầu tín ngưỡng chính đáng của nhân dân. Qua đó phát huy năng lực, sức sáng tạo của hàng chục triệu đồng bào theo tôn giáo, góp phần dân chủ hoá đời sống xã hội trên cơ sở ổn định chính trị. Từ sau cách mạng tháng 8 năm 1945 đến nay, nước ta đã có 4 bản Hiến pháp: Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992. Ngay trong Hiến pháp 1946 đã khẳng định quyền tự nhiên của người Việt Nam: “Mọi công dân Việt Nam có quyền tự do tín ngưỡng” (Chương II, mục B). Từ những nguyên tắc cơ bản đó, Điều 80 Hiến pháp 1980 ghi rõ: “Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Không ai được lợi dụng tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước”. Điều 70 của Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 được bổ sung rõ hơn: “Công dân Việt Nam có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật.
Những nơi thờ tự của các tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật bảo hộ. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước”.
Tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một quyền nhân thân cơ bản của công dân cũng được đề cập trong Bộ Luật Dân sự, được bảo vệ bằng pháp luật và được cụ thể hoá trong văn bản quy phạm pháp luật ngày càng ở mức độ cao hơn, hoàn thiện hơn. Một minh chứng cụ thể là sau 5 năm thực hiện, Nghị định 26/1999/NĐ-CP, ngày 19/4/1999 của Chính phủ về các hoạt động tôn giáo đã được thay thế bằng Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo do Uỷ ban Thường vụ Quốc hội khoá XI thông qua ngày 18/6/2004 và Chủ tịch nước ký lệnh công bố ngày 29/6/2004.
Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo ra đời là một minh chứng rõ ràng và một lần nữa tiếp tục khẳng định nguyên tắc nhất quán trong chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta là tôn trọng tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
Nhờ có chính sách tín ngưỡng, tôn giáo đúng đắn và được bổ sung theo sự phát triển của xã hội nên quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo luôn luôn được mở rộng và đảm bảo. Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo được xây dựng trên cơ sở kế thừa Sắc lệnh 234/SL và được đúc rút kinh nghiệm từ thực tiễn qua nhiều giai đoạn cách mạng thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo. Những quy định cụ thể trong Pháp lệnh cũng như trong Nghị định 22/2005/NĐ-CP, ngày 01/3/2005 của Chính phủ hướng dẫn thi hành một số điều trong Pháp lệnh, một mặt tạo cơ sở pháp lý đảm bảo cho mọi công dân thực hiện quyền cơ bản về tự do tín ngưỡng, tôn giáo; mặt khác nhằm nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước trong lĩnh vực này. Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân về tự do tín ngưỡng, tôn giáo được quy định rõ ràng hơn, thông thoáng hơn và cởi mở hơn. Công dân có quyền theo hoặc không theo một tôn giáo nào; được bày tỏ đức tin của mình; được thực hiện các nghi thức thờ cúng, cầu nguyện và tham gia các hình thức sinh hoạt tôn giáo, học tập giáo lý, đạo đức tôn giáo. Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Nhà nước đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; bảo hộ cơ sở vật chất, tài sản của các cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo như chùa, nhà thờ, thánh đường, thánh thất, điện, đền, trụ sở của tổ chức tôn giáo, trường lớp tôn giáo; kinh bổn và các đồ dùng thờ cúng của tín ngưỡng, tôn giáo.
Thiết nghĩ không cần nói thêm nhiều mà có thể khẳng định rằng chính sách tự do tín ngưỡng, tôn giáo là tư tưởng cơ bản của Đảng và Nhà nước ta thể hiện quan điểm trước sau như một: tín ngưỡng hay không tín ngưỡng là sự lựa chọn tự do của con người, bởi vì tôn giáo là niềm tin và tồn tại như một nhu cầu tinh thần của quần chúng. Thái độ của Đảng và Nhà nước ta đối với vấn đề tự do tôn giáo luôn luôn rõ ràng và phân minh. Một mặt Đảng và Nhà nước ta tôn trọng tự do tín ngưỡng, tôn giáo; mặt khác lại nghiêm cấm việc kỳ thị hoặc xúc phạm người có tín ngưỡng, tôn giáo; đồng thời cũng nghiêm cấm việc lợi dụng tự do tín ngưỡng, tôn giáo để làm trái pháp luật làm ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, đến trật tự công cộng, ảnh hưởng đến sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc, xâm hại đến tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm và danh dự của công dân hoặc trái với thuần phong mỹ tục.
Thực tế, những chủ trương, chính sách tín ngưỡng, tôn giáo không phải chỉ được khẳng định ở Hiến pháp, pháp luật hay trong các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng mà được thể hiện sống động trong cuộc sống hàng ngày. Cho đến nay, Nhà nước ta đã công nhận tư cách pháp nhân cho 32 tổ chức tôn giáo và sẽ tiếp tục xem xét theo quy định của Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo. Chúng ta có thể khẳng định rằng hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo đã và đang diễn ra bình thường ở mọi nơi trên đất nước Việt Nam. Cả nước có khoảng 70.000 chức sắc, nhà tu hành, chưa kể hàng vạn người hoạt động bán chuyên nghiệp của các tổ chức tôn giáo, Việc đào tạo chức sắc của các tôn giáo tiếp tục được quan tâm. Giáo hội Phật giáo Việt Nam hiện có 4 Học viện Phật giáo; 30 Trường Trung cấp Phật học và 4 Trường Cao đẳng Phật học. Giáo hội Công giáo có 6 Đại chủng viện và 2 cơ sở. Viện thánh kinh thần học của Tổng Liên hội Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Nam)… để đào tạo chức sắc phục vụ nhu cầu sinh hoạt tôn giáo của tín đồ. Các tôn giáo hiện có hàng trăm người đang theo học thạc sĩ, tiến sĩ ở các nước trên thế giới. Cả nước hiện có hơn 24.000 cơ sở thờ tự, trong đó có nhiều cơ sở được xây dựng mới, xây dựng lại khang trang, đẹp đẽ. Đó là bằng chứng hùng hồn về đảm bảo tự do tín ngưỡng, tôn giáo là nguyên tắc hàng đầu và nhất quán của Đảng và Nhà nước ta vì cuộc sống tinh thần của hàng triệu tín đồ các tôn giáo là những công dân của Việt Nam. Chính vì vậy, các tổ chức tôn giáo, chức sắc và tín đồ đã thể hiện sự tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước ta, yên tâm sinh hoạt tôn giáo và cùng nhau hưởng cuộc sống thanh bình, trên một đất nước ổn định về chính trị; cùng nhau đoàn kết, đồng lòng vì mục tiêu: “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”./.
Thanh An