Bút Nghiên
ButNghien.com
- Xu
- 552
Chiến tranh lạnh
1.Chủ nghĩa Truman và sự bắt đầu cuộc Chiến tranh lạnh
Sau khi chiến tranh kết thúc, những rạn nứt chính trị trong quan hệ Xô - Mĩ ngày càng lớn, đặc biệt là trong vấn đề Đông Âu. Với ảnh hưởng và sự giúp đỡ của Liên Xô, hàng loạt nước Đông Âu đã thực hiện những cải cách tiến bộ và trở thành những nước dân chủ nhân dân. Trong khi đó, Mĩ tìm mọi cách để ngăn cản quá trình cách mạng ở Đông Âu, ngăn chặn sự phát triển của chủ nghĩa xã hội và thực hiện mưu đồ bá chủ thế giới. Sau khi Tổng thống Rudơven qua đời (4 - 1945), H. Truman lên làm Tổng thống và bắt đầu thực hiện chính sách cứng rắn với Liên Xô. Tháng 3 - 1947, Truman đọc bài diễn văn trước Quốc hội, thực chất là công bố chính sách đối ngoại mới, được gọi là Học thuyết Truman, nhằm ngăn chặn sự bành trướng của Liên Xô và chủ nghĩa cộng sản. Truman yêu cầu Quốc hội viện trợ khẩn cấp cho Hi Lạp và Thổ Nhĩ Kì để chống lại “sự đe doạ” của Liên Xô, thiết lập sự thống trị của Mĩ ở khu vực phía Đông Địa Trung Hải, một khu vực có tầm chiến lược quan trọng ngay sát Liên Xô. Với học thuyết Truman, Mĩ công khai từ bỏ hợp tác với Liên Xô trong việc giải quyết các vấn đề quốc tế như đã từng diễn ra trong Chiến tranh thế giới thứ hai và bắt đầu cuộc Chiến tranh lạnh chống Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa.
Sau khi phát động Chiến tranh lạnh, Mĩ tìm cách lôi kéo các đồng minh vào các liên minh do Mĩ khống chế để tăng cường lực lượng chống Liên Xô và chủ nghĩa xã hội. Ngày 5 - 6 - 1947, ngoại trưởng Mĩ G. Mácsan đọc một bài diễn văn tại trường đại học Havớc, công bố “kế hoạch phục hưng châu Âu” bằng viện trợ của Mĩ.
Tháng 7 - 1947, 16 nước tư bản châu Âu đã họp Hội nghị kinh tế ở Pari để bàn về việc tiếp nhận kế hoạch Mácsan. Từ tháng 4 - 1948, kế hoạch Mácsan bắt đầu được thực hiện, Mĩ đã chi khoảng 12,5 tỉ đôla cho kế hoạch này. Nền kinh tế các nước Tây Âu phục hồi và phát triển nhanh chóng, tuy nhiên bị đặt dưới sự khống chế của Mĩ. Đó là cơ sở để Mĩ tiếp tục thao túng Tây Âu về chính trị và quân sự. Để đối phó với âm mưu của Mĩ, từ tháng 7 - 1947, Liên Xô tiến hành kí kết các hiệp ước liên minh kinh tế với các nước Đông Âu, chuẩn bị cho việc thành lập một tổ chức kinh tế của các nước xã hội chủ nghĩa. Tháng 1 - 1949, Liên Xô cùng với các nước Đông Âu quyết định thành lập Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV - viết tắt theo tiếng Nga), một tổ chức liên minh kinh tế của các nước xã hội chủ nghĩa. Như thế, trên thế giới đã hình thành hai khối kinh tế đối lập nhau và đi kèm theo đó là hai khu vực thị trường riêng rẽ. Sau khi tuyên bố học thuyết Truman và thực hiện kế hoạch Mácsan, Mĩ xúc tiến âm mưu chia cắt nước Đức, biến Tây Đức thành con đập ngăn làn sóng chủ nghĩa cộng sản tràn vào châu Âu. Vấn đề Đức trở thành tiêu điểm của cuộc đấu tranh giữa hai phe ở châu Âu. Mĩ đề nghị thống nhất khu vực chiếm đóng của ba nước Mĩ, Anh, Pháp ở Tây Đức, thực hiện những cải cách kinh tế, tiền tệ riêng rẽ và bác bỏ những đề nghị của Liên Xô về việc thành lập một chính phủ chung cho toàn nước Đức theo nghị quyết Pốtxđam. Tháng 8 - 1949 ở Tây Đức đã diễn ra cuộc bầu cử Quốc hội riêng rẽ và sau đó một tháng, ngày 12 - 9 - 1949 nước Cộng hoà Liên bang Đức tuyên bố thành lập. Để đối phó với hành động của Mĩ, Liên Xô đã giúp đỡ các lực lượng cách mạng ở Đông Đức thành lập nước Cộng hoà Dân chủ Đức (7 - 10 - 1949). Như vậy, những quy định của Hội nghị Pốtxđam về vấn đề Đức đã không được thực hiện. Sự kiện nước Đức bị chia cắt thành hai quốc gia Đông - Tây là một sản phẩm của cuộc chiến tranh lạnh, đồng thời đánh dấu sự đối đầu giữa hai cực Xô - Mĩ ngày càng trở nên sâu sắc. Tháng 4 - 1949, tại Oasinhtơn, 12 nước Tây Âu và Bắc Mĩ(1) đã kí kết và thành lập Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO). Mặc dù nội dung bản Hiệp ước nói về mục đích “bảo vệ hoà bình” nhưng thực chất là sự thao túng của Mĩ đối với các nước thành viên về quân sự, nhằm chĩa mũi nhọn vào Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa. Việc thành lập NATO làm cho tình hình thế giới càng thêm phức tạp, căng thẳng, đồng thời cũng làm nảy sinh những mâu thuẫn trong nội bộ các nước tư bản chủ nghĩa, đặc biệt là mâu thuẫn giữa Anh, Pháp với âm mưu giành quyền lãnh đạo của Mĩ trong tổ chức này.
Năm 1955, Mĩ đưa Tây Đức vào khối NATO, gây nên tình trạng căng thẳng, đe doạ nghiêm trọng hoà bình ở châu Âu. Trong bối cảnh đó, tháng 5 - 1955 Liên Xô và các nước Đông Âu đã kí kết và thành lập Tổ chức Hiệp ước Vácxava nhằm bảo vệ an ninh của các nước thành viên, duy trì hoà bình ở châu Âu.
• NATO 6 lần mở rộng
• 1952: Hi lạp, Thổ
• 1955: CHLB Đức
• 1982: Tây Ban Nha
• 1990: CHDC Đức
• 1999: Ba Lan, Séc, Hungari
• 2004: Lítva, Látvia, Extônia, Xlovennia, Xlovakia, Bun, Ru(7)
Tổng: 26 nước, lần thứ 6 quan trọng nhất, kết thúc công cuộc “Chinh phục Đông Âu”. Liên minh quân sự mạnh nhất thế giới, tiếp tục cải tổ cơ cấu chỉ huy, thành lập lực lượng phản ứng nhanh (Nresponse Force NRF) vào 10 – 2006. NATO có tổ chức chặt chẽ, là liên minh chính trị quân sự. Về cơ cấu chính trị có Hội đồng do một Tổng thư kí đứng đầu, cơ cấu quân sự là Bộ chỉ huy quân sự Thống nhất do 1 tư lệnh đứng đầu. Tổng hành dinh ở Brút Xen (Bỉ). Mĩ đóng vai trò trụ cột, đã chi 180 tỉ USD, triển khai lớn hơn 300.000 quân ở Tây Âu. Ngoài mục tiêu chống LX CNCS, Mĩ còn mục tiêu thông qua cái ô an ninh để kiềm chế Tây Âu. Các nước Tây Âu muốn giảm lệ thuộc Mĩ (Pháp). Chứa đựng khác biệt về lợi ích Như vậy, sau khi chiến tranh kết thúc chưa đầy một thập niên, ở châu Âu đã hình thành hai khối quân sự đối đầu nhau. Sau khi thành lập, cả hai khối quân sự đều tiến hành chạy đua vũ trang để tăng cường sức mạnh quân sự của mình. Cuộc chiến tranh lạnh giữa hai cực Xô - Mĩ, sự đối đầu giữa hai khối Đông - Tây ngày càng trở nên gay gắt.
2. Những diễn biến chính của cuộc chiến tranh lạnh
Chiến tranh lạnh(2) do Mĩ phát động là “cuộc chiến tranh không nổ súng, không đổ máu” nhưng luôn luôn ở tình trạng đối đầu căng thẳng, quyết liệt, nhằm mục tiêu “ngăn chặn” rồi đi đến tiêu diệt Liên Xô. Tuy nhiên, chiến tranh lạnh không chỉ dừng lại ở chỗ “không nổ súng, không đổ máu” mà đã phát triển thành những cuộc chạy đua vũ trang ráo riết, những cuộc xung đột quân sự mang tính khu vực giữa hai cực Xô - Mĩ và hai khối Đông - Tây. Cuộc chạy đua vũ trang giữa hai cực Xô - Mĩ, hai khối Đông Tây bắt đầu từ thập niên 50, lên đến đỉnh cao vào thập niên 70. Cả hai nước Xô - Mĩ đều tăng cường ngân sách quốc phòng, củng cố khả năng phòng thủ tối đa của mình. Năm 1974, Mĩ chi tiêu cho quân sự 85 tỉ đôla Mĩ, còn Liên Xô là 109 tỉ đôla Mĩ. Về vũ khí, chỉ riêng hai siêu cường đã sở hữu trên 5.000 máy bay chiến đấu, gấp 10 lần các cường quốc trước đây(3). Cùng với việc tăng cường khối lượng khổng lồ các loại vũ khí và phương tiện chiến tranh. Mĩ tiếp tục thành lập các liên minh quân sự ở các khu vực khác nhau nhằm hỗ trợ cho khối NATO, bao vây Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa như: việc kí kết Hiệp định an ninh Mĩ - Nhật (9 - 1951), thành lập khối ANZUS (Mĩ - Ôxtrâylia - Niu Di Lân - 9 - 1951), khối SEATO ở Đông Nam á (9 - 1954), khối CENTO ở Trung Đông (1959). Mĩ thiết lập trên 2.000 căn cứ quân sự, đưa hàng chục vạn quân Mĩ đóng quân ở khắp các khu vực trên thế giới. Trong bối cảnh đó, Liên Xô cũng đưa hàng chục vạn quân đóng ở các nước Đông Âu, tập trung ở Đông Đức, ở Mông Cổ và biên giới Xô - Trung. Ở châu Á, cuộc chiến tranh Triều Tiên (1950 - 1953) là một trong những tiêu điểm của cuộc chiến tranh lạnh. Theo quyết định của Hội nghị Ianta và Pốtxđam, sau khi Triều Tiên được giải phóng, quân đội Liên Xô chiếm đóng miền Bắc, quân đội Mĩ chiếm đóng miền Nam, với vĩ tuyến 38 làm ranh giới tạm thời. Sau thất bại của những cuộc đàm phán nhằm thành lập chính phủ thống nhất, cuối năm 1948, hai chính phủ riêng rẽ được thành lập ở hai miền Nam, Bắc với hai chế độ chính trị hoàn toàn đối lập nhau. Tháng 6 - 1950, cuộc chiến tranh Triều Tiên bùng nổ giữa một bên là quân đội Mĩ, các nước đồng minh của Mĩ với một bên là quân đội Cộng hoà dân chủ nhân dân Triều Tiên, quân chí nguyện Trung Quốc với sự hậu thuẫn về mọi mặt của Liên Xô. Sau 3 năm chiến tranh kết hợp với đàm phán, ngày 27 - 7 - 1953, tại hội nghị quân sự Bàn Môn Điếm (Triều Tiên), cả hai bên tham chiến đã kí kết Hiệp định đình chiến. Hiệp định quy định “hoàn toàn đình chỉ chiến sự và mọi hành động đối địch ở Triều Tiên cho đến khi giải quyết hoà bình xong toàn bộ vấn đề Triều Tiên”, lấy giới tuyến và khu phi quân sự theo trận tuyến đóng quân thực tế của mỗi bên (gần như trở lại ranh giới cũ trước chiến tranh - vĩ tuyến 38). Việc kí kết Hiệp định đình chiến phản ánh tình hình so sánh lực lượng giữa hai phe, tuy nhiên cả hai bên tham chiến đều cho rằng mình đã giành thắng lợi vì đã làm thất bại kế hoạch xâm lược của đối phương. Chiến tranh Triều Tiên là sự đụng đầu giữa hai hệ thống xã hội đối lập nhau, là sản phẩm tiêu biểu của chiến tranh lạnh. Cho đến nay, hơn nửa thế kỉ đã trôi qua sau cuộc chiến tranh này nhưng đất nước Triều Tiên vẫn bị chia cắt, giải pháp chính trị để thống nhất Triều Tiên vẫn còn là triển vọng lâu dài.
Ở Đông Nam Á, cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ hai (1954 - 1975), đặc biệt là cuộc chiến tranh Việt Nam, là cuộc đụng đầu lịch sử giữa hai phe trong chiến tranh lạnh. Khác với chiến tranh Triều Tiên, chiến tranh Việt Nam kéo dài gần 20 năm, và được coi là “cuộc chiến tranh cục bộ lớn nhất giữa hai phe”. Mĩ đã chi phí trực tiếp cho cuộc chiến ở Việt Nam khoảng 676 tỉ đôla (so với 341 tỉ đôla trong Chiến tranh thế giới thứ hai và 54 tỉ đôla trong chiến tranh Triều Tiên), nếu tính cả chi phí gián tiếp là 920 tỉ đôla(4). Trong cuộc đọ sức lâu dài, gian khổ và quyết liệt này, thắng lợi cuối cùng đã thuộc về nhân dân Việt Nam, với sự ủng hộ, giúp đỡ to lớn của Liên Xô, Trung Quốc, các nước xã hội chủ nghĩa, phong trào giải phóng dân tộc và các lực lượng hoà bình, dân chủ trên thế giới.
Ở Đông Âu, trong các cuộc khủng hoảng chính trị diễn ra ở Hunggari (10 - 1956), Tiệp Khắc (8 - 1968)… Liên Xô và khối Vácxava đã tiến hành các biện pháp can thiệp để ổn định tình hình các nước này. Trong khi đó, Mĩ đã không bỏ lỡ dịp để thực hiện chính sách “đẩy lùi chủ nghĩa cộng sản”, ủng hộ các cuộc bạo loạn, cố gắng thực hiện “diễn biến hoà bình” để phá hoại công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu. Ở khu vực Mĩ latinh, thắng lợi của cách mạng Cuba năm 1959 đã trở thành một thách thức đối với chính sách bá quyền của Mĩ. Tháng 10 - 1962, Tổng thống Mĩ Kennơđi thông báo quyết định của Chính phủ Mĩ về việc tổ chức chiến dịch phong toả biển Caribê, nhằm ngăn chặn việc Liên Xô đưa vũ khí tên lửa đến Cuba. Tình hình trở nên hết sức nghiêm trọng khi quân đội của cả hai khối quân sự NATO và Vácxava đều được đặt trong tình trạng báo động khẩn cấp. Cuộc khủng hoảng cuối cùng đã được giải quyết theo điều kiện: Liên Xô rút hết tên lửa dưới sự giám sát của các quan sát viên Liên Hợp Quốc, đổi lại, Mĩ cam kết không xâm lược Cuba. Ở khu vực Trung Đông, cuộc chiến tranh Trung Đông bùng nổ năm 1948 giữa Ixraen và các nước ảrập, ngày càng trở nên phức tạp và kéo dài vì hai cường quốc Xô - Mĩ cũng trực tiếp đối mặt ở đây. Liên Xô giúp đỡ Ai Cập, Xiri, các nước ảrập, trong khi Mĩ hỗ trợ cho Ixraen. Sự can thiệp của các nước lớn vào khu vực Trung Đông ngày càng tăng, thể hiện những mâu thuẫn về lợi ích và sự đối đầu giữa hai cực trong quan hệ quốc tế.
Như vậy, trong bối cảnh cuộc chiến tranh lạnh, hầu như mọi cuộc chiến tranh, xung đột ở các khu vực khác nhau trên thế giới đều có sự dính líu trực tiếp, hoặc gián tiếp ở những mức độ khác nhau của sự đối đầu giữa hai cực Xô - Mĩ.
( Nguồn : ĐH Sư phạm Hà Nội )
Sửa lần cuối bởi điều hành viên: