Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch sử Việt Nam
Việt Nam Cổ Đại (Nguyên Thủy - Đầu thế kỷ X)
Chiến thắng Như Nguyệt mùa xuân năm 1077
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="Bút Nghiên" data-source="post: 7660" data-attributes="member: 699"><p>Quách Quỳ trực tiếp chỉ huy đạo quân chủ lực tiến theo đường thiên lý. Đạo quân này giữ vai trò mũi tiến công chủ yếu trong kế hoạch xâm lược của địch. Do đó, khối quân của Quách Quỳ hẳn tập trung kháđông, phải khoảng trên một nửa quân số của địch, nghĩa là trên 5 vạn quân. Dưới trướng của Quách Quỳ có phó đô tổng quản Yên Đạt và những bộ tướng thân cận ở Phu Diên như Diêu Tự, Trương Thế Cự, Khúc Chẩn, Vương Mẫn... </p><p></p><p>Hiện nay, tài liệu văn tự cũng như kết quả khảo sát thực địa không cho biết, trong khu vực đóng quân, Quách Quỳ tổ chức phòng ngự tạm thời như thế nào. Chỉ biết khu vực đóng quân của Quách Quỳ nằm giữa ba mặt uy hiếp của quân ta: trước mặt (phía nam) là chiến tuyến Như Nguyệt và trại quân ta ở Thị Cầu; bên trái (phía đông) là đại đội thủy binh của Hoằng Chân, Chiêu Văn ở Vạn Xuân; sau lưng (phía bắc) là đạo quân của phò mã Thân Cảnh Phúc đang hoạt động ráo riết ở động Giáp. Với tính cẩn thận, dè dặt vốn có và trong tình thế khó khăn của quân Tống lúc bấy giờ, chắc chắn Quách Quỳ lo phòng thủ chặt chẽ để sẵn sàng đối phó với quân ta. Không có thành lũy bảo vệ, quân địch lợi dụng địa hình bố trí doanh trại theo lối dã chiến. Hơn nữa Quỳ còn "bí mật phòng bị" để đợi quân ta đánh lên thì tiêu diệt. </p><p></p><p>Theo kế hoạch của Lý Thường Kiệt, hai hoàng tử Hoằng Chân và Chiêu Văn được lệnh chỉ huy một đoàn chiến thuyền 400 chiếc chở hai vạn quân, từ Vạn Xuân, ngược sông Như Nguyệt, mở một cuộc tiến công lớn vào khu vực doanh trại của Quách Quỳ. Đây là cuộc tiến công chính diện vào cánh trái khối quân địch lớn nhất và đại bàn doanh của chánh tướng Quách Quỳ. Như sử nhà Tống mô tả: "Vài vạn quân quát tháo, chửi mắng đến đánh" (Lý Đào, Tục tư trị thnlg giám trường biên, sách đã dẫn), đoàn binh thuyền của ta hết sức phô trương thanh thế nhằm lôi cuốn sự chú ý và tập trung lực lượng đối phó của địch về hướng này. Theo binh pháp cổ, đó là lối tiến công của chính binh. </p><p></p><p>Đoàn chiến thuyền của ta đổ quân lên bờ bắc, đánh thẳng vào doanh trại quân Tống. Lúc mới giao chiến, quân địch lúng túng và phải lui. Sách Tục tư trị thông giám trường biên của Tống ghi "tiền quân bất lợi”. Quách Quỳ phải huy động toàn bộ lực lượng và đem cả đội thân quân ra chống cự. Các tướng cao cấp dưới trướng của Quách Quỳ như Yên Đạt, Trương Thế Cự, Vương Mẫn, Lý Tường, Diên Chủng... đều có mặt trên chiến địa.</p><p></p><p> Quân ta tiến khá sâu vào trận địa của địch và gây cho chúng nhiều tổn thất. Nhưng rồi quân địch tung ra càng ngày càng đông và tổ chức phản kích quyết liệt. Quân địch gồm bộ binh và kỵ binh, có lợi thế chiến đấu trên đất liền và ngay trong khu căn cứ đóng quân có tổ chức phòng vệ trước. Quân ta bị thiệt hại và phải rút lui xuống chiến thuyền. Từ trên bờ, quân địch dùng máy bắn đá bắn theo dữ dội làm cho một số chiến thuyền của ta bị đắm. Hai hoàng tử Hoằng Chân, Chiêu Văn đã hy sinh anh dũng trong chiến đấu.</p><p></p><p> Nhìn chung, cuộc tiến công của thấy quân ta có gây cho quân địch nhiều thiệt hại, nhưng bản thân ta cũng bị tổn thất khá nặng. Hai vị hoàng tử chỉ huy và khoảng vài nghìn quân ta đã hy sinh. Nhưng trong khi xem xét, nếu tách rời trận tiến công này và chỉ căn cứ đơn thuần vào tổn thất của đôi bên tham chiến để đánh giá thắng bại thì có lẽ không phù hợp với kế hoạch phản công và ý đồ chiến lược của Lý Thường Kiệt. Cuộc tiến công chính diện của thủy binh ta ắt không phải chỉ nhằm mục đích tiêu diệt sinh lực địch mà điều quan trọng cần chú ý là: có thể nó còn nhằm thu hút lực lượng và tập trung sự chú ý của địch về mặt đó để tạo ra thời cơ, chuẩn bị điều kiện có lợicho một mũi tiến công khác mũi tiến công chủ yếu do Lý Thường Kiệt đích thân chỉ huy bất ngờ tập kích vào chỗ sơ hở của địch, giành thắng lợi quyết định. Diễn biến tiếp tục của cuộc phản công sẽ chứng minh điều đó. Trong lúc quân địch đang lo đối phó với cuộc tiến công ồ ạt của thủy quân ta thì đang đêm, Lý Thường Kiệt trực tiếp chỉ huy đại quân vượt bến đò Như Nguyệt đánh úp vào doanh trại của phó tướng Triệu Tiết ở bờ bắc.</p><p></p><p> Triệu Tiết xuất thân tiến sĩ, giữ viên ngoại lang bộ lại, coi Diên Châu (Diên An, Thiểm Tây). Ở đây Tiết có công chiêu mộ kỵ binh chống lại nước Hạ nên được vua Tống thăng làm thiên chương các đại chế và được tể tướng Vương An Thạch tin dùng. Trước đây, nhà Tống đã cử Triệu Tiết làm chánh tướng điều quân xuống xâm chiếm nước ta. Sau cừ Quách Quỳ làm chánh đô tổng quản thì Tiết giữ chức phó đô tổng quản, đồng thời chuyên về lương thảo. Tuy là phó tướng của Quách Quỳ, Triệu Tiết cũng là người có thế lực, lại đã từng được cử làm chánh tướng nên không phục và có bất hòa với Quách Quỳ. Dưới quyền của Triệu Tiết có những tướng cao cấp của quân Tống như Vương Tiến, Miêu Lý. Số quân do Triệu Tiết trực tiếp chỉ huy cũng khá đông, ước đoán khoảng dưới một nửa số quân Tống, nghĩa là độ ba, bốn vạn quân chiến đấu (Tổng số quân chiến đấu của địch là 10 vạn. Đại bộ phận số quân này đóng thành hai khối chính do Quách Quỳ, Triệu Tiết chỉ huy và một vài vị trí ở quãng giữa. Không có số liệu cụ thể nhưng căn cứ vào sự bố trí lực lượng của địch. có thể ước đoán số quân của Quách Quỳ chiếm khoảng trên một nửa (độ trên 5 vạn), số quân của Triệu Tiết khoảng ba, bốn vạn, số còn lại chia đóng những vị trí không quan trọng). </p><p></p><p>Khu vực đóng quân của Triệu Tiết ở phíabắc bến Như Nguyệt, nay là thôn Mai Thượng, xã Mai Đình (huyện Hiệp Hòa, Bắc Giang). Đây là một khu vực tương đối rộng, quang đãng, đối diện với bến Nh¬ư Nguyệt nằm trên một con đ¬ờng bộ quan trọng về Thăng Long. Riêng cánh đồng phía đông bắc Mai Thượng - nhân dân gọi là cánh đồng Xác đã rộng khoảng 30 mẫu, cách bờ sông khoảng 200-300 mét. Giữa cánh đồng đó có một gò đất cao - nhân dân gọi là gò Xác - nhìn thẳng ra ngã ba Xà là cửa sông Cà Lồ đổ ra sông Cầu. Từ trên gò đất này có thể nhìn bao quát một vùng rộng lớn.</p><p></p><p> Khu doanh trại của Triệu Tiết cũng bố trí theo lối dã chiến, không có thành lũy phòng vệ. Quân địch dựa vào xóm làng và địa hình ven sông đế dựng doanh trại, tổ chức phòng ngự tạm thời. Gò Xác hẳn là một vị trí quan sát quan trọng của địch. Từ đó, có thể kiểm soát con đường giao thông qua bến Như Nguyệt, có thể nhìn bao quát toàn bộ khu doanh trại và có thể quan sát dòng sông Như Nguyệt từ ngã ba Xà đến bến Như Nguyệt, thẹo dõi hoạt động của quân ta ở chiến tuyến bờ nam. Căn cứ vào tên đất và truyền thuyết dân gian địa phương còn có thề xác định được sở chỉ huy của Triệu Tiết. Viên phó tướng quân Tống đặt sở chỉ huy Ở khu đất đến nay vẫn mang tên là Dinh rộng 2 mẫu 3 sào Bắc Bộ cánh bờ sông khoảng 500 mét.</p><p></p><p> Trước mặt Dinh, hai bên tả và hữu có hai khu đất mang tên là Miễu rộng 1 mẫu và Trại rộng 1 mẫu 3 sào. Theo truyền thuyết dân gian, đấy là trạm gác phía ngoài và trại quân bảo vệ trực tiếp sở chỉ huy của Triệu Tiết. </p><p></p><p>Miễu hay Mưỡu là một tiếng Việt cổ có nghĩa là trước. Miễu là di tích trạm gác phía ngoài. Trại là trại quân phía trong. Ba địa điểm Miễu, Trại, Dinh nằm trên ba góc của một hình tam giác, bố trí thành khu sở chỉ huy của phó tướng Triệu Tiết. </p><p></p><p>Hiện nay ba điểm đó ở về phía tây - bắc xóm làng Mai Thượng, nhìn ra cánh đồng Xác.</p><p></p><p> Khi đại bản doanh của Quách Quỳ ở phía tây bị tiến công, hẳn Triệu Tiết lo đối phó mặt đó và có thể điều một bộ phận quân lính đi tiếp ứng cho chánh tướng. Giữa lúc quân địch đang bị thu hút vế mặt đông và đang hí hửng trước "chiến thắng" đánh lui quân ta thì ngay tối hôm ấy, ở mặt tây, doanh trại của Triệu Tiết bị tập kích. Quân địch hết sức bất ngờ, lại bị đánh úp vào ban đêm nên không kịp tố chức đối phó có hiệu quả. Trước sức tiến công mãnh liệt của quân ta, quân địch bị đại bại và bị tiêu diệt đến năm, sáu phần mười.</p><p></p><p> Đại việt sử lược một tác phẩm đời Trần, ghi chép trận tập kích của quân ta như sau: “Lý Thường Kiệt biết quân Tống sức lực đã khốn, đang đêm vượt sông tập kích, đại phá được quân Tống mười phần chết đến năm, sáu” (Đại Việt sử lược, bản dịch, NXB Văn Sử Địa, Hà Nội, 1960, trang 111).</p><p></p><p> Sử sách ghi chép quá sơ sài (Do tình hình tư liệu thiếu thốn như vậy nên hầu hết các công trình nghiên cứu trước đây về cuộc kháng chiến chống Tống và Lý Thường Kiệt không đề cập đến trận tập kích có ý nghĩa quyết định này. Chúng tôi khẳng định trận quyết chiến này, một mặt dựa trên cơ sở phân tích lại những tài liệu trong thư tịch, mặt khác dựa vào kết quả điều tra khảo sát về phòng tuyến sông Như Nguyệt do khoa Sử trường Đại học Tổng hợp Hà Nội phối hợp với Ty Văn hóa Hà Bắc tiến hành.), không cho phép tái hiện diễn biến của trận đánh úp táo bạo, tài tình đó cùng những hình thức chiến thuật Lý Thường Kiệt đã áp dụng. Nhưng chiến công oanh liệt của dân tộc ta thế kỷ XI vẫn được nhân dân địa phương ghi nhớ, truyền tụng từ thế hệ này qua thế hệ khác và để lại những di tích cho đến nay vẫn còn. Do cuộc tập kích của quân ta, khu vực đóng doanh trại của địch biến thành bãi chiến trường và sau đó, hàng vạn xác giặc nằm ngổn ngang khắp cánh đống, gò đất. Nhân dân địa phương liền đặt tên là cánh đồng Xác, gò Xác (Gắn liền với tên đất cánh đồng Xác, gò Xác, nhân dân xã Mai Đình còn lưu truyền những chuyện kể về cuộc tập kích của quân ta do Lý Thường Kiệt chỉ huy. Trên gò Xác còn dấu vết một ngói chùa gọi là chùa Xác hay An Lạc tự, được lặp lên, theo nhân dân đia phương là để siêu thoát" cho những "oan hồn" quân Tống.), để nêu cao một chiến công chống ngoại xâm trên xóm làng quê hương.</p><p></p><p> Thắng lợi của trận tập kích do Lý Thường Kiệt trực tiếp chỉ huy đã giáng một đòn quyết định vào toàn bộ kế hoạch và mưu đồ xâm lược của quân Tống. Chỉ trong vòng một đêm, cả một khu doanh trại tập trung đến ba, bốn vạn quân Tống do phó tướng của địch chỉ huy, bị đánh tan, năm sáu phần mười quân địch bị giết chết tại trận. Trận tập kích đó kết hợp với trận tiến công vào đại bản doanh của Quách Quỳ làm cho thế trận phòng ngự của địch ở bờ bắc sôngNhư Nguyệt bị rung chuyển hoàn toàn. Quách Quỳ và các tướng tá phải than thở với nhau: "Số quân đem đi 10 vạn, phu 20 vạn, nay đã chết mất quá nửa, số còn lại thì ốm đau, lương ăn đã cạn" (Lý Đào, Tục tư trị thông giám trường biên , sách đã dẫn, xem Tống -Lý bang giao tập lục, trang 170). </p><p></p><p>Chiến thắng Như Nguyệt lần thứ hai vào cuối mùa xuân năm 1077 là thắng lợi oanh liệt của trận quyết chiến chiến lược có ý nghĩa kết thúc chiến tranh. Sau đòn phản công quyết định này, quân địch thực sự bị dồn vào cảnh thế cùng lực kiệt. Nguy cơ bị tiêu diệt hoàn toàn đang chờ đợi nếu chúng vẫn ngoan cố đóng quân. Nhưng rút lui thì mết thể diện của "thiên triều”. Biết rõ ý chí xâm lược của quân thù đã bị đè bẹp, Lý Thường Kiệt liền chủ động đưa ra để nghị "giảng hòa", thực nhất là mở ra lối thoát cho quân Tống. Đó là cách kết thúc chiến tranh mềm dẻo như Lý Thường Kiệt đã chủ trương “dùng biện sĩ bàn hòa, không nhọc tướng tá, khỏi tốn xương máu mà bảo toàn được tôn miếu” (Văn bia chùa Linh Xứng (Thanh Hóa) của sư Pháp Bảo đời Lý). </p><p></p><p>Sau khi giành được thắng lợi quyết định về quân sự, công cuộc điều đình "giảng hòa" nhanh chóng đạt kết quả. Quách Quỳ ngoài miệng còn nói vớt vát: "Ta không thể đạp đổ được sào huyệt giặc (quân ta), bắt được Càn Đức (vua Lý Nhân Tông) để báo mệnh triều đình. Tại trời vậy! Thôi đành liều một thân ta để cứu hơn 10 vạn nhân mạng" ( Lý Đào, Tục tư trị thông giám trường biên, sách đã dẫn, xem Tống-Lý bang giao tập lục, trang. 170). Nhưng tâm trạng hắn lúc đó đã được bộc lộ qua lời bình của các học giả nhà Tống: “May được lời giặc nói nhũn, liền nhân đó giảng hòa. Nếu không có lời quy thuận của giặc thì lành thế nào” (Trình Di, Trình Hạo, Nhị Trình di thư, xemTống-Lý bang giao tập lục, tr. 174). Hắn đòi chiếm giữ những vùng đất quân Tống đã tràn qua chẳng qua cũng chỉ là để đỡ mất mặt và cứu vớt phần nào danh dự, thể diện của nhà Tống. </p><p></p><p>Tháng 3 năm 1077, quân Tống rút lui trong cảnh hỗn loạn. Quách Quỳ sợ quân ta tập kích nên bí mật cho quân lính rút vào ban đêm. Nhưng được lệnh lui quân, kẻ nào cũng chỉ mong thoát chết, nhanh chóng được trở về nước. Chúng giẫm đạp lên nhau để tranh đường đi trước. Tống sử chép về cuộc rút quân như sau: "Quỳ muốn rút quân về, sợ giặc tập kích bèn bắt quân khởi hành ban đêm, hàng ngũ không được chỉnh tề, tình hình hỗn loạn, giày xéo lên nhau” (Tống sử, truyện Đào Bật, q. 334). Thực tế, đấy là cuộc tháo chạy tán loạn của bọn bại binh, bại tướng. Do đó, quân Tống rút đến đâu, Lý Thường Kiệt lập tức cho quân tiến theo lấy lại đất đai đến đấy. Quân ta nhanh chóng thu hồi các châu Môn, Quang Lang, Tô Mậu, Tư Lang. Riêng châu Quảng Nguyên (Cao Bằng) là miền đất có nhiều tài nguyên, khoáng sản, nhất là mỏ vàng, nên nhà Tống có âm mưu chiếm đóng lâu dài. Nhưng rồi bằng những biện pháp đấu tranh kiên quyết, nhà Lý cũng thu hồi được vùng đất này vào năm 1079.</p><p></p><p> Những chiến công lừng lẫy bên dòng sông Như Nguyệt đã làm thất bại hoàn toàn âm mưu xâm lược của triều Tống. Độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc ta đã được bảo toàn. Thắng lợi của cuộc kháng chiến rất oanh liệt, to lớn. Nhà Tống không những không chiến được nước ta mà còn phải chịu đựng những thiệt hại nặng nề. 10 vạn quân chiến đấu lúc trở về chỉ còn hơn 2 vạn, 8 vạn trong số 20 vạn phu đã bỏ mạng. Nếu tính cả trận tập kích thành Ung Châu, sốlính và phu của nhà Tống bị tiêu diệt lên đến 30 vạn. Toàn bộ chi phí chiến tranh ngốn mất 5.190.000 lạng vàng. Do thất bại thảm hại trong cuộc chiến tranh xâm lược nước ta, những khó khăn của nhà Tống lại tăng lên. Từ đó về sau, không riêng Tống Thần Tông mà các vua Tống cho đến triều vua cuối cùng, trong khoảng 200 năm, không dám xâm phạm nước ta lần nữa. "Thiên triều” Tống đã phải từ bỏ hẳn âm mưu xâm lược nước ta. Và năm 1164, nhà Tống phải công nhận không chỉ trên thực tế mà cả trên danh nghĩa bang giao, nước ta là một nước riêng biệt, một vương quốc độc lập (trước đây nhà Tống gọi nước ta là "Giao Chỉ quận", nay phải thừa nhận là "An Nam quốc").</p><p></p><p></p><p>Kể từ khi giành lại được độc lập từ năm 938, đây là lần đầu tiên dân tộc ta phải đương đầu với một cuộc xâm lược quy mô lớn và ác liệt của một quốc gia phong kiến lớn nhất phương Đông. Nhưng dưới sự lãnh đạo của triều Lý và Lý Thường Kiệt, dân tộc ta đã anh dũng vượt qua thử thách đó với một tinh thần chủ động, một tư thế hiên ngang. Tinh thần và tư thế đó là kết quả của bước phát triển vượt bậc, của sự lớn mạnh về mọi mặt của đất nước sau hơn một thế kỷ độc lập. Lý Thường Kiệt đã phát huy tất cả sức mạnh vật chất và tinh thần của một dân tộc đang ở khí thế vươn lên, trước hết là sức mạnh của tinh thần yêu nước, ý chí độc lập và của khối đoàn kết dân tộc, để tiến hành cuộc kháng chiến chống ngoại xâm với tư tưởng chiến lược rất tích cực. Đây là một cuộc kháng chiến thắng lợi oanh liệt và có nhiều nét độc đáo trong lịch sử bốn nghìn năm giừ nước của dân tộc ta. </p><p></p><p>Nắm chắc những chỗ mạnh, chỗ yếu của nhà Tống, Lý Thường Kiệt mở đầu cuộc kháng chiến chống ngoại xâm bằng một cuộc tiến công trước để tự vệ. Hành động tiến công tích cực đó đã giáng cho kẻ thù một đòn phủ đầu bất ngờ và tạo ra một thế chiến lược chủ động cho toàn bộ cuộc chiến tranh yêu nước. Các căn cứ xuất phát tiến công, các kho hậu cần chuẩn bị cho cuộc xâm lược của địch đều bị phá sạch, khiến địch phải chuẩn bị lại từ đầu. Sau đó, bằng cách tách rời quân bộ và quân thủy, làm tê liệt hẳn sự chi viện của thủy quân, Lý Thường Kiệt đã chặn đứng 30 vạn quân xâm lược Tống trong đó có 10 vạn quân chiến đấu gồm bộ binh và kỵ binh, trước chiến tuyến sông Như Nguyệt. Chiến tuyến kiên cố này là một kỳ công của quân dân ta chứng tỏ nghệ thuật lợi dụng địa hình tinh tường và tài bày trận, cách sứ dụng và bố trí binh lực xuất sắc của nhà quân sự kiệt xuất Lý Thường Kiệt. Bằng chiến tuyến sông Như Nguyệt, quân dân ta đã kiên quyết đập tan mọi cuộc tiến công của quân địch, làm thất bại chiến lược đánh nhanh thắng nhanh của nhà Tống và giam hãm kẻ thù vào một địa bàn núi rừng bất lợi. Phối hợp với quân đội chủ lực của triều đình phần lớn tập trung ở phía trước và sau chiến tuyến chủ yếu, quân dân ta ở vùng sau lưng địch, nổi bật lên vai trò của các dân tộc thiểu số vùng đông - bắc, hoạt động mạnh để tiêu hao và khoét sâu mọi khó khăn, nhược điểm của quân địch. Như Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã nhận định: “Như vậy là lúc đó đã xuất hiện sự phối hợp chiến đấu của đại quân với các lực lượng ở địa phương, tạo nên thế chiến lược đánh địch cả trước mặt và sau lưng. Hình thức phối hợp chiến đấu này thật là một nét độc đạo về nghệ thuật quân sự của dân tộc nhỏ để chống lại chiến tranh xâm lược của quân thù mạnh" (Võ Nguyên Giáp, Vũ trang quần chúng cách mạng xâydựng quân đội nhân dân, Nhà xuất bàn Quân đội nhân dân, Hà Nội. 1972, trang 70). </p><p></p><p>Khi quân địch đã bị động, suy yếu, mệt mỏi, Lý Thường Kiệt sáng suốt nắm lấy thời cơ giành quyền chủ động mở cuộc phản công nhanh chóng đánh tan quân địch. Trận phản công qua bến đò Như Nguyệt do Lý Thường Kiệt trực tiếp chỉ huy là trận quyết chiến có ý nghĩa quyết định kết thúc thắng lợi cuộc chiến tranh chống ngoại xâm của dân tộc ta. Trong trận quyết chiến bên bờ sông Như Nguyệt, Lý Thường Kiệt đã chớp đúng thời cơ và bày ra một thế trận tiến công lợi hại nhằm đánh lừa quân địch chú ý về hướng tiến công thứ yếu đế bất ngờ tập trung binh lực giành thắng lợi quyết định ở hướng tiến công chủ yếu Đây là một trận tập kích quy mô lớn, phối hợp chặt chẽ giữa quân thủy và quân bộ. Chiến tuyến sông Như Nguyệt trước đây là chiến tuyến phòng ngự, nay trở thành bàn đạp xuất kích của những mũi phản công quyết liệt của quân ta. Cuộc kháng chiến chống Tống có quy mô và tính chất của một cuộc chiến tranh chính quy kết hợp với chiến tranh du kích. Lần đầu tiên trong lịch sử, dân tộc ta đã dùng hành động tiến công táo bạo vượt ra ngoài biên giới quốc gia để tự vệ một cách tích cực, chủ động, sau đó lại lập chiến tuyến và dùng lối đánh chính quy phối hợp chặt chẽ với lối đánh du kích ở vùng sau lưng địch để chống lại một cách thắng lợi cuộc vũ trang xâm lược của một nước lớn. Quân đội ta không những có tinh thần chiến đấu anh dũng mang khí phách của một dân tộc anh hùng mà còn thể hiện trình độ tổ chức và nghệ thuật chiến đấu Nhưng cũng như mọi cuộc chiến tranh yêu nước của dân tộc ta, trong cuộc kháng chiến chống Tống thế kỷ XI, quân đội chủ lực của triều đình không chiến đấu một cách đơn độc mà luôn luôn có sự tham gia, ủng hộ của nhândân và có sự phối hợp chặt chẽ với những hoạt động du kích của những lực lượng vũ trang của quần chúng. Những hoạt động này giữ vai trò quan trọng làm cho quân địch suy yếu mệt mỏi và do đó, chuẩn bị thời cơ, điều kiện cho quân chủ lực tiến lên phản công quét sạch quân giặc ra khỏi đất nước. Kháng chiến chống Tống rõ ràng là một cuộc chiến tranh chính quy kết hợp với chiến tranh du kích, mang tính chất nhần dân của chiến tranh yêu nước trong điều kiện một nước nhỏ chống lại sự xâm lược của nước lớn. Đặc biệt, cuộc kháng chiến đó thể hiện nổi bật tư tưởng chủ đạo quán triệt từ đầu đến cuối là tư tưởng chủ động tiến công, dù có lúc dùng hình thức chiến đấu phòng ngự, với tất cả quyết tâm và niềm tin tưởng vững chắc của một dân tộc đang ở khí thế vươn lên mạnh mẽ. </p><p></p><p>Chính trong hoàn cảnh và khí thế đó của dân tộc, bài thơ bất hủ của Lý Thường Kiệt đã ra đời: </p><p></p><p>Nam quốc sơn hà Nam đế cư,</p><p>Tiệt nhiên định phận tại thiên thư, </p><p>Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm, </p><p>Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư. </p><p></p><p>Dịch: </p><p></p><p>Sông núi nước Nam, vua Nam ở </p><p>Rành rành định phận tại sách trời.</p><p>Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm </p><p>Chúng bay sẽ thất bại hoàn toàn. </p><p></p><p>Bài thơ xuất hiện vào lúc gay go nhất của cuộc kháng chiến nhằm động viên, cổ vũ tinh thần quyết chiến quyết thắng của quân dân ta. Bài thơ đã khẳng định quyền độc lập tự chủ thiêng liêng của Tổ quốc, đã cảnh cáo nghiêm khắc mọi kẻ thù xâm lược và nói lên quyết tâm sắt đá của dân tộc ta trong cuộc đấu tranh không biết mệtmỏi để bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ. Bài thơ đã đi vào lịch sử quang vinh của dân tộc như một bản Tuyên ngôn độc lập, bản Tuyên ngôn độc lập thứ nhất của dân tộc Việt Nam.</p><p></p><p><strong><em>( Theo NXB QĐND ) </em></strong></p></blockquote><p></p>
[QUOTE="Bút Nghiên, post: 7660, member: 699"] Quách Quỳ trực tiếp chỉ huy đạo quân chủ lực tiến theo đường thiên lý. Đạo quân này giữ vai trò mũi tiến công chủ yếu trong kế hoạch xâm lược của địch. Do đó, khối quân của Quách Quỳ hẳn tập trung kháđông, phải khoảng trên một nửa quân số của địch, nghĩa là trên 5 vạn quân. Dưới trướng của Quách Quỳ có phó đô tổng quản Yên Đạt và những bộ tướng thân cận ở Phu Diên như Diêu Tự, Trương Thế Cự, Khúc Chẩn, Vương Mẫn... Hiện nay, tài liệu văn tự cũng như kết quả khảo sát thực địa không cho biết, trong khu vực đóng quân, Quách Quỳ tổ chức phòng ngự tạm thời như thế nào. Chỉ biết khu vực đóng quân của Quách Quỳ nằm giữa ba mặt uy hiếp của quân ta: trước mặt (phía nam) là chiến tuyến Như Nguyệt và trại quân ta ở Thị Cầu; bên trái (phía đông) là đại đội thủy binh của Hoằng Chân, Chiêu Văn ở Vạn Xuân; sau lưng (phía bắc) là đạo quân của phò mã Thân Cảnh Phúc đang hoạt động ráo riết ở động Giáp. Với tính cẩn thận, dè dặt vốn có và trong tình thế khó khăn của quân Tống lúc bấy giờ, chắc chắn Quách Quỳ lo phòng thủ chặt chẽ để sẵn sàng đối phó với quân ta. Không có thành lũy bảo vệ, quân địch lợi dụng địa hình bố trí doanh trại theo lối dã chiến. Hơn nữa Quỳ còn "bí mật phòng bị" để đợi quân ta đánh lên thì tiêu diệt. Theo kế hoạch của Lý Thường Kiệt, hai hoàng tử Hoằng Chân và Chiêu Văn được lệnh chỉ huy một đoàn chiến thuyền 400 chiếc chở hai vạn quân, từ Vạn Xuân, ngược sông Như Nguyệt, mở một cuộc tiến công lớn vào khu vực doanh trại của Quách Quỳ. Đây là cuộc tiến công chính diện vào cánh trái khối quân địch lớn nhất và đại bàn doanh của chánh tướng Quách Quỳ. Như sử nhà Tống mô tả: "Vài vạn quân quát tháo, chửi mắng đến đánh" (Lý Đào, Tục tư trị thnlg giám trường biên, sách đã dẫn), đoàn binh thuyền của ta hết sức phô trương thanh thế nhằm lôi cuốn sự chú ý và tập trung lực lượng đối phó của địch về hướng này. Theo binh pháp cổ, đó là lối tiến công của chính binh. Đoàn chiến thuyền của ta đổ quân lên bờ bắc, đánh thẳng vào doanh trại quân Tống. Lúc mới giao chiến, quân địch lúng túng và phải lui. Sách Tục tư trị thông giám trường biên của Tống ghi "tiền quân bất lợi”. Quách Quỳ phải huy động toàn bộ lực lượng và đem cả đội thân quân ra chống cự. Các tướng cao cấp dưới trướng của Quách Quỳ như Yên Đạt, Trương Thế Cự, Vương Mẫn, Lý Tường, Diên Chủng... đều có mặt trên chiến địa. Quân ta tiến khá sâu vào trận địa của địch và gây cho chúng nhiều tổn thất. Nhưng rồi quân địch tung ra càng ngày càng đông và tổ chức phản kích quyết liệt. Quân địch gồm bộ binh và kỵ binh, có lợi thế chiến đấu trên đất liền và ngay trong khu căn cứ đóng quân có tổ chức phòng vệ trước. Quân ta bị thiệt hại và phải rút lui xuống chiến thuyền. Từ trên bờ, quân địch dùng máy bắn đá bắn theo dữ dội làm cho một số chiến thuyền của ta bị đắm. Hai hoàng tử Hoằng Chân, Chiêu Văn đã hy sinh anh dũng trong chiến đấu. Nhìn chung, cuộc tiến công của thấy quân ta có gây cho quân địch nhiều thiệt hại, nhưng bản thân ta cũng bị tổn thất khá nặng. Hai vị hoàng tử chỉ huy và khoảng vài nghìn quân ta đã hy sinh. Nhưng trong khi xem xét, nếu tách rời trận tiến công này và chỉ căn cứ đơn thuần vào tổn thất của đôi bên tham chiến để đánh giá thắng bại thì có lẽ không phù hợp với kế hoạch phản công và ý đồ chiến lược của Lý Thường Kiệt. Cuộc tiến công chính diện của thủy binh ta ắt không phải chỉ nhằm mục đích tiêu diệt sinh lực địch mà điều quan trọng cần chú ý là: có thể nó còn nhằm thu hút lực lượng và tập trung sự chú ý của địch về mặt đó để tạo ra thời cơ, chuẩn bị điều kiện có lợicho một mũi tiến công khác mũi tiến công chủ yếu do Lý Thường Kiệt đích thân chỉ huy bất ngờ tập kích vào chỗ sơ hở của địch, giành thắng lợi quyết định. Diễn biến tiếp tục của cuộc phản công sẽ chứng minh điều đó. Trong lúc quân địch đang lo đối phó với cuộc tiến công ồ ạt của thủy quân ta thì đang đêm, Lý Thường Kiệt trực tiếp chỉ huy đại quân vượt bến đò Như Nguyệt đánh úp vào doanh trại của phó tướng Triệu Tiết ở bờ bắc. Triệu Tiết xuất thân tiến sĩ, giữ viên ngoại lang bộ lại, coi Diên Châu (Diên An, Thiểm Tây). Ở đây Tiết có công chiêu mộ kỵ binh chống lại nước Hạ nên được vua Tống thăng làm thiên chương các đại chế và được tể tướng Vương An Thạch tin dùng. Trước đây, nhà Tống đã cử Triệu Tiết làm chánh tướng điều quân xuống xâm chiếm nước ta. Sau cừ Quách Quỳ làm chánh đô tổng quản thì Tiết giữ chức phó đô tổng quản, đồng thời chuyên về lương thảo. Tuy là phó tướng của Quách Quỳ, Triệu Tiết cũng là người có thế lực, lại đã từng được cử làm chánh tướng nên không phục và có bất hòa với Quách Quỳ. Dưới quyền của Triệu Tiết có những tướng cao cấp của quân Tống như Vương Tiến, Miêu Lý. Số quân do Triệu Tiết trực tiếp chỉ huy cũng khá đông, ước đoán khoảng dưới một nửa số quân Tống, nghĩa là độ ba, bốn vạn quân chiến đấu (Tổng số quân chiến đấu của địch là 10 vạn. Đại bộ phận số quân này đóng thành hai khối chính do Quách Quỳ, Triệu Tiết chỉ huy và một vài vị trí ở quãng giữa. Không có số liệu cụ thể nhưng căn cứ vào sự bố trí lực lượng của địch. có thể ước đoán số quân của Quách Quỳ chiếm khoảng trên một nửa (độ trên 5 vạn), số quân của Triệu Tiết khoảng ba, bốn vạn, số còn lại chia đóng những vị trí không quan trọng). Khu vực đóng quân của Triệu Tiết ở phíabắc bến Như Nguyệt, nay là thôn Mai Thượng, xã Mai Đình (huyện Hiệp Hòa, Bắc Giang). Đây là một khu vực tương đối rộng, quang đãng, đối diện với bến Nh¬ư Nguyệt nằm trên một con đ¬ờng bộ quan trọng về Thăng Long. Riêng cánh đồng phía đông bắc Mai Thượng - nhân dân gọi là cánh đồng Xác đã rộng khoảng 30 mẫu, cách bờ sông khoảng 200-300 mét. Giữa cánh đồng đó có một gò đất cao - nhân dân gọi là gò Xác - nhìn thẳng ra ngã ba Xà là cửa sông Cà Lồ đổ ra sông Cầu. Từ trên gò đất này có thể nhìn bao quát một vùng rộng lớn. Khu doanh trại của Triệu Tiết cũng bố trí theo lối dã chiến, không có thành lũy phòng vệ. Quân địch dựa vào xóm làng và địa hình ven sông đế dựng doanh trại, tổ chức phòng ngự tạm thời. Gò Xác hẳn là một vị trí quan sát quan trọng của địch. Từ đó, có thể kiểm soát con đường giao thông qua bến Như Nguyệt, có thể nhìn bao quát toàn bộ khu doanh trại và có thể quan sát dòng sông Như Nguyệt từ ngã ba Xà đến bến Như Nguyệt, thẹo dõi hoạt động của quân ta ở chiến tuyến bờ nam. Căn cứ vào tên đất và truyền thuyết dân gian địa phương còn có thề xác định được sở chỉ huy của Triệu Tiết. Viên phó tướng quân Tống đặt sở chỉ huy Ở khu đất đến nay vẫn mang tên là Dinh rộng 2 mẫu 3 sào Bắc Bộ cánh bờ sông khoảng 500 mét. Trước mặt Dinh, hai bên tả và hữu có hai khu đất mang tên là Miễu rộng 1 mẫu và Trại rộng 1 mẫu 3 sào. Theo truyền thuyết dân gian, đấy là trạm gác phía ngoài và trại quân bảo vệ trực tiếp sở chỉ huy của Triệu Tiết. Miễu hay Mưỡu là một tiếng Việt cổ có nghĩa là trước. Miễu là di tích trạm gác phía ngoài. Trại là trại quân phía trong. Ba địa điểm Miễu, Trại, Dinh nằm trên ba góc của một hình tam giác, bố trí thành khu sở chỉ huy của phó tướng Triệu Tiết. Hiện nay ba điểm đó ở về phía tây - bắc xóm làng Mai Thượng, nhìn ra cánh đồng Xác. Khi đại bản doanh của Quách Quỳ ở phía tây bị tiến công, hẳn Triệu Tiết lo đối phó mặt đó và có thể điều một bộ phận quân lính đi tiếp ứng cho chánh tướng. Giữa lúc quân địch đang bị thu hút vế mặt đông và đang hí hửng trước "chiến thắng" đánh lui quân ta thì ngay tối hôm ấy, ở mặt tây, doanh trại của Triệu Tiết bị tập kích. Quân địch hết sức bất ngờ, lại bị đánh úp vào ban đêm nên không kịp tố chức đối phó có hiệu quả. Trước sức tiến công mãnh liệt của quân ta, quân địch bị đại bại và bị tiêu diệt đến năm, sáu phần mười. Đại việt sử lược một tác phẩm đời Trần, ghi chép trận tập kích của quân ta như sau: “Lý Thường Kiệt biết quân Tống sức lực đã khốn, đang đêm vượt sông tập kích, đại phá được quân Tống mười phần chết đến năm, sáu” (Đại Việt sử lược, bản dịch, NXB Văn Sử Địa, Hà Nội, 1960, trang 111). Sử sách ghi chép quá sơ sài (Do tình hình tư liệu thiếu thốn như vậy nên hầu hết các công trình nghiên cứu trước đây về cuộc kháng chiến chống Tống và Lý Thường Kiệt không đề cập đến trận tập kích có ý nghĩa quyết định này. Chúng tôi khẳng định trận quyết chiến này, một mặt dựa trên cơ sở phân tích lại những tài liệu trong thư tịch, mặt khác dựa vào kết quả điều tra khảo sát về phòng tuyến sông Như Nguyệt do khoa Sử trường Đại học Tổng hợp Hà Nội phối hợp với Ty Văn hóa Hà Bắc tiến hành.), không cho phép tái hiện diễn biến của trận đánh úp táo bạo, tài tình đó cùng những hình thức chiến thuật Lý Thường Kiệt đã áp dụng. Nhưng chiến công oanh liệt của dân tộc ta thế kỷ XI vẫn được nhân dân địa phương ghi nhớ, truyền tụng từ thế hệ này qua thế hệ khác và để lại những di tích cho đến nay vẫn còn. Do cuộc tập kích của quân ta, khu vực đóng doanh trại của địch biến thành bãi chiến trường và sau đó, hàng vạn xác giặc nằm ngổn ngang khắp cánh đống, gò đất. Nhân dân địa phương liền đặt tên là cánh đồng Xác, gò Xác (Gắn liền với tên đất cánh đồng Xác, gò Xác, nhân dân xã Mai Đình còn lưu truyền những chuyện kể về cuộc tập kích của quân ta do Lý Thường Kiệt chỉ huy. Trên gò Xác còn dấu vết một ngói chùa gọi là chùa Xác hay An Lạc tự, được lặp lên, theo nhân dân đia phương là để siêu thoát" cho những "oan hồn" quân Tống.), để nêu cao một chiến công chống ngoại xâm trên xóm làng quê hương. Thắng lợi của trận tập kích do Lý Thường Kiệt trực tiếp chỉ huy đã giáng một đòn quyết định vào toàn bộ kế hoạch và mưu đồ xâm lược của quân Tống. Chỉ trong vòng một đêm, cả một khu doanh trại tập trung đến ba, bốn vạn quân Tống do phó tướng của địch chỉ huy, bị đánh tan, năm sáu phần mười quân địch bị giết chết tại trận. Trận tập kích đó kết hợp với trận tiến công vào đại bản doanh của Quách Quỳ làm cho thế trận phòng ngự của địch ở bờ bắc sôngNhư Nguyệt bị rung chuyển hoàn toàn. Quách Quỳ và các tướng tá phải than thở với nhau: "Số quân đem đi 10 vạn, phu 20 vạn, nay đã chết mất quá nửa, số còn lại thì ốm đau, lương ăn đã cạn" (Lý Đào, Tục tư trị thông giám trường biên , sách đã dẫn, xem Tống -Lý bang giao tập lục, trang 170). Chiến thắng Như Nguyệt lần thứ hai vào cuối mùa xuân năm 1077 là thắng lợi oanh liệt của trận quyết chiến chiến lược có ý nghĩa kết thúc chiến tranh. Sau đòn phản công quyết định này, quân địch thực sự bị dồn vào cảnh thế cùng lực kiệt. Nguy cơ bị tiêu diệt hoàn toàn đang chờ đợi nếu chúng vẫn ngoan cố đóng quân. Nhưng rút lui thì mết thể diện của "thiên triều”. Biết rõ ý chí xâm lược của quân thù đã bị đè bẹp, Lý Thường Kiệt liền chủ động đưa ra để nghị "giảng hòa", thực nhất là mở ra lối thoát cho quân Tống. Đó là cách kết thúc chiến tranh mềm dẻo như Lý Thường Kiệt đã chủ trương “dùng biện sĩ bàn hòa, không nhọc tướng tá, khỏi tốn xương máu mà bảo toàn được tôn miếu” (Văn bia chùa Linh Xứng (Thanh Hóa) của sư Pháp Bảo đời Lý). Sau khi giành được thắng lợi quyết định về quân sự, công cuộc điều đình "giảng hòa" nhanh chóng đạt kết quả. Quách Quỳ ngoài miệng còn nói vớt vát: "Ta không thể đạp đổ được sào huyệt giặc (quân ta), bắt được Càn Đức (vua Lý Nhân Tông) để báo mệnh triều đình. Tại trời vậy! Thôi đành liều một thân ta để cứu hơn 10 vạn nhân mạng" ( Lý Đào, Tục tư trị thông giám trường biên, sách đã dẫn, xem Tống-Lý bang giao tập lục, trang. 170). Nhưng tâm trạng hắn lúc đó đã được bộc lộ qua lời bình của các học giả nhà Tống: “May được lời giặc nói nhũn, liền nhân đó giảng hòa. Nếu không có lời quy thuận của giặc thì lành thế nào” (Trình Di, Trình Hạo, Nhị Trình di thư, xemTống-Lý bang giao tập lục, tr. 174). Hắn đòi chiếm giữ những vùng đất quân Tống đã tràn qua chẳng qua cũng chỉ là để đỡ mất mặt và cứu vớt phần nào danh dự, thể diện của nhà Tống. Tháng 3 năm 1077, quân Tống rút lui trong cảnh hỗn loạn. Quách Quỳ sợ quân ta tập kích nên bí mật cho quân lính rút vào ban đêm. Nhưng được lệnh lui quân, kẻ nào cũng chỉ mong thoát chết, nhanh chóng được trở về nước. Chúng giẫm đạp lên nhau để tranh đường đi trước. Tống sử chép về cuộc rút quân như sau: "Quỳ muốn rút quân về, sợ giặc tập kích bèn bắt quân khởi hành ban đêm, hàng ngũ không được chỉnh tề, tình hình hỗn loạn, giày xéo lên nhau” (Tống sử, truyện Đào Bật, q. 334). Thực tế, đấy là cuộc tháo chạy tán loạn của bọn bại binh, bại tướng. Do đó, quân Tống rút đến đâu, Lý Thường Kiệt lập tức cho quân tiến theo lấy lại đất đai đến đấy. Quân ta nhanh chóng thu hồi các châu Môn, Quang Lang, Tô Mậu, Tư Lang. Riêng châu Quảng Nguyên (Cao Bằng) là miền đất có nhiều tài nguyên, khoáng sản, nhất là mỏ vàng, nên nhà Tống có âm mưu chiếm đóng lâu dài. Nhưng rồi bằng những biện pháp đấu tranh kiên quyết, nhà Lý cũng thu hồi được vùng đất này vào năm 1079. Những chiến công lừng lẫy bên dòng sông Như Nguyệt đã làm thất bại hoàn toàn âm mưu xâm lược của triều Tống. Độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc ta đã được bảo toàn. Thắng lợi của cuộc kháng chiến rất oanh liệt, to lớn. Nhà Tống không những không chiến được nước ta mà còn phải chịu đựng những thiệt hại nặng nề. 10 vạn quân chiến đấu lúc trở về chỉ còn hơn 2 vạn, 8 vạn trong số 20 vạn phu đã bỏ mạng. Nếu tính cả trận tập kích thành Ung Châu, sốlính và phu của nhà Tống bị tiêu diệt lên đến 30 vạn. Toàn bộ chi phí chiến tranh ngốn mất 5.190.000 lạng vàng. Do thất bại thảm hại trong cuộc chiến tranh xâm lược nước ta, những khó khăn của nhà Tống lại tăng lên. Từ đó về sau, không riêng Tống Thần Tông mà các vua Tống cho đến triều vua cuối cùng, trong khoảng 200 năm, không dám xâm phạm nước ta lần nữa. "Thiên triều” Tống đã phải từ bỏ hẳn âm mưu xâm lược nước ta. Và năm 1164, nhà Tống phải công nhận không chỉ trên thực tế mà cả trên danh nghĩa bang giao, nước ta là một nước riêng biệt, một vương quốc độc lập (trước đây nhà Tống gọi nước ta là "Giao Chỉ quận", nay phải thừa nhận là "An Nam quốc"). Kể từ khi giành lại được độc lập từ năm 938, đây là lần đầu tiên dân tộc ta phải đương đầu với một cuộc xâm lược quy mô lớn và ác liệt của một quốc gia phong kiến lớn nhất phương Đông. Nhưng dưới sự lãnh đạo của triều Lý và Lý Thường Kiệt, dân tộc ta đã anh dũng vượt qua thử thách đó với một tinh thần chủ động, một tư thế hiên ngang. Tinh thần và tư thế đó là kết quả của bước phát triển vượt bậc, của sự lớn mạnh về mọi mặt của đất nước sau hơn một thế kỷ độc lập. Lý Thường Kiệt đã phát huy tất cả sức mạnh vật chất và tinh thần của một dân tộc đang ở khí thế vươn lên, trước hết là sức mạnh của tinh thần yêu nước, ý chí độc lập và của khối đoàn kết dân tộc, để tiến hành cuộc kháng chiến chống ngoại xâm với tư tưởng chiến lược rất tích cực. Đây là một cuộc kháng chiến thắng lợi oanh liệt và có nhiều nét độc đáo trong lịch sử bốn nghìn năm giừ nước của dân tộc ta. Nắm chắc những chỗ mạnh, chỗ yếu của nhà Tống, Lý Thường Kiệt mở đầu cuộc kháng chiến chống ngoại xâm bằng một cuộc tiến công trước để tự vệ. Hành động tiến công tích cực đó đã giáng cho kẻ thù một đòn phủ đầu bất ngờ và tạo ra một thế chiến lược chủ động cho toàn bộ cuộc chiến tranh yêu nước. Các căn cứ xuất phát tiến công, các kho hậu cần chuẩn bị cho cuộc xâm lược của địch đều bị phá sạch, khiến địch phải chuẩn bị lại từ đầu. Sau đó, bằng cách tách rời quân bộ và quân thủy, làm tê liệt hẳn sự chi viện của thủy quân, Lý Thường Kiệt đã chặn đứng 30 vạn quân xâm lược Tống trong đó có 10 vạn quân chiến đấu gồm bộ binh và kỵ binh, trước chiến tuyến sông Như Nguyệt. Chiến tuyến kiên cố này là một kỳ công của quân dân ta chứng tỏ nghệ thuật lợi dụng địa hình tinh tường và tài bày trận, cách sứ dụng và bố trí binh lực xuất sắc của nhà quân sự kiệt xuất Lý Thường Kiệt. Bằng chiến tuyến sông Như Nguyệt, quân dân ta đã kiên quyết đập tan mọi cuộc tiến công của quân địch, làm thất bại chiến lược đánh nhanh thắng nhanh của nhà Tống và giam hãm kẻ thù vào một địa bàn núi rừng bất lợi. Phối hợp với quân đội chủ lực của triều đình phần lớn tập trung ở phía trước và sau chiến tuyến chủ yếu, quân dân ta ở vùng sau lưng địch, nổi bật lên vai trò của các dân tộc thiểu số vùng đông - bắc, hoạt động mạnh để tiêu hao và khoét sâu mọi khó khăn, nhược điểm của quân địch. Như Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã nhận định: “Như vậy là lúc đó đã xuất hiện sự phối hợp chiến đấu của đại quân với các lực lượng ở địa phương, tạo nên thế chiến lược đánh địch cả trước mặt và sau lưng. Hình thức phối hợp chiến đấu này thật là một nét độc đạo về nghệ thuật quân sự của dân tộc nhỏ để chống lại chiến tranh xâm lược của quân thù mạnh" (Võ Nguyên Giáp, Vũ trang quần chúng cách mạng xâydựng quân đội nhân dân, Nhà xuất bàn Quân đội nhân dân, Hà Nội. 1972, trang 70). Khi quân địch đã bị động, suy yếu, mệt mỏi, Lý Thường Kiệt sáng suốt nắm lấy thời cơ giành quyền chủ động mở cuộc phản công nhanh chóng đánh tan quân địch. Trận phản công qua bến đò Như Nguyệt do Lý Thường Kiệt trực tiếp chỉ huy là trận quyết chiến có ý nghĩa quyết định kết thúc thắng lợi cuộc chiến tranh chống ngoại xâm của dân tộc ta. Trong trận quyết chiến bên bờ sông Như Nguyệt, Lý Thường Kiệt đã chớp đúng thời cơ và bày ra một thế trận tiến công lợi hại nhằm đánh lừa quân địch chú ý về hướng tiến công thứ yếu đế bất ngờ tập trung binh lực giành thắng lợi quyết định ở hướng tiến công chủ yếu Đây là một trận tập kích quy mô lớn, phối hợp chặt chẽ giữa quân thủy và quân bộ. Chiến tuyến sông Như Nguyệt trước đây là chiến tuyến phòng ngự, nay trở thành bàn đạp xuất kích của những mũi phản công quyết liệt của quân ta. Cuộc kháng chiến chống Tống có quy mô và tính chất của một cuộc chiến tranh chính quy kết hợp với chiến tranh du kích. Lần đầu tiên trong lịch sử, dân tộc ta đã dùng hành động tiến công táo bạo vượt ra ngoài biên giới quốc gia để tự vệ một cách tích cực, chủ động, sau đó lại lập chiến tuyến và dùng lối đánh chính quy phối hợp chặt chẽ với lối đánh du kích ở vùng sau lưng địch để chống lại một cách thắng lợi cuộc vũ trang xâm lược của một nước lớn. Quân đội ta không những có tinh thần chiến đấu anh dũng mang khí phách của một dân tộc anh hùng mà còn thể hiện trình độ tổ chức và nghệ thuật chiến đấu Nhưng cũng như mọi cuộc chiến tranh yêu nước của dân tộc ta, trong cuộc kháng chiến chống Tống thế kỷ XI, quân đội chủ lực của triều đình không chiến đấu một cách đơn độc mà luôn luôn có sự tham gia, ủng hộ của nhândân và có sự phối hợp chặt chẽ với những hoạt động du kích của những lực lượng vũ trang của quần chúng. Những hoạt động này giữ vai trò quan trọng làm cho quân địch suy yếu mệt mỏi và do đó, chuẩn bị thời cơ, điều kiện cho quân chủ lực tiến lên phản công quét sạch quân giặc ra khỏi đất nước. Kháng chiến chống Tống rõ ràng là một cuộc chiến tranh chính quy kết hợp với chiến tranh du kích, mang tính chất nhần dân của chiến tranh yêu nước trong điều kiện một nước nhỏ chống lại sự xâm lược của nước lớn. Đặc biệt, cuộc kháng chiến đó thể hiện nổi bật tư tưởng chủ đạo quán triệt từ đầu đến cuối là tư tưởng chủ động tiến công, dù có lúc dùng hình thức chiến đấu phòng ngự, với tất cả quyết tâm và niềm tin tưởng vững chắc của một dân tộc đang ở khí thế vươn lên mạnh mẽ. Chính trong hoàn cảnh và khí thế đó của dân tộc, bài thơ bất hủ của Lý Thường Kiệt đã ra đời: Nam quốc sơn hà Nam đế cư, Tiệt nhiên định phận tại thiên thư, Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm, Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư. Dịch: Sông núi nước Nam, vua Nam ở Rành rành định phận tại sách trời. Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm Chúng bay sẽ thất bại hoàn toàn. Bài thơ xuất hiện vào lúc gay go nhất của cuộc kháng chiến nhằm động viên, cổ vũ tinh thần quyết chiến quyết thắng của quân dân ta. Bài thơ đã khẳng định quyền độc lập tự chủ thiêng liêng của Tổ quốc, đã cảnh cáo nghiêm khắc mọi kẻ thù xâm lược và nói lên quyết tâm sắt đá của dân tộc ta trong cuộc đấu tranh không biết mệtmỏi để bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ. Bài thơ đã đi vào lịch sử quang vinh của dân tộc như một bản Tuyên ngôn độc lập, bản Tuyên ngôn độc lập thứ nhất của dân tộc Việt Nam. [B][I]( Theo NXB QĐND ) [/I][/B] [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch sử Việt Nam
Việt Nam Cổ Đại (Nguyên Thủy - Đầu thế kỷ X)
Chiến thắng Như Nguyệt mùa xuân năm 1077
Top