Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch sử Việt Nam
Việt Nam Cổ Đại (Nguyên Thủy - Đầu thế kỷ X)
Chiến thắng Như Nguyệt mùa xuân năm 1077
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="Bút Nghiên" data-source="post: 7659" data-attributes="member: 699"><p>Ngày 08 tháng 01 năm 1077, đại quân do Quách Quỳ chỉ huy vượt qua ải Nam Quan tiến vào vùng Lạng Sơn, định theo đường thiên lý xuống Thăng Long trên các đường tiến quân của địch, quân ta chặn đánh quyết liệt ở nhiều nơi, gây cho chúng một số khó khăn, thiệt hại. </p><p></p><p>Ngày 18 tháng 01 năm 1077, các mũi tiến công của quân Tống đến bờ bắc sông Cầu. </p><p></p><p>Đúng như dự kiến của Lý Thường Kiệt, đến đây bộ binh và kỵ binh địch bị chặn đứng đứng trước chướng ngại tự nhiên và chiến tuyến kiên cố của quân ta ở bờ nam Như Nguyệt. Đây chính là lúc và nơi quân thủy bộ của địch cần phối hợp với nhau, tổ chức vượt sông để tiến thẳng về Thăng Long như kế hoạch hành quân đã vạch ra. Nhưng thủy binh Tống đã bị đội binh thuyền ta, do Lý Kế Nguyên chỉ huy, chặn lại ở Vĩnh An. Chúng cố gắng đánh mở đường để theo sông Đông Kênh tiến vào cửa sông Bạch Đằng, nhưng 10 trận liền bị quân ta đánh bại, không sao nhích lên được một bước. Tiến không được, rút lui về nước sợ bị tội, thủy binh địch đành đóng ở cửa sông Đông Kênh để chờ đợi tin tức của cánh quân bộ. Cho đến lúc có lệnh triều đình gọi về, bọn này mới biết chiến tranh đã thất bại! Đó là một thắng lợi có ý nghĩa chiến lược của quân ta nằm trong toàn bộ kế hoạch kháng chiến của Lý Thường Kiệt. </p><p></p><p>Chưa thấy thủy binh vào để hiệp đồng vượt sông, Quách Quỳ quyết định phải đóng quân lại ở bờ bắc sông Như Nguyệt trên một trận tuyến dài 60 dặm (khoảng hơn 30 ki-lô-mét). Với ý đồ chuẩn bị vượt sông, tiếp tục cuộc tiến công đánh chiếm kinh thành Thăng Long, hoàn thành cuộc chiến tranh xâm lược, quân địch không dàn đều lực lượng trên trận tuyến kéo dài đó, mà đóng thành từng khối ở những vị trí xung yếu và nhất là ở những bến đò, con đường thuận lợi tiến về Thăng Long.</p><p></p><p> Một bộ phận quan trọng quân Tống do phó tướng Triệu Tiết chỉ huy, đóng ở bờ bắc bến Như Nguyệt, vùng thôn Mai Thượng, xã Mai Đình (huyện Hiệp Hòa, Bắc Giang) ngày nay. Đại bản doanh của chủ tướng Quách Quỳ đóng ở phía đông, cách khu vực đóng quân của Triệu Tiết 60 dặm (khoảng hơn 30 ki-lô-mét) (Lý Đào, Tục tư trị thông giám trường biên, sách đã dẫn). Hiện nay, tài liệu trong thư tịch và kết quả điều tra khảo sát điền dã chưa cho phép xác định địa điểm đóng quân này của địch. Nhưng căn cứ vào khoảng cách 60 dặm về phía đông so với sở chỉ huy của Triệu Tiết thì có thể phỏng đoán đại bản doanh của Quách Quỳ đặt ở khoảng đối diện với Thị Cầu (thị xã Bắc Ninh), thuộc huyện Việt Yên (Bắc Giang) ngày nay. Đây cũng là một vị trí trọng yếu ở gần bến đò Thị Cầu và nằm trên đường thiên lý đi Thăng Long.</p><p></p><p> Như vậy, quân địch chia làm hai khối lớn do chánh tướng và phó tướng trực tiếp chỉ huy, đóng ở hai địa điểm cách nhau 60dặm ở bờ bắc sông Như Nguyệt. Hai địa điểm ấy đều ở trước hai bến đò quan trọng của sông Như Nguyệt (bến Như Nguyệt và bến Thị Cầu) và nằm trên hai trục vận động thuận lợi nhất tiến về Thăng Long (đường Như Nguyệt - Thăng Long và Thị Cầu - Thăng Long). Điều đó càng chứng tỏ quân địch vẫn giữ đội hình tiến công và tạm đóng quân lại để tìm cách vượt sông Cầu, chọc thủng phòng tuyến quân ta, mở đường tiến đánh Thăng Long. </p><p></p><p>Khoảng giữa hai khối quân lớn ở hai phía đông, tây một bộ phận quân Tống còn chia nhau đóng giữ một số vị trí cần thiết để có thế liên hệ, tiếp ứng với nhau khi tổ chức vượt sông cũng như khi bất ngờ bị quân ta tiến công. Trong số các vị trí đó có địa điểm núi Tiên Lát ở thôn Hạ Lát, xã Tiên Sơn (huyện Việt Yên, Bắc Giang) ngày nay. Khu núi Tiên Lát gồm có núi Voi, núi Chúc, núi Lều, núi Hoàng... độ cao dưới 80 mét. Đứng trên núi Phượng Hoàng có thể quan sát một vùng rộng lớn ở bờ nam sông Như Nguyệt từ xã Dũng Liệt đến xã Hòa Long và cả vùng Thị Cầu, Đáp Cầu. </p><p></p><p>Giữa các ngọn núi có một khu lòng chảo gọi là cánh đồng Nội rộng khoảng 20 mẫu Bắc bộ. Từ đồng Nội ra bờ sông có đường đi, dài gần 2 ki-lô-mét. Khu núi Tiên Lát cách doanh trại của Triệu Tiết ở phía tây khoảng 20 ki-lô-mét và cách đại bản doanh của Quách Quỳ ở phía đông khoảng 10 ki-lô-mét. Khúc sông Như Nguyệt qua vùng này lại hẹp và ở giữa có ghềnh đá Can Vang. Quân địch đóng ở Tiên Lát vừa chiếm cứ một vị trí trung gian giữa hai khối quân chính, vừa chiếm lĩnh một điểm cao có lợi để quan sát trận địa quân ta ở bờ nam (đối diện với Tiên Lát có trại quân Lý ở Phấn Động), vừa có thể khi cần thiết sẽ bắc cầu phao qua ghềnh đá Can Vang để vượt sông (Nhân dân thôn Hạ Lát cũng kể rằng: quân Tống đóng quân ở cánh đồngNội và núi Phượng Hoàng chống nhau với quân ta ở bờ nam thuộc xã Tam Đa (Yên Phong, Bắc Ninh). Truyền thuyết vùng Tam Đa cũng nói quân nhà Lý đóng ở Phấn Động đánh nhau với quân Tống ở bờ bắc.).</p><p></p><p> Tiến xuống bờ bắc sông Như Nguyệt, quân Tống chỉ cách Thăng Long khoảng 20 ki-lô-mét (tính theo đường Như Nguyệt - Thăng Long). Từ biên giới đến đây chúng đã tiến quân không đến nỗi khó khăn lắm. Quân địch đang hung hăng muốn thừa thắng tiếp tục cuộc tiến công. Quách Quỳ cũng nóng lòng muốn chiếm Thăng Long để thực hiện kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh như vua Tống đã căn dặn. Chúng bất đắc dĩ phải tạm đóng quân lại ở bờ bắc sông Như Nguyệt là để chờ sự chi viện của thủy quân.</p><p></p><p> Sau một thời gian không thấy thủy quân, Quách Quỳ và Triệu Tiết quyết định tự tổ chức vượt sông bằng lực lượng bộ binh và kỵ binh.</p><p></p><p> Phía trước đại bản doanh của Quách Quỳ, bên kia sông Như Nguyệt có một trại quân của ta án ngữ và chếch về phía đông lại có lực lượng thủy binh mạnh của Hoằng Chân, Chiêu Văn đóng ở Vạn Xuân có thể cơ động ngược sông Như Nguyệt đánh phía trước hay ngược sông Hồng chẹn phía sau quân Tống. Cho rằng quân ta tập trung lực lượng ngăn chặn đại quân của Quách Quỳ tiến theo đường thiên lý nên chúng không dám vượt sông ở bến Thị Cầu. Trong lúc đó, tướng Miêu Lý ở Như Nguyệt lại "báo rằng giặc Man (chỉ quân ta -T.G.) đã trốn đi" (Lý Đào, Tục tư trị thông giám trường biên, dẫn theo Tống – Lý bang giao tập lục, sách đã dẫn) và xin "thừa hư" đem bộ binh vượt sông đột phá chiến tuyến quân ta ở mạn này đề mở đường cho đại quân tiến công. Quách Quỳ đã chấp nhận kế hoạch đó. </p><p></p><p>Tướng Vương Tiến liền được lệnh bắc cầu phao qua bến Như Nguyệt để cho đội quân xung kích do Miêu Lý chỉ huy sang sông. Đội quân Miêu Lý gồm khoảng vài nghìn quân (Đại Việt sử ký toàn thư có đoạn chép: “Lý Thường Kiệt đem quân đón đánh, đến sông Như Nguyệt đánh địch. Quân Tống bị chết đến hơn 1.000 người." (bản dịch đã dẫn. tập I, trang 238). Đó là trận đánh đội quân Miêu Lý. Số quân địch bị chết hơn 1.000 thì có thể ước đoán đội quân Miêu Lý có khoảng trên 1.000 và dưới 2.000, vì phần lớn đội quân này bị tiêu diệt.). Chúng dùng cầu phao vượt sông và chọc thủng được phòng tuyến quân ta. Miêu Lý chủ quan, khinh địch. Hắn cho rằng “một trận đánh tan quân giặc”, nên không cần chờ đại quân qua sông mà tự mình đưa đội xung kích “tiến thẳng về phía Giao Châu (Thăng Long)” để “tiến vào phá nước chúng” (Lý Đào, Tục tư trị thông giám trường biên, dẫn theo Tống – Lý bang giao tập lục, sách đã dẫn). Quân địch theo đường Như Nguyệt - Thăng Long tiến về phía Thăng Long. </p><p></p><p>Đội quân Miêu Lý vừa tiến đến vùng Yên Phụ, Thụy Lôi (Đông Anh, Hà Nội) cách Như Nguyệt khoảng 6 ki-lô-mét thì bị quân ta đổ ra đánh chặn quyết liệt. Yên Phụ, Thụy lôi nằm trên con đường từ Như Nguyệt về Thăng Long. Yên Phụ lại có núi Thất Diệu xưa kia cây cối rậm rạp, có cầu Gạo là chỗ lầy lội khó đi qua. Lý Thường Kiệt sử dụng một bộ phận quân chủ lực, lợi dụng địa hình, tổ chức phản kích vừa chặn đánh phía trước vừa chẹn đường rút lui phía sau. Quân ta được nhân dân hết lòng giúp đỡ, chiến đấu ngoan cường (Theo truyền thuyết của nhân dân xã Yên Phụ thì tên làng xưa kia là Yên Khang. Sau vì dân làng có công giúp nhà Lý đánh thắng quân Tống nên được đổi tên làng là YênPhụ. Hiện nay ở đình Yên Phụ còn có một đôi câu đối nhắc đến sự tích này:</p><p></p><p> “Thoái lỗ trợ kỳ công, Lý tướng kinh hồi thu dạ mộng. </p><p>Trừ yêu dưong chính khí, Diệu sơn toàn kiện tráng thời quang”).</p><p></p><p> Quân địch bị đánh tan số sống sót cùng với Miêu Lý hốt hoảng chạy về Như Nguyệt. Nhưng đến nơi thì cầu phao đã bị cắt và quân ta đã chẹn đường về của chúng. Quân địch bị bao vây và bị tiến công dữ dội. Bên kia sông, quân địch cho bè sang cứu nhưng không có kết quả. Mô tả trận đánh này, một tác giả đời Tống viết: “Binh thế dứt đoạn, quân ít không địch nổi nhiều, bị giặc (chỉ quân ta - T.G.) ngăn trở, rơi xuống bờ sông” (Theo Tục tư trị thông giám trường biên thì Vương Tiến đã “vội vàng cắt cầu” vì sợ quân ta lợi dụng tràn sang bờ bắc.</p><p></p><p> Nhưng theo truyền thuyết nhân dân vùng Mai Đình thì quân ta đã phá cầu để chẹn đường rút lui của Miêu Lý và ngăn cản quân Tống ở bờ bắc sang tiếp cứu). Hầu hết đội quân xung kích của Miêu Lý đều bị tiêu diệt. Chỉ có Miêu Lý và một số ít tàn quân liều chết mở đường chạy thoát về bờ bắc. Cuộc tiến công lần thứ nhất của quân địch đã bị đập tan. Trước thất bại thảm hại của đội quân xung kích, Quách Quỳ rất tức tối và đổ cơn giận dữ lên đầu Miêu Lý. Hắn coi Miêu Lý là một "tướng kiêu” và "định thi hành quân pháp” xử tử viên bại tướng này (Lý Đào, Tục tư trị thông giám trường biên). </p><p></p><p>Chiến thắng Như Nguyệt lần thứ nhất xảy ra vào đầu mùa xuân năm 1077 là chiến thắng mở màn cho những cuộc giao tranh quyết liệt và những chiến công vang dội của quân dân ta trên chiến tuyến sông Như Nguyệt. Sau thất bại của Miêu Lý, Quách Quỳ thấy không phải “giặc Man đã trốn đi"và bờ nam “bỏ không” như những tin tức do thám trước đây hắn đã nhận được. Hắn không dám chủ quan và liều lĩnh vượt sông, mà đành phải chờ thủy binh. Nhưng hắn có biết đâu thủy binh Tống đã bị thủy binh ta chặn đứng và bẻ gãy ở ngoài bờ biển, không làm sao tiến được vào đất liền để chi viện cho bộ binh, kỵ binh vượt sông.</p><p></p><p> Chờ mãi không thấy thủy binh, Quách Quỳ lại phải ra lệnh tổ chức cuộc tiến công lần thứ hai. Lần này, chúng huy động một lực lượng mạnh hơn và đóng bè lớn chở quân qua sông. Mỗi lần bè đưa được 500 quân. Hết lớp này đến lớp khác, quân địch đổ bộ sang bờ nam sông Như Nguyệt rồi xông lên phá bãi chướng ngại ven sông (Hiện nay, chưa có cứ liệu xác thực về địa điềm vả thời gian của cuộc tiến công thứ hai của quân Tống. Truyền thuyết dân gian vùng ven sông Như Nguyệt có nhắc đến một cuộc chiến đấu ác liệt của quân ta ở Phấn Động (Tam Đa, Yên Phong) chống lại quân Tống từ Tiên Lát (Tiên Sơn, Việt Yên) tiến công sang. Phải chăng đây là nơi quân địch vượt sông tiến công vào chiến tuyến quân ta lần thứ hai này?). Chúng chặt, đốt những hàng rào bằng tre. Nhưng giậu dày mấy tầng rất khó phá, lại bị quân ta từ trên chiến lũy đánh xuống dữ dội.</p><p></p><p> Do khả năng chuyên chở của bè, mỗi lần quân địch chỉ đổ bộ được 500 quân, rồi phải đưa bè về bờ bắc để tiếp tục chở đợt sau. Trước chiến tuyến kiên cố và sức phản kích mãnh liệt của quân ta, quân địch đố bộ đợt nào bị tiêu diệt đợt đó. Lớp trước bị tiêu diệt, lớp sau sang cứu viện lại tiêu diệt nốt. Một người Tống đương thời đã mô tả trận đánh như sau: “Dùng bè chở 500 quân vượt sông, vừa chặt vừa đốt mấy lớp trại rào tre không được, đem bè không về để chở cứu binh nhưng lại bị giặc (chỉ quân ta) bắt giết. Thế là quân ta khôngđược cứu, kẻ trốn, kẻ chết, không thành công được" (Trình Di, Trình Hạo, Nhị Trình di thư¬, sách đã dẫn). </p><p></p><p>Cuộc tiến công lần thứ hai của quân Tống lại bị đập tan. Lần này, quân địch không những không chọc thủng được chiến tuyến quân ta mà còn bị chặn đứng lại phía trước bãi chướng ngại ven sông và bị tiêu diệt hoàn toàn. Quân ta lại ghi thêm một chiến công mới trong cuộc chiến đấu dũng cảm và mưu trí bảo vệ chiến tuyến sông Như Nguyệt. </p><p></p><p>Hai lần vượt sông tiến công, hai lần bị thất bại thảm hại. Trước dòng sông Như Nguyệt và chiến tuyến bờ nam của quân ta, Quách Quỳ cảm thấy bất lực, không có sự hiệp đồng của thủy binh thì bộ binh và kỵ binh Tống không thể vượt qua được. Viên chánh tướng thống lĩnh 10 vạn quân chiến đấu và 20 vạn phu phục dịch của triều Tống không dám nghĩ đến tiến công nữa. Quách Quỳ quyết định dứt khoát phải chờ thủy quân và buồn rầu ra lệnh “Ai bàn đánh sẽ chém!" (Tôn Thăng, Đàm Phố, dẫn theo Lý Thường Kiệt, sách đã dẫn, trang 289). </p><p></p><p>Quân địch từ thế tiến công đã phải chuyển sang thế tạm thời cố thủ để chấn chỉnh lực lượng và đợi thủy quân. Ý đồ đánh nhanh thắng nhanh của địch đã bị phá sản. Đó làmột thất bại có ý nghĩa chiến lược rất nặng nề đối với quân Tống. Trong tình hình đối nội đối ngoại khó khăn của triều Tống lúc bấy giờ, thất bại đó càng trở nên nguy hại. Lực lượng quân địch chưa bị tổn thất nhiều lắm, nhưng thế của địch đã trở nên suy yếu, bị động. Sách Tục tư trị thông giám trường biên của Lý Đào chép: "Quân ta (chỉ quân Tống - T.G.) không sang sông được. Muốn đánh cũng không được” (Tống – Lý bang giao tập lục, sách đã dẫn, trang 170). </p><p></p><p>Như thế là quân ta đã giành được những thắng lợi có ý nghĩa chiến lược quan trọng làm cơ sở tiến lên giành thắng lợi quyết định. Chủ lực của địch là bộ binh và kỵ binh đã bị tách rời khỏi thủy binh và bị chặn đứng lại trước chiến tuyến sông Như Nguyệt. Quân địch tuy có chiếm được khu vực đông - bắc và bắc ngạn sông Cầu, nhưng đã mất thế chủ động tiến công và bị giam hãm trong một địa bàn hết sức bất lợi. </p><p></p><p>Trước mặt quân Tống, chiến tuyến của quân ta càng ngày càng trở nên vững vàng và bất khả xâm phạm. Hàng ngày, Lý Thường Kiệt cho quân sĩ khiêu khích, nhưng quân địch không dám liều lĩnh tiến công. Chúng chỉ dùng máy bắn đá từ bờ bắc bắn sang bờ nam.</p><p></p><p> Sau lưng địch, quân dân ta lại luôn luôn mở những trận quấy rối, tiêu hao quân địch. Trong cuộc kháng chiến chống Tống, các dân tộc thiểu số ở vùng núi rừng phía bắc và đông - bắc giữ một vai trò quan trọng và có nhiều cống hiến xuất sắc.. Những đội quân vùng thượng du thực chất là lực lượng vũ trang của các dân tộc thiểu số do các tù trưởng của họ chỉ huy. Trong cuộc tập kích thành Ung Châu, có những tù trưởng đã huy động gần như toàn bộ nhândân trong vùng đi chiến đấu. Do đó, sử nhà Tống ghi: “Dân Man kéo hết cả nhà theo, chỉ để một vài người ốm yếu ở nhà” (Lý Đào, Tục tư trị thông giám trường biên, sách đã dẫn). Khi quân Tống ào ạt tràn sang xâm lược các đội quân vùng thượng du đã chiến đấu dũng cảm, làm chậm bước tiến của quân địch và tiêu hao một phần sinh lực địch, tiêu biểu nhất là cuộc chiến đấu của phò mã Thân Cảnh Phúc ở ải Quyết Lý và Giáp Khẩu. Thân Cảnh Phúc vốn là một tù trưởng có thế lực của dân tộc Tày ở động Giáp (nam Lạng Sơn, bắc Bắc Giang) đã ba đời lấy công chúa vua Lý, làm phò mã nhà Lý. Lợi dụng địa hình hiểm yếu Thân Cảnh Phúc và đội quân người Tày đã đánh cản địch có kết quả. Đạo quân chủ lực của Quách Quỳ không dám vượt qua ải Giáp Khẩu (Chi Lăng, Lạng Sơn). Quách Quỳ phải cho một bộ phận theo đ¬ờng núi phía tây đánh vòng vào sau lưng Giáp Khẩu để mở đường thiên lý cho đại quân tiến xuống. Nhưng sau khi quân địch đã tràn qua hoặc chiếm đóng, những đạo quân thượng du liền phân tán lực lượng, tận dụng địa hình núi rừng quen thuộc, chặn đánh những cuộc hành quân của địch, cản trở sự chuyên chở, tiếp tế lương thực. Đặc biệt ở vùng động Giáp, đạo quân của phò mã Thân Cảnh Phúc đã tiến hành lối đánh phân tán, đánh lẻ rất có hiệu quả. Sách Đại Việt sử ký dẫn một đoạn trong sách Quế Hải chí chép về hoạt động của người anh hùng dân tộc Tày này như sau: "Viên tri châu Quang Lang là phò mã, bị thua, bèn trốn vào trong bụi cỏ, thấy quân Tống đi lẻ loi thì ra giết chết hoặc bắt về… Người ta cho là một vị thiên thần”. Quân địch càng ngày càng bị tiêu hao, mệt mỏi vì những hoạt dộng du kích lợi hại đó. Quân Tống tạm thời chiếm được vùng núi rừng đông - bắc của nước ta. Đó là vùng thượng du và trung du, phần lớn là núi cao rừng rậm, cư dân thưa thớt mà quân địch không thể cướp bóc, vơ vét lương thực để đủ nuôi sống hàng chục vạn quân và phu. Việc tiếp tế lương thực cho 10 vạn quân chiến đấu hoàn toàn trông chờ vào sự vận chuyển bằng đường bộ của dân phu. Theo sự tính toán của viên chuyển vận sứ Lý Binh Nhất thì phải có 40 vạn phu chuyên chở mới đủ cung cấp lương ăn cho 10 vạn quân và 1 vạn ngựa trong một tháng. Nhưng nhà Tống chỉ điều động được 20 vạn phu. Ngay khi tiến quân vào nước ta, vấn đề quân lương đã là một khó khăn lớn của nhà Tống vì bao nhiêu căn cứ hậu cần xây dựng ở vùng biên giới đã bị cuộc tập kích của Lý Thường Kiệt phá sạch, mấy năm ấy nhiều nơi lại mất mùa và số phu không đủ vận chuyển. Vì thiếu phu vận lương mà một số vũ khí và tên sắt của quân lính đã phải bỏ lại. Càng đóng quân lâu ngày Ở vùng bắc sông Cầu, quân Tống càng bị lâm vào cảnh thiếu lương thực nghiêm trọng. Số phu vận chuyển đã thiếu lại phải chuyên chở từ hậu phương xa xôi sang, đường đi lại khó khăn hiểm trở và luôn luôn bị quân dân ta chặn đánh.</p><p></p><p> Hai tháng trôi qua. Quân Tống càng ngày càng bị tiêu hao về số lượng, và đặc biệt nghiêm trọng là càng ngày càng bị mệt mỏi, hoang mang. Tin tức thủy quân, niềm hy vọng và chờ đợi của chúng vẫn mờ mịt. Lương thực thiếu thốn, ăn uống không đủ. Thời tiết lại bắt đầu chuyển từ xuân sang hè, không thích hợp với người phương bắc. Nhà Tống đã sai chọn một số bài thuốc chữa lam chướng chế thành tễ và phái một số lương y chuyên trị bệnh lam chướng đi theo quân viễn chinh. Nhưng khí hậu ẩm thấp và các thứ bệnh nhiệt đới vẫn hoành hành quân Tống, làm cho nhiều người ốm đau và một số chết. Vua Tống lo lắng sai lập đàn cầu cúng, nhưng làm sao ngăn nổi bệnh tật?</p><p></p><p> Mệt mỏi và căng thẳng. Thế suy, lực giảm. Quân Tống bị dồn vào một tình thế khốn quẫn, tiến thoái đều khó. Tiến công thì từ hai tháng trước đây đã là cố gắng tuyệt vọng cua quân địch. Rút lui thì nhục nhã và mang tội với triều đình. Đóng quân lại chờ đợi thì thủy binh không thấy tăm hơi mà bộ binh và kỵ binh thì có nguy cơ mòn mỏi, tan rã. Chính vào lúc đó, vào khoảng cuối mùa xuân năm l077, Thái úy Lý Thường Kiệt đã kịp thời nắm lấy thời cơ, lãnh đạo quân dân ta chuyển sang phản công chiến lược đánh tan quân xâm lược. </p><p></p><p>Quân địch tuy đã suy yếu và gặp nhiều khó khăn, nhưng số lượng vẫn đông. Chúng vẫn đóng quân trên một trận tuyến kéo dài khoảng 30 ki-lô-mét ở bờ bắc sông Như Nguyệt với hai khối quân chính đóng ở hai phía đông, tây, do chính Quách Quỳ và Triệu Tiết chỉ huy. Từ khi chuyển sang thế tạm thời cố thủ, chúng lo phòng thủ cẩn mật hơn để đề phòng những cuộc tiến công của quân ta. Chúng không dám tiến công dù bị quân ta khiêu khích, nhưng vẫn có âm mưu nhử quân ta lên bắc để tiêu diệt. Chúng đã từng bàn tính với nhau: “Nhử người tới đất mình lợi hơn mình tới đất người. Vậy nên giả cách không phòng bị, chúng nó (chỉ quân ta - T.G) ắt tới đánh" (Vương Xung, Đông Đô sử lược, bản chép tay). </p><p></p><p>Tương quan lực lượng và tình hình bố phòng của địch không cho phép quân ta mở một cuộc tiến công bao vây tiêu diệt toàn bộ quân địch. Quách Quỳ đã chủ trương không tiến công nhưng cũng không rút lui, mà chỉ lo cố thủ, đóng quân chờ đợi. Do đó, quân ta cũng không thể nhử địch rời khỏi căn cứ để tiêu diệt theo lối đánh vận động sở trường của dân tộc. Trên cơ sở nghiên cứu thận trọng tình hình mọi mặt, nhất là lực lượng và sự bố phòng của địch, Lý Thường Kiệt đề ra một kế hoạch phản công rất mưu trí, táo bạo. ông chủ trương mở những cuộc tập kích lớn để tiêu diệt quân địch, nh¬ng phải làm sao chia sẻ, phân chúng ra mà tiêu diệt và tạo nên yếu tố hành động chiến lược có ý nghĩa quyết định. </p><p></p><p>Ở bờ bắc sông Như Nguyệt, quân địch đóng thành hai khối lớn trên hai con đường tiến về Thăng Long, ở khoảng giữa có một số doanh trại để sẵn sàng liên hệ, tiếp ứng cho nhau. Khối quân của chánh tướng Quách Quỳ đóng ở phía đông, khoảng bờ bắc bến đò Thị Cầu trên đường thiên lý. Khối quân của phó tướng Triệu Tiết đóng ở phía tây khoảng bờ bắc bến đò Nh¬ư Nguyệt. Trước hết, Lý Thường Kiệt chọn khối quân của Quách Quỳ làm đối tượng tiến công. Quách Quỳ là một võ tướng cao cấp của nhà Tống, trước đã từng giúp Phạm Trọng Yêm giữ biên thùy phía bắc chống lại nước Hạ. Trong hàng ngũ tướng soái nhà Tống, Quách Quỳ được coi là người "lão luyện việc biên thùy", tính thận trọng. Vua Tống phong Quỳ làm An Nam đạo hành doanh đô tổng quản kinh lược chiêu thảo sứ giữ chức chánh soái. Trước ngày xuất quân, vua Tống đặc biệt tiếp Quỳ tại điện Diên Hòa. Quỳ xin đem theo tất cả bộ thuộc của mình gồm các võ tướng và quân sĩ ở châu Phu Diên (Thiểm Tây) là nơi Quỳ cầm quân.</p></blockquote><p></p>
[QUOTE="Bút Nghiên, post: 7659, member: 699"] Ngày 08 tháng 01 năm 1077, đại quân do Quách Quỳ chỉ huy vượt qua ải Nam Quan tiến vào vùng Lạng Sơn, định theo đường thiên lý xuống Thăng Long trên các đường tiến quân của địch, quân ta chặn đánh quyết liệt ở nhiều nơi, gây cho chúng một số khó khăn, thiệt hại. Ngày 18 tháng 01 năm 1077, các mũi tiến công của quân Tống đến bờ bắc sông Cầu. Đúng như dự kiến của Lý Thường Kiệt, đến đây bộ binh và kỵ binh địch bị chặn đứng đứng trước chướng ngại tự nhiên và chiến tuyến kiên cố của quân ta ở bờ nam Như Nguyệt. Đây chính là lúc và nơi quân thủy bộ của địch cần phối hợp với nhau, tổ chức vượt sông để tiến thẳng về Thăng Long như kế hoạch hành quân đã vạch ra. Nhưng thủy binh Tống đã bị đội binh thuyền ta, do Lý Kế Nguyên chỉ huy, chặn lại ở Vĩnh An. Chúng cố gắng đánh mở đường để theo sông Đông Kênh tiến vào cửa sông Bạch Đằng, nhưng 10 trận liền bị quân ta đánh bại, không sao nhích lên được một bước. Tiến không được, rút lui về nước sợ bị tội, thủy binh địch đành đóng ở cửa sông Đông Kênh để chờ đợi tin tức của cánh quân bộ. Cho đến lúc có lệnh triều đình gọi về, bọn này mới biết chiến tranh đã thất bại! Đó là một thắng lợi có ý nghĩa chiến lược của quân ta nằm trong toàn bộ kế hoạch kháng chiến của Lý Thường Kiệt. Chưa thấy thủy binh vào để hiệp đồng vượt sông, Quách Quỳ quyết định phải đóng quân lại ở bờ bắc sông Như Nguyệt trên một trận tuyến dài 60 dặm (khoảng hơn 30 ki-lô-mét). Với ý đồ chuẩn bị vượt sông, tiếp tục cuộc tiến công đánh chiếm kinh thành Thăng Long, hoàn thành cuộc chiến tranh xâm lược, quân địch không dàn đều lực lượng trên trận tuyến kéo dài đó, mà đóng thành từng khối ở những vị trí xung yếu và nhất là ở những bến đò, con đường thuận lợi tiến về Thăng Long. Một bộ phận quan trọng quân Tống do phó tướng Triệu Tiết chỉ huy, đóng ở bờ bắc bến Như Nguyệt, vùng thôn Mai Thượng, xã Mai Đình (huyện Hiệp Hòa, Bắc Giang) ngày nay. Đại bản doanh của chủ tướng Quách Quỳ đóng ở phía đông, cách khu vực đóng quân của Triệu Tiết 60 dặm (khoảng hơn 30 ki-lô-mét) (Lý Đào, Tục tư trị thông giám trường biên, sách đã dẫn). Hiện nay, tài liệu trong thư tịch và kết quả điều tra khảo sát điền dã chưa cho phép xác định địa điểm đóng quân này của địch. Nhưng căn cứ vào khoảng cách 60 dặm về phía đông so với sở chỉ huy của Triệu Tiết thì có thể phỏng đoán đại bản doanh của Quách Quỳ đặt ở khoảng đối diện với Thị Cầu (thị xã Bắc Ninh), thuộc huyện Việt Yên (Bắc Giang) ngày nay. Đây cũng là một vị trí trọng yếu ở gần bến đò Thị Cầu và nằm trên đường thiên lý đi Thăng Long. Như vậy, quân địch chia làm hai khối lớn do chánh tướng và phó tướng trực tiếp chỉ huy, đóng ở hai địa điểm cách nhau 60dặm ở bờ bắc sông Như Nguyệt. Hai địa điểm ấy đều ở trước hai bến đò quan trọng của sông Như Nguyệt (bến Như Nguyệt và bến Thị Cầu) và nằm trên hai trục vận động thuận lợi nhất tiến về Thăng Long (đường Như Nguyệt - Thăng Long và Thị Cầu - Thăng Long). Điều đó càng chứng tỏ quân địch vẫn giữ đội hình tiến công và tạm đóng quân lại để tìm cách vượt sông Cầu, chọc thủng phòng tuyến quân ta, mở đường tiến đánh Thăng Long. Khoảng giữa hai khối quân lớn ở hai phía đông, tây một bộ phận quân Tống còn chia nhau đóng giữ một số vị trí cần thiết để có thế liên hệ, tiếp ứng với nhau khi tổ chức vượt sông cũng như khi bất ngờ bị quân ta tiến công. Trong số các vị trí đó có địa điểm núi Tiên Lát ở thôn Hạ Lát, xã Tiên Sơn (huyện Việt Yên, Bắc Giang) ngày nay. Khu núi Tiên Lát gồm có núi Voi, núi Chúc, núi Lều, núi Hoàng... độ cao dưới 80 mét. Đứng trên núi Phượng Hoàng có thể quan sát một vùng rộng lớn ở bờ nam sông Như Nguyệt từ xã Dũng Liệt đến xã Hòa Long và cả vùng Thị Cầu, Đáp Cầu. Giữa các ngọn núi có một khu lòng chảo gọi là cánh đồng Nội rộng khoảng 20 mẫu Bắc bộ. Từ đồng Nội ra bờ sông có đường đi, dài gần 2 ki-lô-mét. Khu núi Tiên Lát cách doanh trại của Triệu Tiết ở phía tây khoảng 20 ki-lô-mét và cách đại bản doanh của Quách Quỳ ở phía đông khoảng 10 ki-lô-mét. Khúc sông Như Nguyệt qua vùng này lại hẹp và ở giữa có ghềnh đá Can Vang. Quân địch đóng ở Tiên Lát vừa chiếm cứ một vị trí trung gian giữa hai khối quân chính, vừa chiếm lĩnh một điểm cao có lợi để quan sát trận địa quân ta ở bờ nam (đối diện với Tiên Lát có trại quân Lý ở Phấn Động), vừa có thể khi cần thiết sẽ bắc cầu phao qua ghềnh đá Can Vang để vượt sông (Nhân dân thôn Hạ Lát cũng kể rằng: quân Tống đóng quân ở cánh đồngNội và núi Phượng Hoàng chống nhau với quân ta ở bờ nam thuộc xã Tam Đa (Yên Phong, Bắc Ninh). Truyền thuyết vùng Tam Đa cũng nói quân nhà Lý đóng ở Phấn Động đánh nhau với quân Tống ở bờ bắc.). Tiến xuống bờ bắc sông Như Nguyệt, quân Tống chỉ cách Thăng Long khoảng 20 ki-lô-mét (tính theo đường Như Nguyệt - Thăng Long). Từ biên giới đến đây chúng đã tiến quân không đến nỗi khó khăn lắm. Quân địch đang hung hăng muốn thừa thắng tiếp tục cuộc tiến công. Quách Quỳ cũng nóng lòng muốn chiếm Thăng Long để thực hiện kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh như vua Tống đã căn dặn. Chúng bất đắc dĩ phải tạm đóng quân lại ở bờ bắc sông Như Nguyệt là để chờ sự chi viện của thủy quân. Sau một thời gian không thấy thủy quân, Quách Quỳ và Triệu Tiết quyết định tự tổ chức vượt sông bằng lực lượng bộ binh và kỵ binh. Phía trước đại bản doanh của Quách Quỳ, bên kia sông Như Nguyệt có một trại quân của ta án ngữ và chếch về phía đông lại có lực lượng thủy binh mạnh của Hoằng Chân, Chiêu Văn đóng ở Vạn Xuân có thể cơ động ngược sông Như Nguyệt đánh phía trước hay ngược sông Hồng chẹn phía sau quân Tống. Cho rằng quân ta tập trung lực lượng ngăn chặn đại quân của Quách Quỳ tiến theo đường thiên lý nên chúng không dám vượt sông ở bến Thị Cầu. Trong lúc đó, tướng Miêu Lý ở Như Nguyệt lại "báo rằng giặc Man (chỉ quân ta -T.G.) đã trốn đi" (Lý Đào, Tục tư trị thông giám trường biên, dẫn theo Tống – Lý bang giao tập lục, sách đã dẫn) và xin "thừa hư" đem bộ binh vượt sông đột phá chiến tuyến quân ta ở mạn này đề mở đường cho đại quân tiến công. Quách Quỳ đã chấp nhận kế hoạch đó. Tướng Vương Tiến liền được lệnh bắc cầu phao qua bến Như Nguyệt để cho đội quân xung kích do Miêu Lý chỉ huy sang sông. Đội quân Miêu Lý gồm khoảng vài nghìn quân (Đại Việt sử ký toàn thư có đoạn chép: “Lý Thường Kiệt đem quân đón đánh, đến sông Như Nguyệt đánh địch. Quân Tống bị chết đến hơn 1.000 người." (bản dịch đã dẫn. tập I, trang 238). Đó là trận đánh đội quân Miêu Lý. Số quân địch bị chết hơn 1.000 thì có thể ước đoán đội quân Miêu Lý có khoảng trên 1.000 và dưới 2.000, vì phần lớn đội quân này bị tiêu diệt.). Chúng dùng cầu phao vượt sông và chọc thủng được phòng tuyến quân ta. Miêu Lý chủ quan, khinh địch. Hắn cho rằng “một trận đánh tan quân giặc”, nên không cần chờ đại quân qua sông mà tự mình đưa đội xung kích “tiến thẳng về phía Giao Châu (Thăng Long)” để “tiến vào phá nước chúng” (Lý Đào, Tục tư trị thông giám trường biên, dẫn theo Tống – Lý bang giao tập lục, sách đã dẫn). Quân địch theo đường Như Nguyệt - Thăng Long tiến về phía Thăng Long. Đội quân Miêu Lý vừa tiến đến vùng Yên Phụ, Thụy Lôi (Đông Anh, Hà Nội) cách Như Nguyệt khoảng 6 ki-lô-mét thì bị quân ta đổ ra đánh chặn quyết liệt. Yên Phụ, Thụy lôi nằm trên con đường từ Như Nguyệt về Thăng Long. Yên Phụ lại có núi Thất Diệu xưa kia cây cối rậm rạp, có cầu Gạo là chỗ lầy lội khó đi qua. Lý Thường Kiệt sử dụng một bộ phận quân chủ lực, lợi dụng địa hình, tổ chức phản kích vừa chặn đánh phía trước vừa chẹn đường rút lui phía sau. Quân ta được nhân dân hết lòng giúp đỡ, chiến đấu ngoan cường (Theo truyền thuyết của nhân dân xã Yên Phụ thì tên làng xưa kia là Yên Khang. Sau vì dân làng có công giúp nhà Lý đánh thắng quân Tống nên được đổi tên làng là YênPhụ. Hiện nay ở đình Yên Phụ còn có một đôi câu đối nhắc đến sự tích này: “Thoái lỗ trợ kỳ công, Lý tướng kinh hồi thu dạ mộng. Trừ yêu dưong chính khí, Diệu sơn toàn kiện tráng thời quang”). Quân địch bị đánh tan số sống sót cùng với Miêu Lý hốt hoảng chạy về Như Nguyệt. Nhưng đến nơi thì cầu phao đã bị cắt và quân ta đã chẹn đường về của chúng. Quân địch bị bao vây và bị tiến công dữ dội. Bên kia sông, quân địch cho bè sang cứu nhưng không có kết quả. Mô tả trận đánh này, một tác giả đời Tống viết: “Binh thế dứt đoạn, quân ít không địch nổi nhiều, bị giặc (chỉ quân ta - T.G.) ngăn trở, rơi xuống bờ sông” (Theo Tục tư trị thông giám trường biên thì Vương Tiến đã “vội vàng cắt cầu” vì sợ quân ta lợi dụng tràn sang bờ bắc. Nhưng theo truyền thuyết nhân dân vùng Mai Đình thì quân ta đã phá cầu để chẹn đường rút lui của Miêu Lý và ngăn cản quân Tống ở bờ bắc sang tiếp cứu). Hầu hết đội quân xung kích của Miêu Lý đều bị tiêu diệt. Chỉ có Miêu Lý và một số ít tàn quân liều chết mở đường chạy thoát về bờ bắc. Cuộc tiến công lần thứ nhất của quân địch đã bị đập tan. Trước thất bại thảm hại của đội quân xung kích, Quách Quỳ rất tức tối và đổ cơn giận dữ lên đầu Miêu Lý. Hắn coi Miêu Lý là một "tướng kiêu” và "định thi hành quân pháp” xử tử viên bại tướng này (Lý Đào, Tục tư trị thông giám trường biên). Chiến thắng Như Nguyệt lần thứ nhất xảy ra vào đầu mùa xuân năm 1077 là chiến thắng mở màn cho những cuộc giao tranh quyết liệt và những chiến công vang dội của quân dân ta trên chiến tuyến sông Như Nguyệt. Sau thất bại của Miêu Lý, Quách Quỳ thấy không phải “giặc Man đã trốn đi"và bờ nam “bỏ không” như những tin tức do thám trước đây hắn đã nhận được. Hắn không dám chủ quan và liều lĩnh vượt sông, mà đành phải chờ thủy binh. Nhưng hắn có biết đâu thủy binh Tống đã bị thủy binh ta chặn đứng và bẻ gãy ở ngoài bờ biển, không làm sao tiến được vào đất liền để chi viện cho bộ binh, kỵ binh vượt sông. Chờ mãi không thấy thủy binh, Quách Quỳ lại phải ra lệnh tổ chức cuộc tiến công lần thứ hai. Lần này, chúng huy động một lực lượng mạnh hơn và đóng bè lớn chở quân qua sông. Mỗi lần bè đưa được 500 quân. Hết lớp này đến lớp khác, quân địch đổ bộ sang bờ nam sông Như Nguyệt rồi xông lên phá bãi chướng ngại ven sông (Hiện nay, chưa có cứ liệu xác thực về địa điềm vả thời gian của cuộc tiến công thứ hai của quân Tống. Truyền thuyết dân gian vùng ven sông Như Nguyệt có nhắc đến một cuộc chiến đấu ác liệt của quân ta ở Phấn Động (Tam Đa, Yên Phong) chống lại quân Tống từ Tiên Lát (Tiên Sơn, Việt Yên) tiến công sang. Phải chăng đây là nơi quân địch vượt sông tiến công vào chiến tuyến quân ta lần thứ hai này?). Chúng chặt, đốt những hàng rào bằng tre. Nhưng giậu dày mấy tầng rất khó phá, lại bị quân ta từ trên chiến lũy đánh xuống dữ dội. Do khả năng chuyên chở của bè, mỗi lần quân địch chỉ đổ bộ được 500 quân, rồi phải đưa bè về bờ bắc để tiếp tục chở đợt sau. Trước chiến tuyến kiên cố và sức phản kích mãnh liệt của quân ta, quân địch đố bộ đợt nào bị tiêu diệt đợt đó. Lớp trước bị tiêu diệt, lớp sau sang cứu viện lại tiêu diệt nốt. Một người Tống đương thời đã mô tả trận đánh như sau: “Dùng bè chở 500 quân vượt sông, vừa chặt vừa đốt mấy lớp trại rào tre không được, đem bè không về để chở cứu binh nhưng lại bị giặc (chỉ quân ta) bắt giết. Thế là quân ta khôngđược cứu, kẻ trốn, kẻ chết, không thành công được" (Trình Di, Trình Hạo, Nhị Trình di thư¬, sách đã dẫn). Cuộc tiến công lần thứ hai của quân Tống lại bị đập tan. Lần này, quân địch không những không chọc thủng được chiến tuyến quân ta mà còn bị chặn đứng lại phía trước bãi chướng ngại ven sông và bị tiêu diệt hoàn toàn. Quân ta lại ghi thêm một chiến công mới trong cuộc chiến đấu dũng cảm và mưu trí bảo vệ chiến tuyến sông Như Nguyệt. Hai lần vượt sông tiến công, hai lần bị thất bại thảm hại. Trước dòng sông Như Nguyệt và chiến tuyến bờ nam của quân ta, Quách Quỳ cảm thấy bất lực, không có sự hiệp đồng của thủy binh thì bộ binh và kỵ binh Tống không thể vượt qua được. Viên chánh tướng thống lĩnh 10 vạn quân chiến đấu và 20 vạn phu phục dịch của triều Tống không dám nghĩ đến tiến công nữa. Quách Quỳ quyết định dứt khoát phải chờ thủy quân và buồn rầu ra lệnh “Ai bàn đánh sẽ chém!" (Tôn Thăng, Đàm Phố, dẫn theo Lý Thường Kiệt, sách đã dẫn, trang 289). Quân địch từ thế tiến công đã phải chuyển sang thế tạm thời cố thủ để chấn chỉnh lực lượng và đợi thủy quân. Ý đồ đánh nhanh thắng nhanh của địch đã bị phá sản. Đó làmột thất bại có ý nghĩa chiến lược rất nặng nề đối với quân Tống. Trong tình hình đối nội đối ngoại khó khăn của triều Tống lúc bấy giờ, thất bại đó càng trở nên nguy hại. Lực lượng quân địch chưa bị tổn thất nhiều lắm, nhưng thế của địch đã trở nên suy yếu, bị động. Sách Tục tư trị thông giám trường biên của Lý Đào chép: "Quân ta (chỉ quân Tống - T.G.) không sang sông được. Muốn đánh cũng không được” (Tống – Lý bang giao tập lục, sách đã dẫn, trang 170). Như thế là quân ta đã giành được những thắng lợi có ý nghĩa chiến lược quan trọng làm cơ sở tiến lên giành thắng lợi quyết định. Chủ lực của địch là bộ binh và kỵ binh đã bị tách rời khỏi thủy binh và bị chặn đứng lại trước chiến tuyến sông Như Nguyệt. Quân địch tuy có chiếm được khu vực đông - bắc và bắc ngạn sông Cầu, nhưng đã mất thế chủ động tiến công và bị giam hãm trong một địa bàn hết sức bất lợi. Trước mặt quân Tống, chiến tuyến của quân ta càng ngày càng trở nên vững vàng và bất khả xâm phạm. Hàng ngày, Lý Thường Kiệt cho quân sĩ khiêu khích, nhưng quân địch không dám liều lĩnh tiến công. Chúng chỉ dùng máy bắn đá từ bờ bắc bắn sang bờ nam. Sau lưng địch, quân dân ta lại luôn luôn mở những trận quấy rối, tiêu hao quân địch. Trong cuộc kháng chiến chống Tống, các dân tộc thiểu số ở vùng núi rừng phía bắc và đông - bắc giữ một vai trò quan trọng và có nhiều cống hiến xuất sắc.. Những đội quân vùng thượng du thực chất là lực lượng vũ trang của các dân tộc thiểu số do các tù trưởng của họ chỉ huy. Trong cuộc tập kích thành Ung Châu, có những tù trưởng đã huy động gần như toàn bộ nhândân trong vùng đi chiến đấu. Do đó, sử nhà Tống ghi: “Dân Man kéo hết cả nhà theo, chỉ để một vài người ốm yếu ở nhà” (Lý Đào, Tục tư trị thông giám trường biên, sách đã dẫn). Khi quân Tống ào ạt tràn sang xâm lược các đội quân vùng thượng du đã chiến đấu dũng cảm, làm chậm bước tiến của quân địch và tiêu hao một phần sinh lực địch, tiêu biểu nhất là cuộc chiến đấu của phò mã Thân Cảnh Phúc ở ải Quyết Lý và Giáp Khẩu. Thân Cảnh Phúc vốn là một tù trưởng có thế lực của dân tộc Tày ở động Giáp (nam Lạng Sơn, bắc Bắc Giang) đã ba đời lấy công chúa vua Lý, làm phò mã nhà Lý. Lợi dụng địa hình hiểm yếu Thân Cảnh Phúc và đội quân người Tày đã đánh cản địch có kết quả. Đạo quân chủ lực của Quách Quỳ không dám vượt qua ải Giáp Khẩu (Chi Lăng, Lạng Sơn). Quách Quỳ phải cho một bộ phận theo đ¬ờng núi phía tây đánh vòng vào sau lưng Giáp Khẩu để mở đường thiên lý cho đại quân tiến xuống. Nhưng sau khi quân địch đã tràn qua hoặc chiếm đóng, những đạo quân thượng du liền phân tán lực lượng, tận dụng địa hình núi rừng quen thuộc, chặn đánh những cuộc hành quân của địch, cản trở sự chuyên chở, tiếp tế lương thực. Đặc biệt ở vùng động Giáp, đạo quân của phò mã Thân Cảnh Phúc đã tiến hành lối đánh phân tán, đánh lẻ rất có hiệu quả. Sách Đại Việt sử ký dẫn một đoạn trong sách Quế Hải chí chép về hoạt động của người anh hùng dân tộc Tày này như sau: "Viên tri châu Quang Lang là phò mã, bị thua, bèn trốn vào trong bụi cỏ, thấy quân Tống đi lẻ loi thì ra giết chết hoặc bắt về… Người ta cho là một vị thiên thần”. Quân địch càng ngày càng bị tiêu hao, mệt mỏi vì những hoạt dộng du kích lợi hại đó. Quân Tống tạm thời chiếm được vùng núi rừng đông - bắc của nước ta. Đó là vùng thượng du và trung du, phần lớn là núi cao rừng rậm, cư dân thưa thớt mà quân địch không thể cướp bóc, vơ vét lương thực để đủ nuôi sống hàng chục vạn quân và phu. Việc tiếp tế lương thực cho 10 vạn quân chiến đấu hoàn toàn trông chờ vào sự vận chuyển bằng đường bộ của dân phu. Theo sự tính toán của viên chuyển vận sứ Lý Binh Nhất thì phải có 40 vạn phu chuyên chở mới đủ cung cấp lương ăn cho 10 vạn quân và 1 vạn ngựa trong một tháng. Nhưng nhà Tống chỉ điều động được 20 vạn phu. Ngay khi tiến quân vào nước ta, vấn đề quân lương đã là một khó khăn lớn của nhà Tống vì bao nhiêu căn cứ hậu cần xây dựng ở vùng biên giới đã bị cuộc tập kích của Lý Thường Kiệt phá sạch, mấy năm ấy nhiều nơi lại mất mùa và số phu không đủ vận chuyển. Vì thiếu phu vận lương mà một số vũ khí và tên sắt của quân lính đã phải bỏ lại. Càng đóng quân lâu ngày Ở vùng bắc sông Cầu, quân Tống càng bị lâm vào cảnh thiếu lương thực nghiêm trọng. Số phu vận chuyển đã thiếu lại phải chuyên chở từ hậu phương xa xôi sang, đường đi lại khó khăn hiểm trở và luôn luôn bị quân dân ta chặn đánh. Hai tháng trôi qua. Quân Tống càng ngày càng bị tiêu hao về số lượng, và đặc biệt nghiêm trọng là càng ngày càng bị mệt mỏi, hoang mang. Tin tức thủy quân, niềm hy vọng và chờ đợi của chúng vẫn mờ mịt. Lương thực thiếu thốn, ăn uống không đủ. Thời tiết lại bắt đầu chuyển từ xuân sang hè, không thích hợp với người phương bắc. Nhà Tống đã sai chọn một số bài thuốc chữa lam chướng chế thành tễ và phái một số lương y chuyên trị bệnh lam chướng đi theo quân viễn chinh. Nhưng khí hậu ẩm thấp và các thứ bệnh nhiệt đới vẫn hoành hành quân Tống, làm cho nhiều người ốm đau và một số chết. Vua Tống lo lắng sai lập đàn cầu cúng, nhưng làm sao ngăn nổi bệnh tật? Mệt mỏi và căng thẳng. Thế suy, lực giảm. Quân Tống bị dồn vào một tình thế khốn quẫn, tiến thoái đều khó. Tiến công thì từ hai tháng trước đây đã là cố gắng tuyệt vọng cua quân địch. Rút lui thì nhục nhã và mang tội với triều đình. Đóng quân lại chờ đợi thì thủy binh không thấy tăm hơi mà bộ binh và kỵ binh thì có nguy cơ mòn mỏi, tan rã. Chính vào lúc đó, vào khoảng cuối mùa xuân năm l077, Thái úy Lý Thường Kiệt đã kịp thời nắm lấy thời cơ, lãnh đạo quân dân ta chuyển sang phản công chiến lược đánh tan quân xâm lược. Quân địch tuy đã suy yếu và gặp nhiều khó khăn, nhưng số lượng vẫn đông. Chúng vẫn đóng quân trên một trận tuyến kéo dài khoảng 30 ki-lô-mét ở bờ bắc sông Như Nguyệt với hai khối quân chính đóng ở hai phía đông, tây, do chính Quách Quỳ và Triệu Tiết chỉ huy. Từ khi chuyển sang thế tạm thời cố thủ, chúng lo phòng thủ cẩn mật hơn để đề phòng những cuộc tiến công của quân ta. Chúng không dám tiến công dù bị quân ta khiêu khích, nhưng vẫn có âm mưu nhử quân ta lên bắc để tiêu diệt. Chúng đã từng bàn tính với nhau: “Nhử người tới đất mình lợi hơn mình tới đất người. Vậy nên giả cách không phòng bị, chúng nó (chỉ quân ta - T.G) ắt tới đánh" (Vương Xung, Đông Đô sử lược, bản chép tay). Tương quan lực lượng và tình hình bố phòng của địch không cho phép quân ta mở một cuộc tiến công bao vây tiêu diệt toàn bộ quân địch. Quách Quỳ đã chủ trương không tiến công nhưng cũng không rút lui, mà chỉ lo cố thủ, đóng quân chờ đợi. Do đó, quân ta cũng không thể nhử địch rời khỏi căn cứ để tiêu diệt theo lối đánh vận động sở trường của dân tộc. Trên cơ sở nghiên cứu thận trọng tình hình mọi mặt, nhất là lực lượng và sự bố phòng của địch, Lý Thường Kiệt đề ra một kế hoạch phản công rất mưu trí, táo bạo. ông chủ trương mở những cuộc tập kích lớn để tiêu diệt quân địch, nh¬ng phải làm sao chia sẻ, phân chúng ra mà tiêu diệt và tạo nên yếu tố hành động chiến lược có ý nghĩa quyết định. Ở bờ bắc sông Như Nguyệt, quân địch đóng thành hai khối lớn trên hai con đường tiến về Thăng Long, ở khoảng giữa có một số doanh trại để sẵn sàng liên hệ, tiếp ứng cho nhau. Khối quân của chánh tướng Quách Quỳ đóng ở phía đông, khoảng bờ bắc bến đò Thị Cầu trên đường thiên lý. Khối quân của phó tướng Triệu Tiết đóng ở phía tây khoảng bờ bắc bến đò Nh¬ư Nguyệt. Trước hết, Lý Thường Kiệt chọn khối quân của Quách Quỳ làm đối tượng tiến công. Quách Quỳ là một võ tướng cao cấp của nhà Tống, trước đã từng giúp Phạm Trọng Yêm giữ biên thùy phía bắc chống lại nước Hạ. Trong hàng ngũ tướng soái nhà Tống, Quách Quỳ được coi là người "lão luyện việc biên thùy", tính thận trọng. Vua Tống phong Quỳ làm An Nam đạo hành doanh đô tổng quản kinh lược chiêu thảo sứ giữ chức chánh soái. Trước ngày xuất quân, vua Tống đặc biệt tiếp Quỳ tại điện Diên Hòa. Quỳ xin đem theo tất cả bộ thuộc của mình gồm các võ tướng và quân sĩ ở châu Phu Diên (Thiểm Tây) là nơi Quỳ cầm quân. [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch sử Việt Nam
Việt Nam Cổ Đại (Nguyên Thủy - Đầu thế kỷ X)
Chiến thắng Như Nguyệt mùa xuân năm 1077
Top