Trong hoàn cảnh so sánh lực lượng chênh lệch giữa ta với địch và trước cuộc tiến công ào ạt của hàng chục vạn quân viễn chinh Tống, rõ ràng nếu ta đưa toàn bộ lực lượng ra quyết chiến với địch ngay từ đầu là hết sức bất lợi Vì vậy Lý Thường Kiệt không chủ trương chặn địch ở biên giới. Nhưng, Lý Thường Kiệt cũng không chủ trương tạm thời rút lui chiến lược để cho quân địch tiến quá sâu vào lãnh thổ của đất nước. Trên cơ sở cân nhắc, tính toán kỹ thế và lực của ta và địch, đồng thời phát huy thắng lợi vừa giành được của cuộc tiến công để tự vệ, ông đề ra một kế hoạch kháng chiến rất chủ động, tích cực nhằm hạn chế đến mức cao nhất sự tàn phá của quân xâm lược và giành thắng lợi oanh liệt cho dân tộc.
Nhà Tống phải lo đối phó nhiều mặt và luôn luôn phải duy trì lực lượng quân sự lớn ở biên thùy phía bắc và tây bắc để đề phòngnhững cuộc đột nhập của hai nước Liêu, Hạ. Tình hình quốc phòng đó không cho phép nhà Tống huy động nhiều lực lượng vào cuộc chiến tranh xâm lược nước ta và khi gặp khó khăn, ít có khả năng tăng viện. Nhà Tống hết sức giữ bí mật cuộc Nam chinh này và muốn đánh nhanh thăng nhanh vì không thể kham nôi cuộc hành binh lâu ngày trên đất nước ta. Vua Tống đã nói rõ những khó khăn và ý đồ chiến lược đó: "Tuy ở biên thùy phía bắc, Quách Quỳ đã phân phát kế hoạch đề phòng cho các tướng ở lại, nhưng người bắc thấy triều đình bận việc Nam chinh chắc muốn quấy. Vậy phải lo việc An Nam cho chóng xong" (Lý Đào, Tục tư trị thông giám trường biên, sách đã dẫn; xem Lý Thường Kiệt sách đã dẫn, tr. 243). Như thế là quân Tống tiến hành xâm lược trong thế bị động, lại ít khả năng tiếp viện và không thể kéo dài chiến tranh. Còn quân dân ta thì bước vào cuộc kháng chiến với tư thế chủ động, với quyết tâm bảo vệ nền độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia và chiến đấu ở ngay trên đất nước quê hương của mình.
Do những điều kiện khách quan, chủ quan như vậy, Lý Thường Kiệt chủ trương lập chiến tuyến ở nơi có lợi nhất để chặn đứng bước tiến của quân xâm lược bảo vệ an toàn kinh thành Thăng Long và địa bàn cơ bản của đất nước, rồi sau một thời gian đánh bại mọi cuộc tiến công của địch, giam hãm chúng vào tình trạng tiêu hao, mệt mỏi, cuối cùng, sẽ tiến lên phản công, thực hành quyết chiến chiến lược giành thắng lợi quyết định. Chủ trương chiến lược đó lại là một sáng tạo độc đáo nữa của Lý Thường Kiệt, nói lên tư tưởng tiến công chủ động, tích cực của ông.
Binh lực chủ yếu và tinh nhuệ của quân Tống vẫn là bộ binh và kỵ binh. Trong cuộc chiến tranh xâm lược nước ta, các đạo bộbinh trong đó có kỵ binh cũng giữ vai trò những mũi tiến công quyết định. Còn thủy binh chỉ là lực lượng phối hợp nhằm hiệp đồng với bộ binh, tổ chức vượt sông để tiến sâu vào nước ta. Nhà Tống đề ra nhiệm vụ của thủy binh là vượt biển tiến vào nước ta để ”ghé thuyền vào bờ bắc chờ đại quân qua sông, vì trên đường bộ tiến binh đến kinh thành giặc còn cách sông lớn, người Giao lại giỏi thuỷ chiến, sợ thuyền giặc giữ các chỗ hiểm, đại binh khó lòng qua được" (Lý Đào, Tục tư trị thông giám trường biên, sách đã dẫn). Lực lượng thúy binh này mới được tổ chức gồm những người dân chài ven biển Quảng Đông bị nhà Tống bắt vào lính. Họ chưa quen chiến trận, lại không có tinh thần chiến đấu.
Thủy binh địch tập trung ở cửa biển Khâm Châu rồi vượt biển vào nước ta. Theo sách Lĩnh ngoại đai đáp của Chu Khứ Phi (một tác giả đời Tống) thì từ Khâm Châu thuyền đi theo hướng tây - nam một ngày đến châu Vĩnh An (Móng Cái, Quảng Ninh) ở địa đầu nước ta. Từ Vinh An, thuyền theo sông Đông Kênh vào cứa sông Bạch Đằng lên Vạn Xuân rồi vào Thăng Long. Sông Đông Kênh là dải nước ven biển giữa đất liền và các hải đào vùng biền đông - bắc nước ta, từ Móng Cái đến cửa sông Bạch Đằng, mà lúc đó người ta coi như một con sông. Lý Thường Kiệt bố trí một lực lượng thủy binh đóng ở Đông Kênh do tướng Lý Kế Nguyên chỉ huy. Nhiệm vụ của đoàn chiến thuyền này là kiên quyết ngăn chặn không cho thủy binh địch tiến vào đất liền, làm thất bại hoàn toàn kế hoạch hiệp đồng quân thủy bộ của địch, gây những khó khăn lớn cho cuộc tiến quân của bộ binh địch.
Bộ binh nhà Tống định tập kết ở Ung Châu rồi theo nhiều đường qua vùng đông - bắc nước ta tiến vào Thăng Long. Kinh thànhThăng Long là mục tiêu tiến công chủ yếu của địch vì theo quan niệm chiến tranh chung lúc đó thì phải chiếm được kinh thành, bắt được vua, tiêu diệt được quân chủ lực cua đối phương mới giành được thắng lợi. Cũng theo Chu Khứ Phi, từ Ung Châu có ba đường tiến vào Thăng Long. Con đường chính tiện lợi hơn cả là qua Bằng Tường vào Lạng Sơn rồi theo lưu vực sông Thương và vượt sông Cầu vào Thăng Long.
Đó là con đường thiên lý, con đường sứ thần hai nước qua lại, gần trùng với đường xe lửa và quốc lộ 1A hiện nay. Đường này đi bộ mất 4 ngày đến Thăng Long. Phía tây con đường chính có một đường phụ từ trại Thái Bình (thuộc Ung Châu) vào Lạng Châu (Lạng Sơn, Bắc Giang) rồi cũng phải qua sông Cầu vào Thăng Long. Đường này đi mất 6 ngày. Một con đường phụ nữa cũng ở phía tây đường chính, từ trại Ôn Nhuận thuộc đạo Hữu Giang vào vùng Cao Bằng, Bắc Cạn, Thái Nguyên. Đường này quanh co, đi mất 12 ngày và cũng phải qua sông Cầu vào Thăng Long. Lý Thường Kiệt đã nghiên cứu kỹ địa hình và các đường giao thông vùng đông - bắc để bày một thế trận lợi hại nhằm đánh kiềm chế, tiêu hao rồi chặn đứng các mũi tiến công của bộ binh địch. Các đường tiến quân của địch đều phải đi qua vùng núi rừng đông - bắc có địa thế hiểm trở và là khu vực cư trú của các dân tộc thiểu số, chủ yếu là dân tộc Tày - Nùng. Lý Thường Kiệt giao cho những đội quân của các dân tộc thiểu số - lúc đó gọi là quân thượng du - do các tù trưởng của họ chỉ huy, lợi dụng địa hình đón đánh các mũi tiến công của địch. Sát biên giới phía bắc, Lưu Kỷ cùng 5.000 quân người thiểu số đóng ở Quảng Nguyên đón đánh đạo quân địch từ Ôn Châu tiến vào Cao Bằng. Dưới Quảng Nguyên, trên đường Cao Bằng, Thái Nguyên, một vạn quân đóng ở hai động CổLộng, Hạ Liên (vùng Ngân Sơn, Bắc Cạn) làm nhiệm vụ ngăn chặn đường tiếp tế uy hiếp vùng sau lưng địch. Phò mã Thân Cảnh Phúc, đóng quân ở động Giáp (vùng Kép, Bắc Giang) trên con đường chính qua Lạng Sơn vào Thăng Long. Con đường này tuy gần nhưng qua nhiều chỗ hiểm yếu, nhất là đèo Quyết Lý (khoảng làng Nhân Lý, phía bắc Ôn Châu) và ải Giáp Khẩu (tức ải Chi Lăng, Lạng Sơn). Đạo quân của Thân Cảnh Phúc lợi dụng các vị trí hiểm yếu đó để chặn đánh mũi tiến công chủ yếu của địch theo con đường chính. Phía tây Thân Cảnh Phúc, các tù trưởng Sầm Khánh Tân, Nùng Thuận Linh, Hoàng Kim Mãn trấn giữ vùng Môn Châu (Đông Khê) và ngăn chặn con đường từ Bình Gia đến Thái Nguyên. Phía đông, Vi Thu An trấn giữ châu Tô Mậu và ngăn chặn con đường từ Tư Lăng đến Lạng Châu. Đồng thời, ông còn có nhiệm vụ chỉ huy một đạo quân chặn thủy quân của địch từ Quảng Đông tiến xuống.
Vi Thủ An là vị tướng có nhiệm vụ trấn giữ miền đất nước từ trước. Trong cuộc tiến công để tự vệ vào năm 1075, ông chỉ huy một đạo quân thủy theo Lý Thường Kiệt đánh sang Khâm Châu. Tại đình làng Cựu Điện (Vĩnh Bảo, Hải Phòng), nơi thờ ông, có đôi câu đối ghi lại sự tích đánh Tống của ông:
“Nhất sóc định giang san, Tống binh lạc phủ
Bách niên quang tự điển, Cựu Điện lưu hương"
(Một giáo định non sông, Tống binh rơi mật Trăm năm ngời lễ lớn, Cựu Điện hương thơm).
(Theo Thần tích thành hoàng làng Cựu Điện (chữ Hán)).
Những đạo quân miền núi trên đây khá mạnh và đặc biệt rất am hiểu địa hình, thông thạo đường đi lối lại, chiến đấu ngay trên quê hương của mình. Phó tướng quân Tống là Triệu Tiết phải công nhận: “Lưu Kỷ ở Quảng Nguyên, Thân Cảnh Phúc ở động Giáp đều cầm cường binh” (Lý Đào, Tục tư trị thông giám trường biên, sách đã dẫn; xem Lý Thường Kiệt, sách đã dẫn, tr.268). Nhiệm vụ của các đạo quân thượng du là đánh kiềm chế tiêu hao các đạo quân địch khi chúng tiến sang và sau đó đẩy mạnh hoạt động vùng sau lưng địch nhằm quấy rối và nhất là ngăn chặn đường vận chuyển, tiếp tế của địch, đồng thời sẵn sàng phối hợp với quân chủ lực khi chuyến sang phản công.
Trong cuộc kháng chiến chống Tống thế kỷ XI, vùng đông - bắc là một địa bàn chiến lược trọng yếu và các dân tộc thiểu số ở vùng đó đã có những đóng góp rất to lớn. Đó cũng là một thành công lớn của Lý Thường Kiệt và triều Lý trong việc củng cố quốc gia thống nhất, thắt chặt quan hệ đoàn kết với các dân tộc miền núi. Nhưng các lực lượng vũ trang của các dân tộc miền núi rõ ràng không thể chặn đứng được bước tiến của các đạo quân Tống.
Các mũi tiến công của địch với thế mạnh ban đầu có thể vượt qua sức chống cự đó, nhưng muốn tiến về Thăng Long đều nhất thiết phải qua dòng sông Cầu. Sông Cầu bắt nguồn từ Cao Bằng đổ ra sông Lục Đầu ở Phả Lại. Dòng sông chặn ngang tất cả con đường bộ từ Quảng Tây vào Thăng Long. Thượng lưu sông Cầu rất hiểm trò. Khúc sông từ Thái Nguyên đến Đa Phúc có thể qua lại được, nhưng phía sau lại có dãy núi Tam Đảo án ngữ khó vượt qua. Chỉ có khúc sông từ Đa Phúc đến Phả Lại dài khoảng gần 100 ki-lô-mét, nhất là từ ngã ba sông Cà Lồ và sông Cầu trở về xuôi, tức sông Như Nguyệt, là qua lại dễ dàng, có bến đò và đường bộ về Thăng Long. Theo Đại Nam nhất thống chí thì trên sông Như Nguyệt, thế kỷ XIX, có 11 bến đò ngang: Như Nguyệt, Tiểu Lâm, Dũng Liệt, Phù Yên, Đẩu Hàn, Phù Cầm, Lượng Sài, Đáp Cầu, Yên Ngô, Bằng Lâm, Phả Lại (Sử quán triều Nguyễn, Đại Nam nhất thống chí, bản dịch, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1971, tập IV, tr.94.
Hiện nay trên sông Như Nguyệt từ Như Nguyệt đến Phả Lại có 11 bến đò ngang: Như Nguyệt, Đông Xuyên, Phù Cầm, Đại Lâm, Vạn An, Đáp Cầu, Quang Biểu, Trúc Tây, Cung Kiệm, Đông Viên Hạ, Phả Lại). Xưa kia, số bến có lẽ ít hơn, nhưng có hai bến quan trọng nhất đã có từ lâu đời là bến đò Như Nguyệt và Thị Cầu (tức Đáp Cầu sau này) nằm trên những con đường giao thông về Thăng Long. Con đường chính - đường thiên lý - qua bến Thị Cầu về Thăng Long theo đường Bắc Ninh - Hà Nội ngày nay.
Qua bến Như Nguyệt có hai đường bộ về Thăng Long. Một đường qua thôn Đông (tức Phương La Đống, xã Tam Giang, huyện Yên Phong) và các làng Yên Vĩ, Yên Phụ (thuộc Yên Phong, Bắc Ninh); Thuỷ Lôi, Vân Điềm (Vân Hà, Đông Anh); Hà Vĩ (Liên Hà, Đông Anh), Dục Tú (Đông Anh, Hà Nội) về Thăng Long. Đây là con đường giao thông cổ dài khoảng hơn 20 ki-lô-mét. Nhân dân vùng này có câu ca dao:
Thứ nhất là cứa đền Xà (thôn Đông, Tam Giang)
Thứ nhì cầu Gạo (Yên Phụ)
Thứ ba Vân Điềm (Vân Hà)
Đó là ba chỗ lầy lội trên con đường này. Con đường thứ hai từ Như Nguyệt qua Nguyệt Cầu, Trác Bút, Hàm Sơn (Yên Phong, Bắc Ninh) rồi ra con đường chính về Thăng Long (tức đường Từ Sơn - HàNội ngày nay). Con đường này dài chừng 30 ki-lô-mét và đã có ít nhất từ cuối thế kỷ XVIII (Đình làng Như Nguyệt còn giữ được mấy bản giao ước giữa Như Nguyệt và Nguyệt Cầu về việc Nguyệt Cầu để cho dân Như Nguyệt đi qua làng. Bản giao ước xưa nhất có niên hiệu Cảnh Thịnh thứ 6 (năm 1798). Như vậy con đường này phải có trước năm 1798, nhưng có lẽ mới mở trước đó ít lâu nên mới có sự tranh chấp và có giao ước giữa hai làng). Đó là những bến đò và con đường thuận lợi nhất để quân Tống vượt qua sông Như Nguyệt tiến về Thăng Long.
Do vị trí và địa thế lợi hại của nó, Lý Thường Kiệt quyết định lập chiến tuyến chủ yếu ở bờ nam sông Như Nguyệt nhằm chặn đứng các đạo quân Tống xâm lược, kìm giữ chúng ở vùng bắc sông Cầu.
Các tài liệu lịch sử của ta và của nhà Tống ghi chép rất sơ sài về cấu trúc của chiến tuyến sông Như Nguyệt. Đại Việt sử ký toàn thư chỉ chép: Lý Thường Kiệt “đắp lũy làm rào ở dọc sông (Như Nguyệt) để cố giữ". Việt điện u linh tập cũng nói vắn tắt: Lý Thường Kiệt "dựng rào ở ven sông để chống giữ". Các tác giả đương thời của nhà Tống cũng xác nhận khi quân Tống qua sông phải "vừa chặt vừa đốt phá mấy lớp trại rào bằng tre” (Trình Di, Trình Hạo, Nhị trình di thư, sao lại trong Tống – Lý bang giao tập lục, sách chép tay, do Hoàng Xuân Hãn trích lục). Những tài liệu thư tịch đó kết hợp với kết quả khảo sát thực địa cho phép hình dung chiến tuyến chủ yếu của Lý Thường Kiệt được xây dựng như sau:
Bản thân dòng sông Như Nguyệt được lợi dụng như một chướng ngại thiên nhiên ngăn cản bước tiến của bộ binh và kỵ binh địch. Chướng ngại thiên nhiên đó càng trở nên khó khăn đối với quân địch khi kếhoạch hiệp đồng với thủy binh để vượt sông bị quân ta làm thất bại từ đầu. Sông Như Nguyệt hiện nay hẹp và nông. Vào mùa cạn, nhiều đoạn sông bình thường chỉ rộng khoảng 100 mét. Nhưng xưa kia, chắc chắn dòng sông Như Nguyệt rộng hơn nhiều vì phía trên còn nhận nước sông Cà Lồ ở ngã ba Xà, phía dưới nhận nước của sông Hoàng Giang (hay sông Thiếp) ở Quả Cảm. Hai sông Cà Lồ và Hoàng Giang ngày nay cũng đang bị bồi lấp và cạn dần, nhưng trước đây là những dòng sông lớn nối liền hệ thống sông Hồng với sông Thái Bình qua sông Cầu.
Phía nam sông Như Nguyệt, Lý Thường Kiệt cho đắp chiến lũy bằng đất dọc bờ sông. Phía ngoài lũy, mặt giáp sông, ông sai đóng cọc tre làm giậu chày mấy tầng. Dưới bãi sông còn có những hố chông ngầm. Sông rộng, lũy cao và ở giữa là bãi chướng ngại gồm hố chông, giậu tre dày, tất cả những kiến trúc tự nhiên và nhân tạo đó được tổ chức lại, kết hợp chặt chẽ với nhau, tạo thành một chiến tuyến kiên cố.
Nói chung, chiến tuyến sông Như Nguyệt chạy dài từ chân núi Tam Đảo (khoảng Đa Phúc) chủ yếu là từ ngã ba Cà Lồ - sông Cầu đến Vạn Xuân (Phả Lại). Nhưng trên đoạn sông này cũng có nhiều chỗ địa thế hiểm trở. Đó là những chỗ núi ăn sát bờ sông như núi Nham Biền hoặc rừng cây um tùm qua lại rất khó khăn (Núi Nham Biền chiếm một phần huyện Việt Yên và phần lớn huyện Yên Dũng (Bắc Ninh), có chỗ chạy sát bờ sông Cầu. Đó là những nơi hiểm trở, dân cư thưa thớt. Hai bên sông Như Nguyệt trước đáy có nhiều rừng cây, nhất là bờ bắc. Tại nhiều thôn ở bờ nam như: Đại Lâm, Lương Cầm, Phù Cầm ngày nay nhân dân vẫn đào được cây gỗ to còn nguyên hình, đã bắt đầu hóa than. Đó là dấu tích của rừng cây xưa kia. Bờ bắc trước đây hầu hết là rừng rậm, bãi hoang, dân rất thưa thớt cho đến đời Nguyễn, nhân dân bờ nam vẫn sang khai phá bờ bắc, hoặc sáng đi tối về, hoặc lập thành những xóm làng mới ở bờ bắc. Thôn Vọng Giang hay Vọng Con (xã Mai Đình, huyện Hiệp Hòa) là do những người thôn Vọng Nguyệt hay Vọng Cả (huyện Yên Phong) lập nên. Làng Yên Minh (xã Hòa Bình, Hiệp Hòa) cũng do dân xã Phù Yên (Yên Phong) lập nên. Bến đò Phù Cầm (xã Dũng Liệt, Yên Phong) gọi là bến Gầm, theo truyền thuyết dân gian là vì bờ bắc rất hoang vắng, có nhiều hổ nên người đi đường rất sợ, đến đó phải gào thật to để đò chóng sang (đò đỗ ở bờ nam). Các làng ở bến đò Gầm cũng gọi là làng Gầm: Gầm Thượng là Phù Cầm, Gầm Hạ là Lương Cầm.).
Ở những chỗ đó quân ta không cần thiết phải đắp lũy, lập bãi chướng ngại, mà có thê tận dụng địa hình để bảo vệ chiến tuyến và ngăn chặn quân địch vượt sông. Như vậy chiến lũy và bãi chướng ngại có lẽ không phải kéo suốt bờ nam sông Như Nguyệt mà tập trung Ở những bến đò, đường giao thông, những nơi quân địch có khả năng vượt sông, quan trọng nhất là đoạn Như Nguyệt, Thị Cầu, Vạn Xuân (Nhân dân nhiều xã ven sông thuộc huyện Yên Phong nói rằng: tục truyền xưa kia sông Cầu chưa có đê, sau khi Lý Thường Kiệt đắp lũy chống quân Tống, nhân dân mới theo đó đắp thảnh đê. Điều này phù hợp với tài liệu Đại Việt sử lược chép rằng "Năm Anh Vũ Chiến Thắng thứ hai (1071), tháng 9 đắp đê ở sông Như Nguyệt, dài 67.360 bộ". Như vậy trước cuộc kháng chiến chống Tống, sông Cầu chưa có đê nên Lý Thường Kiệt không thể lợi dụng để làm chiến lũy mà phải tổ chức quân dân khẩn trương đắp lũy ở những nơi cần thiết. Di tích của chiến lũy hiện nay chưa phát hiện được. Có thể những đoạn chiến luỹ đó về sau được nối liền và đắp thêm thành đêở bờ nam sông Cầu. Một số nơi, ngoài đê, có những gờ đất cao như: dải đất hình con rắn ở ven làng Phương La Đông, dải đất con rồng ven làng Vọng Nguyệt (theo cách nói của nhân dân). Nhưng đó có phải là di tích chiến luỹ đời Lý không thì cũng chưa xác minh được. Vấn đề cấu trúc, phạm vi, độ cao, dấu vết của chiến lũy sông Như Nguyệt còn phải tiếp tục nghiên cứu thêm.)
Quân chủ lực do Lý Thường Kiệt trực tiếp chỉ huy, bảo vệ chiến tuyến sông Như Nguyệt. Lý Thường Kiệt không dàn mỏng lực lượng trên chiến tuyến kéo dài đó mà bố trí binh lực có trọng điểm vừa kiểm soát bảo vệ được toàn bộ trận địa, vừa dễ dàng cơ động để có thể nhanh chóng tập trung quân đánh bại những mũi đột phá của địch hay tổ chức phản công khi thời cơ đã đến.
Trên chiến tuyến, một bộ phận bộ binh đóng thành từng trại quân ở những vị trí xung yếu mà quân địch có thể vượt sông tiến công nhằm chọc thủng chiến tuyến của ta. Trong số các trại quân đó có ba trại quan trọng bố trí ở Như Nguyệt, Thị Cầu, Phấn Động. Hai trại quân Như Nguyệt, Thị Cầu khống chế hai bến đò ngang và con đường tiến về Thăng Long. Vùng Phấn Động (xã Tam Đa, Yên Phong) ngược lên phía bấc đến Thọ Đức và xuôi xuống phía nam đến Đại Lâm (đều thuộc xã Tam Đa, Yên Phong) xưa kia là cánh rừng rậm, không có bến đò ngang, nhưng ở đây lòng sông hẹp, giữa sông lại có ghềnh đá Can Vang (khoảng ngang thôn Thọ Đức), quân địch có thể bắc cầu vượt sông. Trại quân Phấn Động có nhiệm vụ bảo vệ đoạn phòng tuyến này, đề phòng quân địch lợi dụng địa hình có lợi để tổ chức vượt sông (Nhân dân xã Tam Đa còn ghi nhớ truyền thuyết liên quan đến trại quân Phấn Động. Đội quân nhà Lý đóng ở đây có nhiều kỵ binh, cứt ngựa chất thành đống. Vì vậy, người ta gọi nơi đó là thôn cứt ngựa, dịch sangHán-Việt là thôn Phẩn Động, rồi sau đọc chệch đi là thôn Phấn Động). Ở mỗi trại quân, ngoài bộ binh có thể có một số thủy binh phối hợp. Thuyền chiến của ta đậu ở ven sông, bên bờ Nam. Nhưng đại bộ phận thủy binh đóng tập trung ở Vạn Xuân về phía cực đông của chiến tuyến.
Vạn Xuân là một vị trí chiến lược trọng yếu ở vào đầu mối của tất cả các đường thủy vùng đông - bắc. Từ Vạn Xuân, thủy binh của ta có thể ngược dòng Lục Nam, sông Thương, sông Cầu tiến sâu vào địa bàn vùng đông - bắc, có thể xuôi sông Bạch Đằng, sông Thái Bình ra biển, có thể theo sông Đuống về Thăng Long. Lực lượng thủy binh đóng ở Vạn Xuân do hai hoàng tử Hoằng Chân và Chiêu Văn chỉ huy, có đến trên 400 thuyền chiến và hơn hai vạn quân (Trong cuộc phản công sau này, có lần Hoằng Vân và Chiêu Văn đã dùng 400 chiến thuyền chở vài vạn quân đổ bộ lên bờ bắc, đánh vào doanh trại quân Tống. Như vậy, số thuyền chiến phải có trên 400 chiếc và số quân phải có trên hai vạn). Nhiệm vụ của đoàn binh thuyền này là sẵn sàng cơ động tiếp ứng cho mọi mặt trận khi cần thiết và đặc biệt quan trọng là phối hợp với chủ lực bộ binh bảo vệ chiến tuyến sông Như Nguyệt và tổ chức phản công, thực hành những trận quyết chiến.
Đại bộ phận bộ binh do Lý Thường Kiệt trực tiếp chỉ huy, đóng tập trung ở phủ Thiên Đức, phía sau chiến tuyến. Địa điểm đóng quân là một vị trí cơ động có thể khống chế mọi ngả đường tiến về Thăng Long và kịp thời chi viện cho các hướng trên chiến tuyến mỗi khi bị tiến công. Nhiệm vụ của đại quân là sẵn sàng sứ dụng binh lực tập trung tổ chức phản kích đánh bại mọi mũi tiến công của địch và giữ vai trò lực lượng chủ yếu trong cuộc phản công chiến lược sau này.
Theo truyền thuyết dân gian một số vùng thì đại bản doanh của Lý Thường Kiệt đóng ở xã Yên Phụ. Xã này nằm trên con đường từ bến đò Như Nguyệt về Thăng Long, cách Như Nguyệt khoảng 6 ki-lô-mét, không cách xa những con đường bộ khác về Thăng Long, lại có núi Thất Diệu gồm bảy ngọn núi thấp nổi lên giữa cánh đồng bằng phẳng. Vị trí và địa hình đó có thể thích hợp với nơi đóng đại bản doanh của Lý Thường Kiệt.
Toàn bộ lực lượng chủ lực bố trí ở chiến tuyến sông Như Nguyệt, kể cả quân bộ và quân thủy, có thể lên đến khoảng 6 vạn quân. (Hiện nay chưa tìm thấy một tài liệu nào ghi chép số quân của Lý Thường Kiệt đóng ở chiến tuyến này. Riêng đạo quân thủy của Hoằng Chân, Chiêu Văn phải có ít nhất là hơn 2 vạn quân. Số quân bộ đóng thành trại quân trên chiến tuyến và đóng tập trung phía sau chiến tuyến tất nhiên phải nhiều hơn số quân thủy ở Vạn Xuân, có thể gấp đôi. Căn cứ vào sự bố trí binh lực của Lý Thường Kiệt và số quân địch đóng ở bờ bắc có 10 vạn quân chiến đấu, tạm ước đoán số quân ta là khoảng 6 vạn.).
Chiến tuyến sông Như Nguyệt là một công trình quân sự lớn của quân dân ta thế kỷ XI. Giá trị cũng như tính kiên cố, vững chắc của chiến tuyến được tạo nên bởi sự kết hợp tài tình giữa địa hình tự nhiên lợi hại với những chiến lũy bãi chướng ngại do bàn tay con người xây dựng và lực lượng quân đội được sử dụng, bố trí một cách hợp lý, khoa học. Chiến tuyến đó thể hiện rõ ý định của Lý Thường Kiệt kiên quyết chặn đứng các mũi tiến công của quân Tống, bịt kín các ngả đường tiến về Thăng Long. Như vậy quân địch sẽ bị kìm giữ ở phía bắc sông Cầu trên một địa bàn núi rừng, dân thưa thớt, lại xa hậu phương của chúng hàng trăm ki-lô-mét. Bằng chiếntuyến sông Như Nguyệt, quân dân ta sẽ bảo vệ được kinh thành Thăng Long khỏi rơi vào tay giặc; bảo vệ được vùng đồng bằng phì nhiêu đông dân, nhiều của, địa bàn trung tâm của đất nước, tránh khỏi sự tàn phá của bọn xâm lược và trong quan niệm của triều đình lúc đó còn nhằm bảo vệ khu quê hương, lăng mộ tổ tiên của vua nhà Lý ở Thiên Đức.
Như vậy, sau khi chủ động tiến công trước, giáng cho kẻ thù đang chuẩn bị xâm lược một đòn phủ đầu choáng váng hết sức bất ngờ, Lý Thường Kiệt đã kịp thời rút quân về nước, bày sẵn một thế trận để chủ động đánh tan các đạo quân xâm lược Tống. Đặc điểm nối bật của thế trận này là bố trí trên diện rộng, có chiều sâu, có trọng điểm,phối hợp chặt chẽ giữa quân đội chủ lực của triều đình với lực lượng vũ trang của nhân dân địa phương nhằm đánh địch cả trước mặt và sau lưng. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử, ta lập chiến tuyến để đánh giặc, Lý Thường Kiệt không chủ trương phòng ngự đơn thuần, bị động. Sau một thời gian phòng ngự làm thất bại chiến lược đánh nhanh thắng nhanh và khoét sâu những khó khăn, nhược điểm của địch, quân ta sẽ chủ động tạo ra thời cơ để phản công quét sạch quân giặc ra khỏi đất nước. Ý định phản công đó được chuẩn bị từ đầu và thể hiện rõ ở thế trận cùng với sự bố trí lực lượng của Lý Thường Kiệt. Những đội quân vùng thượng du sau khi đón đánh quân địch tiến công vẫn ở lại tích cực hoạt động trong vùng địch chiếm đóng, làm cho quân địch càng ngày càng bị tiêu hao, mệt mỏi. Trong lúc đó, quân chủ lực, quân bộ và quân thủy vẫn tập trung ở những vị trí cơ động để có thể nhanh chóng chuyển sang tiến công giáng cho kẻ thù những đòn quyết định.
Chiến tuyến sông Như Nguyệt vừa là tuyến phòng ngự buổi đầu vừa là bàn đạp xuấtphát của cuộc phản công chiến lược sau này. Tư tưởng chủ đạo của Lý Thường Kiệt quán triệt từ đầu chí cuối cuộc chiến tranh là tư tưởng tiến công hết sức chủ động. Chính vì vậy chiến tuyến sông Như Nguyệt là nơi sẽ diễn ra những trận chiến đấu ác liệt làm thất bại mọi cố gắng tiến công của quân địch và cũng là nơi sẽ diễn ra trận quyết chiến chiến lược quyết định thắng lợi của dân tộc ta và thất bại thảm hại của quân Tống xâm lược.
Cuối năm 1076, quân Tống bắt đầu cuộc viễn chinh xâm lược nước ta. Thủy quân địch từ Khâm Châu tiến trước về phía Vĩnh An (Móng Cái, Quảng Ninh). Bộ binh địch tập trung ở Ung Châu theo nhiều ngả vượt biên giới tiến vào nước ta.