Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch sử Việt Nam
Việt Nam Hiện Đại (1946 - 1975)
Chiến thắng Điện Biên Phủ lịch sử
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="Tẩy" data-source="post: 32547" data-attributes="member: 1946"><p><strong>Ý nghĩa của chiến thắng Điện Biên Phủ</strong></p><p></p><p><strong>Ý nghĩa của chiến thắng Điện Biên Phủ</strong></p><p></p><p>Cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-1954 là cuộc tiến công lớn nhất của ta trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Dựa vào thế chiến tranh nhân dân phát triển rộng khắp, bộ đội ta đã mở những chiến dịch, những đợt hoạt động đánh địch ở khắp các địa bàn chiến lược trên toàn chiến trường Đông Dương. Những hoạt động tác chiến của ta, đặc biệt là trên năm hướng chiến lược buộc Na-va phải phân tán khối lực lượng cơ động chiến lược, chiến thuật, tạo thời cơ cho ta tập trung sức mạnh của cả dân tộc thực hiện trận quyết chiến lịch sử Điện Biên Phủ toàn thắng. Chiến thắng Đông Xuân 1953- 1954, với đỉnh cao chiến dịch Điện Biên Phủ tiêu diệt phần lớn lực lượng tinh nhuệ của đội quân viễn chinh Pháp thể hiện sức mạnh to lớn của dân tộc và sự trưởng thành vượt bậc của lực lượng vũ trang ta trong cuộc chiến đấu chống ngoại xâm.</p><p> </p><p>Cùng với sự phát triển vượt bậc của lực lượng vũ trang, chiến thuật của quân đội ta trong Đông Xuân 1953-1954 vừa có bước phát triển toàn diện vừa có bước phát triển nhảy vọt, trở thành đỉnh cao trong lịch sử phát triển chiến thuật của quân đội ta kể từ sau ngày thành lập đến kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1944-1954).</p><p> </p><p>Sự phát triển toàn diện trước hết thể hiện ở sự phát triển đồng đều trên tất cả các chiến trường. Từ chiến trường gần sự chỉ đạo của Trung ương như chiến trường chính Bắc Bộ đến các chiến trường xa-mà ở đó sự chỉ đạo cũng như tiếp tế rất khó khăn, như các chiến trường Nam Bộ, Trung Bộ, Tây Nguyên... trình độ tổ chức chỉ huy của cán bộ, khả năng thực hành chiến đấu của bộ đội đều được nâng lên rõ rệt. Chiến trường Tây Nguyên có trận công kiên Măng Đen quy mô trung đoàn diệt một cụm cứ điểm kiên cố, trận phục kích Đắc Pơ diệt cả binh đoàn cơ động, trận tập kích Plây Cu, kết hợp cả bộ binh và đặc công đánh vào nơi tập trung đầu mơl chỉ huy nằm sâu trong hậu phương... Chiến trường Trung-Hạ Lào có các trận tập kích Khăm He, Kha Ma quy mô trung đoàn, tiến hành trong điều kiện thời gian chuẩn bị gấp diệt hàng tiểu đoàn địch. Chiến trường Thượng Lào có nhiều trận truy kích đạt hiệu quả cao của đại đoàn 308. Chiến trường Nam Bộ có trận Tầm Vu (2-1954), phục kích táo bạo ở vùng đồng bằng loại khỏi vòng chiến đấu một tiểu đoàn nguỵ và một đại đội quân Pháp. Nam Bộ còn phát huy cánh đánh đặc công nhiều sáng tạo và hiệu quả, gây cho địch những tổn thất to lớn. Chiến trường miền Trung có trận tập kích Phò Trạch (Quảng Trị) diệt 200 địch, trận tiến công địch ở An Hoà (Thừa Thiên), tiến công cứ điểm đèo Thượng An, phục kích địch ở chân đèo Măng Giang đạt hiệu quả rất cao... Có thể nói các chiến trường xa, chiến trường nào cũng có những trận đánh hay, những trận quy mô lớn thể hiện sự phát triển của chiến thuật.</p><p> </p><p>Sự phát triển toàn diện còn thể hiện ở chỗ các hình thức chiến thuật đều có bước phát triển hoàn thiện hơn. Phục kích, tập kích, công kiên, vận động tiến công, truy kích, tao ngộ chiến... đều được sử dụng đến quy mô tiểu đoàn, trung đoàn, đạt hiệu quả cao và có nhiều tiến bộ so với giai đoạn trước.</p><p> </p><p>Phục kích, một trong những chiến thuật cơ bản vẫn được sử dụng một cách rộng rãi và nhiều trận đã đi tới sự phát triển cao nhất của phục kích trong kháng chiến chống Pháp như các trận Vọng Doanh - Giáp Giá, Bần - Như Quỳnh, Tầm Vu, sông Đào, Đắc Pơ.... Những trận phục kích đỉnh cao trong giai đoạn này là các trận quy mô trung đoàn, tiểu đoàn tác chiến "tập trung chính quy", nằm trong ý đồ chung của chiến dịch, đợt hoạt động, được thực hiện không chỉ ở vùng rừng núi hiểm trở dễ giấu quân mà ngay cả ở vùng đồng bằng nằm sâu trong hậu phương địch. Đối tượng tiêu diệt của các trận phục kích trong giai đoạn này không chỉ còn là các trung đội, đại đội, các đoàn xe vận chuyển mà đã là các tiểu đoàn thiện chiến thuộc các binh đoàn cơ động của quân Pháp.</p><p> </p><p>Tổ chức đội hình các trận phục kích đã đầy đủ bộ phận của trận vận động phục kích hiện đại, bao gồm: bộ phận diệt địch chủ yếu, bộ phận chặn đầu, bộ phận khoá đuôi, bộ phận đối diện, bộ phận dự bị và bộ phận hoả lực. Việc tổ chức và bố trí các bộ phận này cũng được tính toán phù hợp với từng loại đối tượng và cự ly phải vận động đánh địch để sao cho khi nổ súng xung phong hình thành ngay thế bao vây chia cắt, áp sát diệt địch, không cho chúng kịp chấn chỉnh đội hình ngăn chặn bộ đội xung phong.</p><p> </p><p>Tập kích giai đoạn này sử dụng rộng rãi cả kỳ tập và cường tập. Các trận cường tập thường đánh đối tượng là các đơn vị địch tạm dừng trong quá trình đi càn quét hoặc mới chiếm đóng để chuẩn bị tiến công hay ngăn chặn các hướng nghi ngờ ta sẽ tiến công Đặc điểm của địch trong trường hợp này là tổ chức phòng ngự chưa ổn định, hoả lực bố trí chưa chặt chẽ, công sự sơ sài... Phía ta muốn tập kích thành công phải tổ chức chiến đấu hết sức khẩn trương, phải bôn tập từ xa đến, bí mật áp sát, dùng hoả lực bản thân chế áp ngắn tạo điều kiện cho bộ binh xung phong chia cắt tiêu diệt địch. Các trận Văn Lý-Xương Điền (Nam Định), trận đồi 94 (chiến dịch tây nam Ninh Bình), trận Khăm He, Khăm Ma là những trận tập kích điển hình của ta trong đánh quân địch tạm dừng. Các trận kỳ tập thường đánh đồi tượng là quân địch ở các thị xã, các sân bay, các kho tàng, trận địa hoả lực nằm sâu trong hậu phương của chúng. Với đối tượng này, ta thường sử dụng lực lượng tinh nhuệ (đặc công), bí mật luồn vào hậu phương địch, áp sát các mục tiêu quan trọng rồi đồng loạt sử dụng thủ pháo, vũ khí cá nhân tiêu diệt sinh lực, phá huỷ kho tàng, phương tiện chiến tranh của địch. Các trận tập kích thị xã Kiến An, thị xã Plây Cu, sân bay Cát Bi, sân bay Gia Lâm... là những trận điển hình trong đánh đối tượng này.</p><p> </p><p>Quy mô các trận tập kích trong giai đoạn này phổ biến là cấp tiểu đoàn và trung đoàn. Với trận đánh quy mô tiểu đoàn, trung đoàn đánh quân địch tạm dừng, muốn giữ được yếu tố bí mật, bất ngờ - một yêu cầu cơ bản của chiến đấu tập kích, người chỉ huy phải tổ chức chiến đấu rất khẩn trương linh hoạt, mạnh dạn quyết đoán đánh đúng thời cơ và phải có biện pháp hiệp đồng chặt che giữa các bộ phận, biện pháp bảo đảm bí mật trong quá trình hành quân tiếp cận địch. Những trận Văn Lý-Xương Điền, Khăm He, Khăm Ma là những trận đánh trong đó công tác tổ chức chỉ huy của người chỉ huy đã đáp ứng được yêu cầu này.</p><p> </p><p>Một nội dung thể hiện sự phát triển hoàn thiện của chiến thuật tập kích trong giai đoạn này là tổ chức đội hình tập kích nhiều mũi nhiều hướng, khí nổ súng mạnh dạn thọc sâu, chia cắt, thực hiện bao vây vu hồi, chủ động phối hợp hiệp đồng đánh địch trong tung thâm, thực hiện đánh nhanh, giải quyết nhanh.</p><p> </p><p>Nếu trong ý nghĩ của tướng tá Pháp, Mỹ, Điện Biên Phủ là một "tập đoàn cứ điểm đáng sợ", "chặt chẽ, hoàn hảo", thì đối với quân và dân ta nó không phải không có điểm yếu. Trong cuộc họp của Bộ Chính trị ngày 6-12-1953 dưới sự chủ toạ của Chủ tịch Hồ Chí Minh, toàn thể Bộ Chính trị đã đánh giá: Điện Biên Phủ là một tập đoàn cứ điểm mạnh, nhưng điểm yếu cơ bản là bị cô lập, xa hậu phương địch, mọi tiếp tế, vận chuyển phải dựa vào đường hàng không. Nếu ta chặn được đường tiếp tế của địch thì tập đoàn cứ điểm đó chỉ là "con chim sắt gẫy cánh". Hơn nữa, khi xây dựng tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, Nava không tính đến tinh thần yêu nước, quyết hy sinh xương máu vì một nền độc lập dân tộc của quân và dân ta, đây là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến sự sụp đổ của tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương thời bấy giờ.</p><p></p><p>Nếu khi xưa, Điện Biên Phủ là một hệ thống công sự, hầm hào từng được tôn vinh là "biểu tượng của đại Pháp", thì ngày nay vẫn những công sự đó, vẫn ngổn ngang trên khắp cánh đồng Mường Thanh từng đống sắt thép hoen gỉ, những xác chiến xa, phi cơ, trọng pháo đủ loại hình, kích cỡ, đủ hãng chế tạo với đủ mọi ưu thế trận mạc,... đã là niềm tự hào của dân tộc Việt. Hàng nghìn vị anh hùng của dân tộc đã hy sinh anh dũng ở nơi đây để cho đất nước độc lập.</p><p></p><p>Với tinh thần anh dũng đó, mảnh đất bị chiếm đóng khi xưa đã trở thành một địa danh trường tồn của dân tộc, một địa điểm du lịch lịch sử nổi tiếng của Việt Nam. Ngày hôm nay, người dân Điện Biên đã chôn chặt quá khứ đau thương tập trung xây dựng để biến chiến trường xưa trở thành những cánh đồng thơm ngào ngạt hương lúa, hương hoa.</p><p></p><p style="text-align: right"><em><strong>Nguồn: Sưu tầm</strong></em></p> <p style="text-align: right"></p></blockquote><p></p>
[QUOTE="Tẩy, post: 32547, member: 1946"] [b]Ý nghĩa của chiến thắng Điện Biên Phủ[/b] [B]Ý nghĩa của chiến thắng Điện Biên Phủ[/B] Cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-1954 là cuộc tiến công lớn nhất của ta trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Dựa vào thế chiến tranh nhân dân phát triển rộng khắp, bộ đội ta đã mở những chiến dịch, những đợt hoạt động đánh địch ở khắp các địa bàn chiến lược trên toàn chiến trường Đông Dương. Những hoạt động tác chiến của ta, đặc biệt là trên năm hướng chiến lược buộc Na-va phải phân tán khối lực lượng cơ động chiến lược, chiến thuật, tạo thời cơ cho ta tập trung sức mạnh của cả dân tộc thực hiện trận quyết chiến lịch sử Điện Biên Phủ toàn thắng. Chiến thắng Đông Xuân 1953- 1954, với đỉnh cao chiến dịch Điện Biên Phủ tiêu diệt phần lớn lực lượng tinh nhuệ của đội quân viễn chinh Pháp thể hiện sức mạnh to lớn của dân tộc và sự trưởng thành vượt bậc của lực lượng vũ trang ta trong cuộc chiến đấu chống ngoại xâm. Cùng với sự phát triển vượt bậc của lực lượng vũ trang, chiến thuật của quân đội ta trong Đông Xuân 1953-1954 vừa có bước phát triển toàn diện vừa có bước phát triển nhảy vọt, trở thành đỉnh cao trong lịch sử phát triển chiến thuật của quân đội ta kể từ sau ngày thành lập đến kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1944-1954). Sự phát triển toàn diện trước hết thể hiện ở sự phát triển đồng đều trên tất cả các chiến trường. Từ chiến trường gần sự chỉ đạo của Trung ương như chiến trường chính Bắc Bộ đến các chiến trường xa-mà ở đó sự chỉ đạo cũng như tiếp tế rất khó khăn, như các chiến trường Nam Bộ, Trung Bộ, Tây Nguyên... trình độ tổ chức chỉ huy của cán bộ, khả năng thực hành chiến đấu của bộ đội đều được nâng lên rõ rệt. Chiến trường Tây Nguyên có trận công kiên Măng Đen quy mô trung đoàn diệt một cụm cứ điểm kiên cố, trận phục kích Đắc Pơ diệt cả binh đoàn cơ động, trận tập kích Plây Cu, kết hợp cả bộ binh và đặc công đánh vào nơi tập trung đầu mơl chỉ huy nằm sâu trong hậu phương... Chiến trường Trung-Hạ Lào có các trận tập kích Khăm He, Kha Ma quy mô trung đoàn, tiến hành trong điều kiện thời gian chuẩn bị gấp diệt hàng tiểu đoàn địch. Chiến trường Thượng Lào có nhiều trận truy kích đạt hiệu quả cao của đại đoàn 308. Chiến trường Nam Bộ có trận Tầm Vu (2-1954), phục kích táo bạo ở vùng đồng bằng loại khỏi vòng chiến đấu một tiểu đoàn nguỵ và một đại đội quân Pháp. Nam Bộ còn phát huy cánh đánh đặc công nhiều sáng tạo và hiệu quả, gây cho địch những tổn thất to lớn. Chiến trường miền Trung có trận tập kích Phò Trạch (Quảng Trị) diệt 200 địch, trận tiến công địch ở An Hoà (Thừa Thiên), tiến công cứ điểm đèo Thượng An, phục kích địch ở chân đèo Măng Giang đạt hiệu quả rất cao... Có thể nói các chiến trường xa, chiến trường nào cũng có những trận đánh hay, những trận quy mô lớn thể hiện sự phát triển của chiến thuật. Sự phát triển toàn diện còn thể hiện ở chỗ các hình thức chiến thuật đều có bước phát triển hoàn thiện hơn. Phục kích, tập kích, công kiên, vận động tiến công, truy kích, tao ngộ chiến... đều được sử dụng đến quy mô tiểu đoàn, trung đoàn, đạt hiệu quả cao và có nhiều tiến bộ so với giai đoạn trước. Phục kích, một trong những chiến thuật cơ bản vẫn được sử dụng một cách rộng rãi và nhiều trận đã đi tới sự phát triển cao nhất của phục kích trong kháng chiến chống Pháp như các trận Vọng Doanh - Giáp Giá, Bần - Như Quỳnh, Tầm Vu, sông Đào, Đắc Pơ.... Những trận phục kích đỉnh cao trong giai đoạn này là các trận quy mô trung đoàn, tiểu đoàn tác chiến "tập trung chính quy", nằm trong ý đồ chung của chiến dịch, đợt hoạt động, được thực hiện không chỉ ở vùng rừng núi hiểm trở dễ giấu quân mà ngay cả ở vùng đồng bằng nằm sâu trong hậu phương địch. Đối tượng tiêu diệt của các trận phục kích trong giai đoạn này không chỉ còn là các trung đội, đại đội, các đoàn xe vận chuyển mà đã là các tiểu đoàn thiện chiến thuộc các binh đoàn cơ động của quân Pháp. Tổ chức đội hình các trận phục kích đã đầy đủ bộ phận của trận vận động phục kích hiện đại, bao gồm: bộ phận diệt địch chủ yếu, bộ phận chặn đầu, bộ phận khoá đuôi, bộ phận đối diện, bộ phận dự bị và bộ phận hoả lực. Việc tổ chức và bố trí các bộ phận này cũng được tính toán phù hợp với từng loại đối tượng và cự ly phải vận động đánh địch để sao cho khi nổ súng xung phong hình thành ngay thế bao vây chia cắt, áp sát diệt địch, không cho chúng kịp chấn chỉnh đội hình ngăn chặn bộ đội xung phong. Tập kích giai đoạn này sử dụng rộng rãi cả kỳ tập và cường tập. Các trận cường tập thường đánh đối tượng là các đơn vị địch tạm dừng trong quá trình đi càn quét hoặc mới chiếm đóng để chuẩn bị tiến công hay ngăn chặn các hướng nghi ngờ ta sẽ tiến công Đặc điểm của địch trong trường hợp này là tổ chức phòng ngự chưa ổn định, hoả lực bố trí chưa chặt chẽ, công sự sơ sài... Phía ta muốn tập kích thành công phải tổ chức chiến đấu hết sức khẩn trương, phải bôn tập từ xa đến, bí mật áp sát, dùng hoả lực bản thân chế áp ngắn tạo điều kiện cho bộ binh xung phong chia cắt tiêu diệt địch. Các trận Văn Lý-Xương Điền (Nam Định), trận đồi 94 (chiến dịch tây nam Ninh Bình), trận Khăm He, Khăm Ma là những trận tập kích điển hình của ta trong đánh quân địch tạm dừng. Các trận kỳ tập thường đánh đồi tượng là quân địch ở các thị xã, các sân bay, các kho tàng, trận địa hoả lực nằm sâu trong hậu phương của chúng. Với đối tượng này, ta thường sử dụng lực lượng tinh nhuệ (đặc công), bí mật luồn vào hậu phương địch, áp sát các mục tiêu quan trọng rồi đồng loạt sử dụng thủ pháo, vũ khí cá nhân tiêu diệt sinh lực, phá huỷ kho tàng, phương tiện chiến tranh của địch. Các trận tập kích thị xã Kiến An, thị xã Plây Cu, sân bay Cát Bi, sân bay Gia Lâm... là những trận điển hình trong đánh đối tượng này. Quy mô các trận tập kích trong giai đoạn này phổ biến là cấp tiểu đoàn và trung đoàn. Với trận đánh quy mô tiểu đoàn, trung đoàn đánh quân địch tạm dừng, muốn giữ được yếu tố bí mật, bất ngờ - một yêu cầu cơ bản của chiến đấu tập kích, người chỉ huy phải tổ chức chiến đấu rất khẩn trương linh hoạt, mạnh dạn quyết đoán đánh đúng thời cơ và phải có biện pháp hiệp đồng chặt che giữa các bộ phận, biện pháp bảo đảm bí mật trong quá trình hành quân tiếp cận địch. Những trận Văn Lý-Xương Điền, Khăm He, Khăm Ma là những trận đánh trong đó công tác tổ chức chỉ huy của người chỉ huy đã đáp ứng được yêu cầu này. Một nội dung thể hiện sự phát triển hoàn thiện của chiến thuật tập kích trong giai đoạn này là tổ chức đội hình tập kích nhiều mũi nhiều hướng, khí nổ súng mạnh dạn thọc sâu, chia cắt, thực hiện bao vây vu hồi, chủ động phối hợp hiệp đồng đánh địch trong tung thâm, thực hiện đánh nhanh, giải quyết nhanh. Nếu trong ý nghĩ của tướng tá Pháp, Mỹ, Điện Biên Phủ là một "tập đoàn cứ điểm đáng sợ", "chặt chẽ, hoàn hảo", thì đối với quân và dân ta nó không phải không có điểm yếu. Trong cuộc họp của Bộ Chính trị ngày 6-12-1953 dưới sự chủ toạ của Chủ tịch Hồ Chí Minh, toàn thể Bộ Chính trị đã đánh giá: Điện Biên Phủ là một tập đoàn cứ điểm mạnh, nhưng điểm yếu cơ bản là bị cô lập, xa hậu phương địch, mọi tiếp tế, vận chuyển phải dựa vào đường hàng không. Nếu ta chặn được đường tiếp tế của địch thì tập đoàn cứ điểm đó chỉ là "con chim sắt gẫy cánh". Hơn nữa, khi xây dựng tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, Nava không tính đến tinh thần yêu nước, quyết hy sinh xương máu vì một nền độc lập dân tộc của quân và dân ta, đây là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến sự sụp đổ của tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương thời bấy giờ. Nếu khi xưa, Điện Biên Phủ là một hệ thống công sự, hầm hào từng được tôn vinh là "biểu tượng của đại Pháp", thì ngày nay vẫn những công sự đó, vẫn ngổn ngang trên khắp cánh đồng Mường Thanh từng đống sắt thép hoen gỉ, những xác chiến xa, phi cơ, trọng pháo đủ loại hình, kích cỡ, đủ hãng chế tạo với đủ mọi ưu thế trận mạc,... đã là niềm tự hào của dân tộc Việt. Hàng nghìn vị anh hùng của dân tộc đã hy sinh anh dũng ở nơi đây để cho đất nước độc lập. Với tinh thần anh dũng đó, mảnh đất bị chiếm đóng khi xưa đã trở thành một địa danh trường tồn của dân tộc, một địa điểm du lịch lịch sử nổi tiếng của Việt Nam. Ngày hôm nay, người dân Điện Biên đã chôn chặt quá khứ đau thương tập trung xây dựng để biến chiến trường xưa trở thành những cánh đồng thơm ngào ngạt hương lúa, hương hoa. [RIGHT][I][B]Nguồn: Sưu tầm[/B][/I] [/RIGHT] [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch sử Việt Nam
Việt Nam Hiện Đại (1946 - 1975)
Chiến thắng Điện Biên Phủ lịch sử
Top