Luận cứ "Thỏ và rùa" cho rằng con thỏ dù nhanh tới mấy cũng thể đuổi kịp con rùa.Trong toán học giữa hai điểm khác biệt sẽ tạo ra đoạn thẳng,và trên đoạn thẳng có vô số điểm,con thỏ muốn đuổi kịp con rùa thì phải vượt qua vô số chướng ngại vật nên chẳng bao giờ tới nơi.Giả sử Thỏ ở vị trí A1 còn rùa ở A2,khi thỏ tới A2 thì rùa đã tới A3 xa hơn,Thỏ tới A3 thì rùa lại tới A4...cứ thế con thỏ chẳng bao giờ đuổi kịp.Luận cứ này nói lên tính mâu thuẫn không ngừng phát sinh đồng thời tự giải quyết của sự vật.Thỏ tới chỗ rùa mâu thuãn tạm thời lắng xuống trở về trạng thái đứng im tương đối,sau đó rùa đi chỗ khác mâu thuẫn lại bùng phát và quá trình vận động lại tiếp tục.Xét về chiến thuật thì con thỏ tuy nhanh nhưng lại không tự chủ,chạy theo con rùa một cách bị động,con rùa chậm song lại dành thế chủ động,quyết định .Khi nào thì con thỏ đuổi kịp con rùa? Trong hình học tuy là một điểm song cũng là vô số điểm trùng nhau,chỉ khi nào ở vị trí trùng nhau thì mới có sự tuyệt đối.
Định nghĩa không gian thời gian có 2 phát biểu cơ bản:
"Mỗi sự tồn tại sẽ xác định ra khoảng không gian tương ứng với nó mà chính sự tồn tại đang tồn tại trong khoảng không gian đó".Sự tồn tại của các điểm sẽ định ra tọa độ tương ứng trong hệ trục tọa độ,một vật thể sẽ định ra không gian có hình dạng và thể tích giống nó còn màu sắc,khối lượng thì không.Như vậy không gian chỉ phản ánh những thuộc tính cơ bản nhất của vật chất,nó như là cái bóng không tách rời,là khái niệm cơ bản của vật chất.
"Mỗi sự vận động sẽ xác định thời gian tương ứng với nó mà chính sự vận động đang trải qua khoảng thời gian đó".Từ vòng quay của Trái Đất mà tạo ra lịch,vòng quay của kim đồng hồ mà đo thời gian,xa xưa hơn người ta lấy bóng nắng,lấy nén hương cháy để tính thời gian.
Sự tồn tại và sự vận động không tách rời nhau nên không gian thời gian cũng luôn đi với nhau(Ở đâu ? Bao giờ ).Không gian thời gian là khái niệm về thế giới chỉ cảm nhận bằng tư duy,không tách rời khỏi vật chất và biến đổi cùng vật chất.Mỗi sự vật có không gian thời gian của nó nên không gian thời gian của các sự vật là tương đối với nhau.Sự vật hiện tượng trong hoàn cảnh thời điểm này thì là nó nhưng sang thời điểm hoàn cảnh khác nó lại là cái khác ,vì thế vật chất cũng là tương đối theo không gian thời gian.
Hiện thực tạo ra không gian thời gian nhưng trong toán học người ta sẽ dựa vào công thức,định lí,nguyên tắc nào đó để tính toán suy luận cho ra kết quả trong tư duy ăn khớp với thực tế như việc xác định vị trí tọa độ.Đó là quy luật "Âm Dương hoán đổi ",nghĩa là tùy vào hoàn cảnh thời điểm cụ thể mà vai trò tiên quyết của các mặt,các yếu tố trong lòng sự vật có thể thay đổi cho nhau.
Luật đồng nhất trong logic học thực chất là đảm bảo tính cân bằng phù hợp giữa sự vật hiện tượng với phạm vi không gian thời gian thời gian đang nghiên cứu trong tư duy:Cái cây đỗi với chính nó đứng im,cái cây là cái cây,cái xe đang chạy với chính nó là đứng yên.Luật đồng nhất làm cho sự vật là chính nó,phản ánh trạng thái tĩnh tương đối.Đó là quy luật của logic hình thức.
Nhưng khi mở rộng phạm vi không gian thời gian thì cái cây và cái xe đang chạy lại là chuyển động với nhau.Lúc này trạng thái tĩnh tương đối đã bị phá vỡ và thay vào đó là sự mâu thuẫn.Đó chính là logic biện chứng.
Logic hình thức phản ánh sự vật trong phạm vi không gian thời gian hẹp nên các sự vật ,các giai đoạn sẽ bị tách rời nhau không có sự liên hệ phát triển về chất:Mùa xuân là mùa xuân,mùa hạ là mùa hạ...nên khi mở rộng phạm vi nghiên cứu nó sẽ không phản ánh đầy đủ toàn diện và phải cần tới logic biện chứng.Logic biện chứng phản ánh sự vật trong phạm vi không gian thời gian rộng lớn hơn nên các sự vật sẽ liên hệ với nhau,sẽ có sự phát triển:xuân- hạ -thu -đông.Tuy nhiên logic biện chứng vẫn phải tuân thủ luật đồng nhất của logic hình thức.
Sự liên hệ chuyển hóa bổ sung nhau giữ logic hình thức và logic biện chứng thực chất là sự đấu tranh giữa phạm vi không gian thời gian nghiên cứu trong tư duy với đối tượng nghiên cứu ngoài thực tiễn .
Con thỏ và con rùa có không gian thời gian tương đối nhau nên không bao giờ đuổi kịp nhau,trừ khi không gian thời gian của chúng là như nhau.Giả sử chúng ở cùng vị trí vào cùng một thời điểm,đi cùng đi,đứng cùng đứng thì lúc nào,chỗ nào chúng cũng có không gian thời gian trùng nhau và như thế sẽ đạt tới sự tuyệt đối.Đó chính là ý nghĩa của triết lí Tính Không và sự hợp nhất trong Phật pháp.
Bức tượng Phật là sự trung tính,là sự hợp nhất vẻ đẹp của cả nam và nữ lại làm một,Thiền là trạng thái không cương không nhu,tĩnh lặng tuyệt đối vượt ra ngoài sự chuyển hóa luân hồi đầu thai :...sinh-tử-sinh-tử-sinh-tử...
Triết học từ xưa đã phân chia làm hai trường phái duy vật và duy tâm.Phái duy vật cho rằng vật chất có trước quyết định tinh thần,phái duy tâm thì cho là tinh thần có trước quyết định vật chất.
Người duy vật thường là người có lập trường Cách mạng,luôn đổi mới và cải cách .Vật chất luôn biến hóa,vì thế dời sống tinh thần phải bién đổi theo,các phong tục tập quán và tình cảm,niềm tin, ý thức ,luật lệ,nguyên tắc ...đều bị phủ định và phải biến đổi theo hoàn cảnh thực tế cho phù hợp.
"Hình vẽ trên cát có thể xóa nhưng ý niệm về nó thì vẫn còn"(Platon),vật chất biến hóa nhanh nhưng tinh thần lại bền lâu.Người duy tâm sẽ rất lợi hại trong việc bảo thủ giữ gìn một hiện thực nào đó.Họ đề cao tinh thần bất diệt(cảm giác,ý thức,tình cảm niềm tin)nên dù hiện thực có không còn nữa thì họ vẫn sẽ bắt hiện thực phải khuôn theo cái tinh thần vẫn còn lại đó.
Đổi mới thì làm từ dưới lên còn giữ thì làm từ trên xuống.Khi đã đổi mới xây dựng xong rồi thì phải giữ vững thành quả,lúc này lại phải đề cao lí tưởng,niềm tin ...sự chuyển hóa này chính là sự tự phủ định lẫn nhau theo chu kì nên chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm hoàn toàn có thể bổ sung cho nhau.
Từ hai trường phái lớn này mà phân ra làm những nhánh nhỏ hơn.
Người ta bị bệnh tật là do thời tiết môi trường hay là do thể chất yếu không đề kháng được,trả lời câu hỏi này sẽ có hai phe duy vật khách quan và duy vật chủ quan.
Những quy luật trừu tượng là do nhận thức từ thế giới bên ngoài rồi rút ra hay là do ta tự ý thức,tự động não suy luận logic mà có trả lời vấn đề này mà có tiếp hai phe duy tâm khách quan và duy tâm chủ quan.
tư duy biện chứng công nhận sự vận động biến hóa và mối liên hệ lẫn nhau của thế giới còn tư duy siêu hình lại cho rằng bản chất thế giới là cô lập bất biến không có sự phát triển chuyển hóa lớn.
Kết hợp phương pháp tư duy với các môn phái kia lại thì phải có tới 8 môn phái nhỏ.
Đạo Phật vẫn giữ lập trường trung lập,đứng vững không nghiêng ngả dao động theo cả hai phe."Con người là trung tâm của các vấn đề" duy vật hay duy tâm cũng do con người mà ra bởi nếu không có sự tác động của con người thì không thể phân biệt sự vật hiện tượng ra làm hai mặt vật chất với tinh thần được.
Có người trồng cây để lấy ôxi,môi trường trong lành là chính , tính thẩm mĩ chỉ là phụ nhưng cũng có người trồng cây để làm cảnh là chủ yếu.Người duy vật ăn uống thiên về yếu tố dinh dưỡng sức khỏe,người duy tâm lại thiên về cảm giác.Theo lập trường duy vật thì vượn tiến hóa nhờ gen di truyền và hình thể được nâng cấp,còn người duy tâm sẽ nói người hơn loài vật vì có ý thức.Thuốc đắng dã tật nhưng nếu đắng quá sẽ làm người ta không uống nổi,còn thuốc phiện đem lại cảm giác hưng phấn song lại có hại cho sức khỏe.
Quan điểm trung lập cho rằng cho dù đời sống vật chất tinh thần có cao đến mấy mà con người cứ phải làm nô lệ về kinh tế,bị nô dịch bởi tôn giáo,tha hóa trong đời sống vật chất lẫn tinh thần,và khi đó trong quan hệ xã hội tự khắc sẽ có người lợi dụng sự tha hóa ấy để nô dịch họ,biến họ thành nô lệ, thì điều đó chẳng có ích gì.Sự tha hóa làm cho con người đánh mất mình,phải chạy theo cái này cái khác một cách bị động .Mỗi sự nhận thức khi càng vào tầng sâu của nhận thức ,vào đến đời sống tâm linh thì được sẽ thổi phồng vĩ đại hết cỡ,được thần thánh hóa ,cái bóng trên vách luôn to hơn cái hình thật nhưng người ta lại đảo lộn sự nhận thức và chỉ vào cái bóng và bảo đó là hình thật.Chỉ có làm cho con người được làm chủ ,đưa mọi hoạt động của con người hướng vào chính mình thì mới khắc phục được mọi sự tha hóa.
Tính toàn đồ vốn cho rằng con người là vũ trụ thu nhỏ,thế giới có gì trong con người có đó bởi thế giới phản ánh vào bên trong con người và con người thì lại phản ánh chính mình lên thực tiễn.Thế giới bên ngoài có tự nhiên thì trong con người cũng có mặt tự nhiên với quá trình lí hóa sinh...thế giới có xã hội thì trong con người cũng có ý thức xã hội,thậm chí nếu người đó đạt tới sự tự giác chủ quan thì sẽ tự có luật pháp,tòa án trong chính con người họ giám sát họ.Chúng ta làm cách Mạng để thay đổi hoàn cảnh bên ngoài,nhưng cách mạng muốn triệt để phải thay đổi được thế giới bên trong con người.Xã hội mới mà không có con người mới,con người vẫn mang bản chất của con người xã hội cũ thì Cách Mạng chưa đạt được thành công về chất.Cuộc đấu tranh bên trong con người cũng rất gay gắt để vượt qua con người cũ của mình:Đấu tranh giữa mặt tự nhiên với mặt xã hội,giữa lí trí với tình cảm,bản năng với ý thức...
Cái khách quan phản ánh vào con người thành cái chủ quan,đên khi đã ngấm sâu thì thành sự tự giác hay thói quen vô thức,cao hơn là tập quán,phong tục lâu đời ở phạm vi rộng.Nghĩa là con người không cần tới sự tác động từ ngoài nữa mà có khả năng dùng ngay những gì đã có sẵn trong mình để sử dụng.Giống như người ta dùng ngay các công thức nguyên tắc đã rút ra trong đầu rồi suy luận tính toán để đúng với thực tế.
Lúc chúng ta muốn giữ vững thì điều này là rất tốt,nhưng khi muốn đổi mới thì nó tỏ ra rất kiên cố trì trệ bởi thay đổi một thói quen phong tục lâu đời nay đã lỗi thời là rất khó.
Thế giới bên ngoài con người phải tìm cách chinh phục để làm chủ hoàn cảnh.Họ lao động,cải tiến công cụ để tăng năng suất lao động.Lúc đầu con vượn chỉ nhặt sẵn cành củi để làm,sau nó biết gọt đẽo đi để cầm nắm dễ hơn.Con vượn tiến hóa hơn loài khác cơ bản nhất chính là làm chủ đôi bàn tay khéo léo hơn. Tư liệu lao động vốn như các cơ quan của con người vươn ra:xe cộ như đôi chân,công cụ đỡ cho tay,kính điện tử hỗ trợ mắt ,máy trợ thính là tai,máy tính là bộ nào...sau này rất có thể quá trình tin học hóa sẽ làm kết nối máy tính với các công cụ khác để chỉ cần lập trình từ máy tính cho công cụ tự động làm việc.Khi con người còn phụ thuộc vào tài nguyên thiên nhiên cho dù tài nguyên có phong phú giàu có đến mấy chăng nữa thì họ vẫn là nô lệ của tự nhiên,máy móc càng tiến bộ thì khai thác càng kiệt quệ,chỉ khi nào người ta tự chủ được nguồn tài nguyên,làm chủ được khoa học kĩ thuật để khai thác có kiểm soát không còn ăn sẵn nữa thì mới thực sự có được nền sản xuất mạnh.Trong xã hội các cuộc Cách mạng diễn ra để làm cho con người được tự chủ hơn,được làm chủ chính mình thoát khỏi đời nô lệ,điều này ai cũng biết.
Kinh tế chính là cơ thể sống,nông nghiệp là cái bao tử,công nghiệp là hệ thống tay chân và giác quan dùng để lao động,còn văn hóa là tinh thần của xã hội.
Trong con người nếu con người muốn hạnh phúc thực sự thì phải biết làm chủ kiểm soát được mặt tự nhiên của mình,phải làm chủ được ý thức,bản năng của mình.Điều này người thường thì chưa hẳn ai cũng làm nổi nhưng các yogi thì là điều bình thường.
Như thế các khoa học vẫn chỉ đang nghiên cứu ở cái vẻ ngoài của con người với thể xác,ý thức,tình cảm mà chưa đi sâu vào con người thật sự,chân ngã nguyên bản .Sức khỏe trí tuệ chỉ là tài sản quý giá nhất,bất li thân của con người chứ chưa phải là cái tôi thật sự.
Cái chân ngã nguyên bản ấy hoặc là bị lệ thuộc vào bản năng,vào tình cảm,ý thức hoặc là sẽ kiểm soát tự chủ được và sẽ vượt qua khỏi sự chi phối đó để giải thoát ra ngoài vòng biến hóa tìm tới bến bờ an lạc.