Quân chủ hóa xã hội, Cộng hòa hóa dư luận
Dù không hề ảo tưởng về ý thức và tinh thần của Nguyên soái, những người Cộng hòa lúc đầu vẫn tỏ ra sẵn sàng chấp nhận Mac-Mahon: “Có ông ta thì chúng ta vẫn còn nền Cộng hòa”.
Đó là một nền Cộng hòa khá lạ lùng mà sau này Công tước Broglie đã nhanh chóng chỉ ra cho những người Cộng hòa thấy bằng việc áp dụng chính sách Trật tự Đạo đức, cái làm nên ngọn cờ tiên phong trong chiến dịch rầm rộ chống lại những người Cộng hòa, nhằm hất họ ra khỏi vị trí hành động và nhằm chuẩn bị điều kiện cho nền Quân chủ phục chế.
Xét một cách tổng thể, những thành viên Cộng hòa đã bị thanh trừ khỏi các cấp chính quyền, một đạo luật thì qui định Chính phủ có quyền chỉ định chức Thị trưởng cho các địa phương còn những chức danh Cộng hòa trong Toà thị chính lại do một đạo luật khác qui định. Không có bất cứ một dấu tích nào của nền Cộng hòa được thể hiện trong các văn bản nhà nước.
Chính phủ kiểm duyệt gắt gao việc in ấn và phát hành báo chí. Ngược lại, mối quan tâm của Chính phủ là làm thế nào truyền bá lại vào tư tưởng của quần chúng Pháp những khái niệm đã biến mất như việc tôn thờ và kính trọng giới chính quyền đã được tạo lập, tầng lớp thống trị và giáo hội có quyền lực trong xã hội.
Giới tăng lữ được các nhà lãnh đạo của phe đa số nhìn nhận như một trợ thủ đắc lực và tầng lớp này cũng dành được mọi sự quan tâm của Chính phủ; những người biểu tình chống lại tầng lớp tăng lữ bị truy đuổi, việc chôn cất dân thường bị cấm đoán, và “báo chí có tâm” thì nhận được sự trợ giúp từ các cấp chính quyền.
Phe đa số và các tổ chức đã giúp đỡ nhiệt tình cho việc khánh thành Nhà thờ Sacré-Coeur với tuyên bố rằng đó là “vì lợi ích công chúng”; sự trợ giúp của Chính phủ chủ yếu dành cho những cuộc hành hương ở Lourdes, Chartres và Paray-le-Monial, và tất cả cùng hát: “Hãy cứu lấy thành Roma và nước Pháp nhân danh Sacré-Coeur”. Vài năm sau đó, những người Cộng hòa thắng thế đã bắt giới tăng lữ phải trả giá đắt cho những mối quan hệ liên lụy trước đó của mình.
Trong khi công tác tuyên truyền đang lan rộng thì chính quyền Cộng hòa không ngừng có những tiến triển tích cực ở trong nước, đặc biệt là nhờ vào những hoạt động không mệt mỏi của Gambetta. Cuộc bầu cử chính quyền các cấp năm 1874 là một thắng lợi của nền Cộng hòa.
Và ngay sau đó, phe đa số đã chia rẽ rất nhanh; những người theo chủ nghĩa chính thống, mặc dù trước đó đã thông qua luật về nhiệm kỳ 7 năm của Tổng thống, mặc dù không dám nói ra nhưng vẫn thầm trách Broglie và Mac-Mahon về thất bại của người kế vị ngai vàng Chambord; nhất là phái giữa trong Quốc hội - những người ủng hộ dòng Orléans - đang lo sợ về một nguy cơ mới mà người ta nghĩ rằng nó đã biến mất: chủ nghĩa Bonaparte. Rouher , vị “Hoàng đế đệ Nhị”, cái tên đệm mà mọi người đặt cho ông, đã tụ tập những người đi theo và ủng hộ nền Đế chế vào Đảng “Kêu gọi dân chúng” và bắt đầu một hoạt động tuyên truyền tích cực nhằm ủng hộ cho con trai của Napoléon III, vị Thái tử vương triều.
Trước nguy cơ xuất hiện một chế độ độc tài mới, những thành viên thuộc phái trung tâm trong Quốc hội vốn nghiêng về chủ nghĩa tự do hơn là chủ nghĩa quân chủ đã tính ngay thấy mối nguy hiểm mà nước Pháp đang phải đối đầu, đó là tính bấp bênh không ổn định của chế độ lâm thời.
Rất nhiều người đã ngả theo lối nghĩ của Broglie rằng thà duy trì một nền Cộng hòa bảo thủ, trong đó Tổng thống nắm mọi quyền hành của một vị vua cai trị theo hiến pháp và được sự trợ giúp của Thượng viện, cơ quan đại diện cho quyền lợi của phe Bảo thủ và có trách nhiệm ngăn chặn mọi động thái kích động của Hạ viện - cơ quan được thành lập do bầu cử - còn hơn là để xuất hiện một nền chính trị chuyên chế. Nhưng sự hiện hữu của phe đa số trong chính phủ “Trật tự Đạo đức” đã ngăn cản phái giữa nêu ý kiến của mình.
Tháng 5-1874, khi Công tước Broglie trình bày trước Quốc hội chương trình Thượng viện của mình, lập tức một liên minh chính trị giữa những người Cộng hòa, người theo chủ nghĩa chính thống và những người theo chủ nghĩa Bonaparte đã lật đổ chính phủ: phe đa số trong chính phủ “Trật tự Đạo đức” đã tan tác; nền Cộng hòa được giải cứu.