Câu đối xưa...câu đối nay !

  • Thread starter Thread starter Butchi
  • Ngày gửi Ngày gửi

Butchi

VPP Sơn Ca
Xu
92
CÂU ÐỐ - CÂU ÐỐI.

Nền Văn Học dân gian Việt Nam có một loại hình thật độc đáo, phục vụ tất cả mọi tầng lớp trong xã hội, đó là Câu đố. Nó xuất phát từ sự quan sát, nắm bắt những thuôc tính cơ bản của con người, động vật, sự vật... hoat động diễn ra hàng ngày. Nhà Nghệ Sỹ có danh hay vô danh thu lượm, sáng tạo rồi viết thành lời, truyền tụng trong dân gian. Người nghe thích thú, suy nghĩ sau đó.. đoán.
Câu đố có loại đơn giản, dễ đoán dành cho trẻ em, Thi dụ:

Trùng trục như con chó thui
Chín mắt, chín mũi, chín đuôi, chín đầu.
Hoặc :
Ngồi cao hơn đứng...

Các em phải căng ra suy nghĩ nhưng không dể nhận ra ý nghĩa của lời giải. Quả thật trong câu đố này tập trung ở từ ''Chín''. Nếu coi chữ chín là số từ thì hướng giải sẽ mang ý nghiã con vật ''như con chó thui'' kia, mắt mũi đuôi đầu có 9 cái... Vậy con vật gì mà có những chín cái... mắt... nhỉ ?
Nhưng, nếu các em chú ý tới chữ ''Chín'' khác là Trạng từ làm nhiệm vụ bổ nghiã cho Ðộng từ ''Thui''. Khi được gợi ý các em sẽ nhận ra ngay đó chính là con chó vừa được cha anh giết thịt, làm lông, thui cho Chín, thơm để đem cắt chặt nấu nhựa mận, nướng chả...
- Ðó chính là con chó thui !
Con kia là con chó Vện đang sống, ngồi chồm hỗm - gác trước cổng nhà. ( Nếu con Vện đứng trên 4 chân, chiều cao của nó sẽ thấp hơn khi nó ngồi ).

Loại câu đố khác dành cho người lớn, hợp với khả năng tư duy. Có câu giảng ''Thanh'', mang ý nghĩa sáng sủa. Nhưng đọc lên lại có vẻ ''Tục'', thậm chí rất tục, gợi cho người nghe ý nghĩa rất... ''Sexy''. Thí dụ :

Hai tay nắm lấy khư khư
Bụng thì bảo dạ, rằng, Ư - đút vào
Ðút vào nó sướng làm sao
Dập lên dập xuống nó trào nước ra.

Hoặc
Mặt tròn vành vạnh, đít phổng phao.
Mân mân, mó mó - đút ngay vào
Thủy hỏa tương giao, sôi sùng sục
Âm dương hòa khí, sướng làm sao !

Hay :
Vừa bằng bắp tay
Thay lay giữa háng
Ðến ngày đến tháng
Lông lá mọc dầy.

Người nghe đang căng ra suy nghĩ... Câu đố được đám đông tham gia giải với nhiều tâm trạng:
Những cô gái nghe xong mặt đỏ bừng, kêu ré lên: Eo ôi !..
Những chàng trai cười sảng khoái thích thú.
Vài người có tuổi nghiêm mặt phê phán : Bậy bạ... bậy bạ! Chuyện như vậy mà ông nói cứ ráo hoảnh không e dè kiêng nể à?

Người ra câu đối bình tĩnh biện báo:
- Ông bị ảnh hưởng của phim, ảnh Sexy qúa nhiều nên chỉ nghĩ một chiều theo nghĩa tục. Ðây là câu đố tục giảng lại rất... thanh. Này nhé: Câu trên cùng là - Ăn mía. !
Ðúng ! Cách ăn mía cả gióng của dân gian mà khi ăn không dùng dao tiện, cắt từng khẩu, khiến hai tay phải nắm chắc gióng mía dài khoảng từ 20 đến 30 phân rồi dùng hàm răng tước vỏ, cắn, nhai. Hai hàm răng dập lên dập xuông, nước đường ngọt lịm từ khẩu mía trào ra. Chao ơi ! Ðang nóng, khát. Nước mía tươi, mát, ngọt gây cho người ăn cảm gíac ngon, khoái khẩu!

Còn câu thứ hai là Hút thuốc Lào bằng điếu Bat !
Trong dân gian có hai loại điếu dùng cho người thích hút thuốc Lào, đó là Ðiếu Bát và Ðiếu Cầy. Ðiếu cầy làm bằng một ống Tre hoặc Nứa dài chừng 40 phân. Chỉ dành cho giới lao động, thợ cầy. Phục vụ cho những người lao động lam lũ, hút giữa lúc tạm nghỉ trong giờ lao động.

Ðiếu bát dùng cho những người ở nhà, ở nơi công công, thậm chí dành cho những người giầu có, quan lại. Cãu tạo của Ðiếu Bát gồm chiếc bát bằng gốm sứ hình tròn, hoặc lăng trụ. Dưới đáy có bầu đựng nước, đặt trong lòng chiêc bát có đường kính to hơn, hút bằng xe điếu (một ống nhỏ dài chừng 50 phân, rỗng ruột. Ðường kính xe điếu chừng 5- 7 li, đường kính lỗ rỗng khoảng gần 1 ly). Trên miệng bát điếu đục một lỗ tròn gọi là Nõ điếu. Khi hút, ngườI nghiện vân vê sợi thuốc thành hình tròn, dút vào Nõ điếu, bật lửa, rit...rít.. Nước ở dưới bốc lên hòa cùng lửa đốt cháy sợi thuôc. Hương vị của thuốc lào được 2 luồng khí Âm (nước) và Dương (Lửa) hòa trộn gây cho ngườI hút khoái cảm, đê mê... Nhiều khi, nếu sợi thuốc là thuốc Lào Vĩnh Bảo, người hút sẽ say, đổ kềnh ra đất...

Câu cuối cùng mới ''Căng''.
Ðọc lên người nghe hình dung, mường tượng ra cái vật mà ai cũng biết nhưng ai cũng ''Kiêng ky'', không dám nói ra lời. Một vật mà thày lay ở háng, đến ngày đến tháng lông lá mọc dầy thì... gợi ngay cho người nghe rồi liên tưởng tới sự phát triển sinh lí của chàng trai dậy thì khoẻ, giống tốt - ‘‘Rực lửa‘‘ . Thực ra đó là chiếc Bắp Ngô trên cây ngô. Nông dân gọi khoảng cách từ thân đến bẹ ngô là Háng ngô. Khi cây phát triển từ lúc mới trồng đến khi ra bắp, chiếc bắp nhú ra từ ‘‘háng‘‘ kia, râu ngô cũng theo đó phát triển dần. Khi bắp gìa, râu ngô cũng chấm dứt mọc, người ta bẻ ngô đưa về rang, xay chế biến thành món ăn dân gian độc đáo.

Người ngồi nghe thở phào, phá lên cười sảng khoái: Thế mà lại cứ tưởng!
Một loại câu đố khác vừa thanh, vừa khó, do giới quan lại, khoa cử sáng tạo, truyền tụng trong giới trí thức cung đình. Ðiển hình cho loại này là một giai thoại được đưa vào lịch sử văn học nước nhà, lưu truyền đến nay :
Cụ Mạc Ðĩnh Chi là danh sỹ đời hậu Lê (?). Tương tuyền, trong một lần mẹ cụ vào rừng kiếm củi, bị Ðười ươi bắt... về nhà có thai, sinh ra cụ. Tuy rất xấu xí nhưng thông minh tuyệt đỉnh. Hoc đâu nhớ đãy... làm quan, từng đi Sư bên Tầu... ứng đối trôi chảy khi người Tầu thử tài... Một lần Cụ được nhà vua triệu vào Cung cùng nhiều đại thần, danh sỹ. Vua đưa ra một câu đố nói rằng Sứ Tàu bắt ta phải giải, nếu giải được họ sẽ vào trình quốc thư. Không giải được, nhà vua phải đích thân đến tận nhà khách họ đang ở - nghe giải.

Ðó là yêu sách ngang ngược. Nhưng vì là nước nhỏ không thể làm mếch lòng nước lớn. Vua đòi các quan hãy tập trung giải câu đố. Nội dung câu đố chữ Hán như sau:

Lưỡng Nhật, bình đầu nhật.
Tứ Sơn, điên đảo sơn.
Lưỡng Vương, tranh nhất quốc.
Tứ Khẩu, tung hoành gian.

Các quan cố vắt óc mà không đóan câu thơ kiêm câu đố quái dị kia là cái gì. Rút cuộc không vị quan nào hiểu được bài thơ - giải được câu đố. Vua lo lắng quay sang hỏi Cụ Mạc. Cụ vui vẻ bảo : Tâu thánh thượng, đó chỉ là trò dùng để đố bọn trẻ, đâu để thánh thượng bận tâm.

Vậy nó là cái gì - Vua hỏi.
- Ðó là chữ ÐiỀN - Cụ Mạc đáp ngay!
Vốn cũng là người hay chữ, hiểu ra, ngài cười tươi. Các quan trong triều vô cùng cảm phục tài trí thông minh của cụ Mạc. Câu đố dịch nghĩa như sau :
Hai hình chữ nhật để bằng đầu, sóng hàng nhau .
(Các canh của nó tạo ra chữ Ðiền).
4 trái núi, điên đảo... điên đảo
(4 chữ Sơn sắp ghép theo 2 chiều, dọc - ngang, cũng tạo thành chữ Ðiền.)
Hai ông vua tranh nhau một nước.
(Hai chữ Vương ghép lại, trên- dưới- cũng thành chữ Ðiền).
4 cái miệng ở trong khoảng dọc, ngang -
(4 chữ Khẩu ghép lại theo 4 góc, hai chiều ngang dọc cũng tạo thành chữ Ðiền).

Câu đố của sứ thần Tàu là chữ ÐIềN.
Bài thơ giải nghĩa như sau :
Hai Nhật (hình chữ nhật) bằng đầu để sóng hàng.
4 Núi (Sơn) điên đảo dọc cùng ngang.
Hai Vua (Vương) nghiêng ngả lo tranh nước.
4 Miệng (Khẩu) liền nhau ghép vững vàng.

Sứ thần nhận lờì giải với sự ngạc nhiên cảm phục.

CÂU ÐỐ - CÂU ÐỐI - THƠ ÐỐ !

Một lọai khác tuy cũng là ''câu đố'' nhưng chỉ dành cho những người có học. Người ra đề kiến thức uyên thâm, hay chữ. Mục đích là dùng kiến thức của mình trân áp đối tượng, dồn ép đôi tượng tới thất bại nhằm đạt được mục đích nào đó. Loại này trong văn học dân gian truyền tụng rất nhiều. Xin đưa một vài thí dụ :

Vẫn chuyện cụ Mạc Ðĩnh Chi.
Theo truyền thuyết, cụ Mạc được vua ta cử đi Sứ sang Tầu.
Bước chân tới cửa khẩu biên giới rồi vào cổng thành kinh đô của họ, cụ liên tục bị đám quan quân nước sở tại gây khó dễ bằng cách ra câu đôi hòng dồn cụ phải bó tay, chịu nhục. Nhưng tất cả âm mưu đó đều bị cụ đánh bại bởi tài trí thông minh tuyệt đỉnh, cách ứng xử nhanh trí, bằng những câu đối hay, chuẩn xác đầy kiêu hãnh khiến đám người kia tuy tức giận mà không làm gì được Sứ thần của nước ''Man di'' - (cách gọi những nước ngoài biên giơi Trung Nguyên của người Trung Hoa cổ).

Vả lại riêng đôi với Sứ thần nước Nam Việt lại ''xấu như qủy'' luôn thắng trước các cuộc thử tài - khiên sự ghét bỏ đói với cụ Mạc Ðĩnh Chi ngày càng tăng. Lần này những bộ óc siêu việt của Trung nguyên quyết tâm tìm cách hạ gục trả mối hận. Vẫn võ cũ - ''ăn miêng trả miếng'' - sau khi đoàn ngoại giao của Nam Việt được bố tri nghỉ ngơi ở quán khách, Người đại diện cho nhà vua Tàu đến đưa cho cụ Mạc một vế đối nói rằng nếu đối chỉnh mới được vào trình quôc thư. Nội dung vế ra như sau:

Ly, Mỵ, Võng, Lượng - Tứ tiểu quỷ.

Ðây là vế ra đề rất khó, ác hiểm. 4 chữ đầu đều là tên 4 Quẻ trong Kinh Dịch . 3 chữ tiếp theo lột tả bản chất của 4 chữ đầu, tạo ra một tập hợp Hán từ vừa mang ý nghiã cấu trúc của từ vựng tượng hình, vừa mang ý nghĩa của từ rất ''Nôm'' - Các người xấu như Qủy.

Ðiều quan trọng: Làm thế nào để đối được câu này hoàn chỉnh cả về ý lẫn về lời. Nhất là làm sao hạ gục, xóa bỏ ý nghĩa của tập hợp từ ''Tứ Tiểu Qủy''

Kinh Dịch là tác phẩm triết học, khoa học cổ đại nhất của Trung Hoa mà chỉ có rất ít những người Trung Hoa học giỏi, học rộng, đọc, hiểu. Kinh Dịch lại viết bằng Hán tự - tiếng nói, ngôn ngữ của chính họ. Dưới mắt họ, viên Sứ thần của nươc ‚’Man di’’ Xấu như Qủy, tài học làm sao bì được với những bộ óc kiệt xuất của Trung Nguyên.
Chẳng ngờ, nhận đề xong, cụ Mạc không suy nghĩ, đọc ngay vế đôí:

Cầm, Sắt, Tỳ, Bà - Bát đại vương!

Cầm, Sắt, Tỳ, Bà cũng là 4 quẻ trong Kinh dịch. Trong 4 từ này, ở mỗi từ đều có 2 chữ Vương. Vế đối hoàn chỉnh đến lạ lùng. Bát Ðại Vương đối với Tứ Tiểu Quỷ. Nhưng còn tuyệt diệu ở chỗ: Người ra là chủ, khinh miệt khách ở hình hài, trí tuệ đến hợm hĩnh, chủ quan tự đặt mình, núp mình trong ''Tứ Tiểu Qủy'' - hòng áp đảo đối thủ..

Còn khách thì kiêu hãnh cũng tự nhận, đặt mình vào 8 chữ Vương. Bát Ðại Vương (8 ông vua lơn) - chứ không phải là 4 Qủy Nhỏ. Trước 8 vua lớn tất nhiên 4 qủy nhỏ sẽ bị chém đầu.
Quan viên nước chủ nhà ra đón đều dật mình kinh ngạc, bái phục và vội mở rộng cửa mới danh sỹ Mạc Ðĩnh Chi vằo trình quốc thư.

Một chuyện khác cũng nằm trong khuôn khổ ra câu Ðối. Tục truyền: Trạng Quỳnh có tiếng là hay ''Nỡm'' (diẽu cợt) thiên hạ. Kể cả diễu Chúa Trịnh. Tuy nhiên nhiều phen bị bà Ðoàn Thị Ðiểm thu phục. Một lần bà Ðiểm tắm. Trạng Quỳnh đứng bên ngoài trêu trọc ''đòi vào tắm cùng''. Bà Ðoàn biết tính Qùynh, không chấp nhặt nhưng nói: Nếu đối được câu này thì sẽ mở cửa cho vào - đoạn bà đọc:

Da Trắng vỗ Bì Bạch.
Quỳnh nghe xong cố vắt óc mà không thể tìm được từ để đưa ra vế đôi đành lẳng lặng bỏ đi
Vế ra thật độc đáo. Cả câu chỉ có 5 chữ. Ðã có 1 động từ (vỗ). Còn 4 từ lặp lại nhau đồng nghĩa của hai thư ngôn ngữ Hán - Nôm.
Da - nghĩa là da người.
Trắng là mầu Trắng. Người đàn bà đang tắm thì phải phơi bầy da thịt trắng ngần để... tắm.
Bì tiếng Hán cũng là Da.
Bạch tiếng Hán nghĩa là Trắng.

Dịch nghĩa thì vế ra là Da Trăng vỗ... Da Trắng! Trong thực tế khi dùng bàn tay vỗ vào... da cũng phát tiếng bạch... bạch. Còn khi người ngâm trong nước dùng tay vỗ vào da... sẽ phát ra tiếng bì ... bõm. Vị Trạng có tiếng là hay ''Nỡm'' thiên hạ, gặp phải người đàn bà ''Khắc tinh'' ra vế đề qúa hóc đành chào thua. Ðến nay đã mấỳ trăm năm trôi qua câu đối của bà Ðoàn Thị Ðiểm cũng chưa có ai đối được hoàn chỉnh. (Hậu bối có người đối lại : Rừng sâu mưa lâm thâm. Đó là câu đối có phần gượng ép, không thể nào bì được với nguyên tác)
x

Một loại ''Ðố'' khác cũng không kém phần tinh tế, trí tuệ đó là ra đề cho người làm thơ ứng khẩu. Nếu ứng khẩu được bài thơ hay sẽ được khen, thưởng. Không được sẽ bị phạt. Thể thức này đòi hỏi người nhận đề phải có kiến thức văn chương mới có thể đáp ứng được yêu cầu của người ra đề. Lấy 2 thí dụ sinh động để dẫn chứng:

Tục truyền Vua Lý Công Uẩn do người mẹ không chồng sinh ra . Dưới thời xa xưa, người phụ nữ không chồng mà chửa là một trọng tội sẽ bị hình phạt thảm khốc. Sinh xong, đang đêm người mẹ trẻ bọc con trong mớ dẻ rách mang đến cổng chùa Giặn (hiện còn ở đầu làng Ðình Bảng ngày nay) - vất.
Ngay lúc đó vi sư trụ trì của chùa nằm mộng thấy một vị Bố tát đên bảo: Các người hãy chuẩn bị… sáng mai đón quý nhân.

Nhà sư tỉnh dậy thấy trời vừa hừng đông, sai mấy chú tiểu ra mở cổng. Họ nghe tiếng trẻ khóc vội bồng lấy đưa vào trình thầy. Sư Trụ trì thấy đưa bé trai liền lấy họ Lý cûa mình đặt tên Công Uẩn cho bé rồi giao cho các sư nữ (bà Vãi) chăm nuôi. Lý Công Uẩn lớn lên dưới mái chùa Giặn và sự chăm soc của thầy, cô. Ðến 10 tuổi cậu bé Lý vẫn không chịu chăm học chỉ ham chơi, phá phách khiến sư Trụ Trì phiền lòng luôn trách phạt...

Một đêm kia Thượng tọa Trụ trì thấy rất nhiều tượng phật khăn gói qủa Mướp, tay nải - đến gặp ông, chào từ biệt. Trụ trì hốt hoảng hỏi, các vị tượng buồn rầu nói: Thiên tử ăn hết đồ cúng tế, chúng tôi đói quá đành đi đến các chùa khác.

Tỉnh lại nhà sư đi kiểm tra: Quả thật trên những bệ thờ trống trơn. Ông cho rằng bọn trộm đã đột nhập, đành ra lệnh cho các sư, tiểu trong chùa thay phiên nhau canh giữ đêm ngày. Tệ nạn mất đồ thờ cúng chấm dứt. Tuy nhiên nhiều vị sư nghi việc này do Lý Công Uẩn gây ra, nhưng không dám bầy tỏ với sư phụ Trụ Trì. Tượng trong chùa cũng không đến tìm gặp Trụ Trì cáo biệt nữa.

Mấy hôm sau sư Trụ Trì lại mơ thấy hai vị hộ pháp của chùa khăn gói đến gặp, mặt buồn rầu, nói: Chúng tôi bái biệt ngài, sáng mai sẽ đi .
- Tại sao cac vị lại đi?
- Thiên Tử (Con Trời - Vua) đầy chúng tôi xa 3000 dặm. Nhà sư toát mồi hôi hột vụt tỉnh, nghĩ: Hai vị hộ pháp trấn giữ trước cửa để đánh đuổi bọn ma qủy. Giờ các vị đi, ai sẽ làm việc này - Vội gọi các công sự và đệ tử cùng ra xem thực hư ra sao. Mọi người đến trước hai ông hộ pháp một ông mặt đỏ, một ông mặt xanh. Hình hài của hai vị vẫn bình thường nhưng đằng sau lưng mỗi vị có một giòng chữ : Ðồ tam thiên lý (Ðày xa 3000 dặm).
Những sư ông, sư bác hiểu ra vội xum vào lau giòng chữ nhưng không thể lau sạch. Một vị nghĩ ngay tới Lý Công Uẩn bảo - Ðể thằng Uẩn lau xem sao. Lý Công Uẩn được điệu đến. Cậu bé chỉ đưa tay phẩy nhẹ, giòng chữ kia tan ngay.

Sư trụ trì giận lắm ra lệnh cho đệ tử bắt Lý đưa lên gác tam quan trước cổng chùa giam nhằm trừng phạt răn đe. Ðêm đó vào giửa tuần trăng, tiết trời se lạnh, nhà sư không yên tâm lò do lên kiểm tra. Ðến nơi thấy Ly Công Uẩn rét, nằm co quắp chân tay để giữ hơi ấm. Trông thật tội nghiệp. Ðộng lòng thầy hỏi: Con đã biết lỗi chưa. Bây giờ con làm được bài thơ tự vịnh mình đang đêm năm co, nếu hay, thầy cho xuống.

Lý Công Uẩn suy nghĩ đoạn đọc :

Trời làm màn chiếu, đất làm chiên (Chăn)
Nhật, Nguyện cùng ta một giấc yên.
Ðang đêm chẳng dám giang, chân duỗi
Chỉ sợ sơn hà, xã tắc nghiêng.

Sư Trụ Trì thức tỉnh bởi bài thơ ứng khẩu của cậu bé mươi tuổi : Nằm co vì rét mà dám tự vi ''giang tay, duỗi chân sợ sơn hà xã tắc nghiêng ngả'' - Ðó là khẩu khí của con trời (vua). Xâu chuỗi lại các sự kiện từ lúc cậu bé mới đến chùa... lời của các tượng phật... ông liên tưởng tới cơ trời... vội quyết định tập trung dậy dỗ Lý Công Uẩn...
Vài mươi năm sau Ly Công Uẩn đã dựng nghiệp lớn rồi lên ngôi lấy vương hiệu là Lý Thái Tổ, dời Kinh đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) về Ðông Quan (Thăng Long - Hà nội ngày nay). Một triều đại mà đạo Phật thịnh trị kéo dài được 8 đời hơn 100 năm.`

Một thí dụ khác: Trạng Nguyên Lương Hữu Khánh lúc còn hàn vi, đi học nhưng nghèo khó. Một lần đi đò cùng các nhà sư, thấy vị sư trẻ mang một tay nải nặng đầy Oản, Chuối - theo gót nhà sư gìa. Khánh đói xin ăn. Nhà sư gìa không cho. Khánh nài nỉ: Học trò nghèo, ăn xin cửa phật cớ sao lại từ chôi. Nhà sư kia bảo: Nếu thực là học trò thì hãy làm một bài thơ Nhà sư và học trò nghèo cùng đi đò. Ðò tới bến mà làm xong, thơ hay thì có bao nhiêu oản, chuối ta tặng cả.

Lương Hữu Khánh đọc luôn:
Một hòm kinh sử níp kim cương
Ngươi, Tớ cùng sang một chuyến dương
Trong hội cồ đàm - Ngươi thoả thích
Trên ngôi đài các -Tớ nghênh ngang.
Truyện xưa, Ngươi vẫn căm Hàn Dũ(*)
Sử cũ Tớ còn giận Thuỷ Hoàng
Chốc nữa lên bờ ta tạm biệt
Ngươi thì lên Phật, Tớ lên Sang !

Hết bài thơ Ðường luật cũng là lúc đò cập bến. Cảm phục tài học của Lương Hữu Khánh, nhà sư giữ lời hưa: Ðưa cả tay nải oản, chuối cho người học trò nghèo -Trạng Nguyên Lương Hữu Khánh sau này.

(*) Hàn Dũ: Phá chùa, giết sư.
Tần Thủy Hoàng - Ðốt sách, giết trí thưc.

CÂU ÐỐI XƯA... CÂU ÐỐI NAY!

Câu đối Việt Nam là loại hình văn học đõc đáo. Những thể loại văn học khác cần có nhiều ngôn từ, điển cố để diễn tả, minh họa. Câu đối chỉ cò 2 câu, bố trí theo chiều thẳng đứng hoặc nằm ngang, nhiều lắm có thể hàng dăm ba chục từ, ít nhất dăm từ. Tuy vậy, đọc lên, người đọc người nghe vẫn cảm nhận sâu sắc ý tứ mà người ra đề, người đối - gửi gắm.

Từ khi nước Việt có Văn tự, các Nhà văn hóa, vua quan, thầy giáo, học trò - bắt đầu sáng tác câu đối. Phải đến đời vua Lê Thánh Tôn - câu đối mới trở thành món ăn tinh thần của người yêu văn chương và được phổ biến rộng rãi. Sử sách còn ghi lại nhiều câu đối của nhà vua sáng tác khi ngài trị vì. Tương tuyền, ngài thường vi hành (cải trang) đi thăm dân cư sau đó về ra các quyết sách phù hợp lòng dân.

Một năm kia - vào tối 30 tết - Ngài cải trang thành Thư sinh cùng một Thị vệ đóng vai thơ đồng đi tìm hiểu dân gian đón tết. Dân Việt có câu tục ngữ từ bao đời: Ðói ngày giỗ cha, no ba ngày tết. Dù cả năm ăn đói mặc rách, nhưng ngày tết nhà nào cũng cố sắm sửa cho con cái mình được bữa no có tấm áo lành, đẹp để mặc. Khi Ngài đến cuối một phô nhỏ, vắng - trong kinh thàng Thăng Long - thấy có một túp lều, cửa đóng im ỉm, lạnh tanh. Viên thị vệ tiến lên đánh tiếng, mãi sau mới thấy có một người đàn ông vẻ ngái ngủ ra nhấc tấm phên che. Nhà vua bắt chuyện, hỏi... người kia than phiền: ... Nghèo đến độ chỉ đủ hai bữa cơm hàng ngày, không có dư để mua sám tết. Ngạc nhiên - vì ngài thường được các quan trong triều tấu sớ rằng con dân của ngài sung túc - giờ thấy người kia nói vậy, ngài lạ lùng, hỏi: Anh làm nghề gỉ? Có chịu khó làm việc không?
- Bẩm, con làm nghề... hót phân. Hàng ngày đi từ sáng sớm đến tối mịt, chỉ hót được hai nửa thúng, đem bán cho các chủ ruộng, mua vừa đủ hai bữa gạo ăn. Nhà vua nghe xong thương cảm. Bảo người Thị vệ cho anh ta ít tiền đoạn sẵn giấy bút mang theo Ngài viết cho đôi câu đối :

Khoác một ao bào, đảm đang khó khăn thiên hạ
Vung ba thước kiếm, tận thu lòng dạ thế gian.

Khẩu khí như của một ông Nguyên Soái chuẩn bị ra trận. Nào chiến bào, nào Kiếm, nào gánh vác thiên hạ trên hai vai. Ðủ cả. Thế nhưng nhìn người hót phân cũng thây đúng các trang phục này: Áo bào chính là áo tơi khoác ngoài, che mưa nắng, rét mướt - vì cấu trúc, hình thể của chúng hoàn toàn giống y trang. Chỉ khác: một làm bằng lụa quý thêu kim tuyến, còn một làm bằng lá gồi - thứ lá cây dùng làm nón và lợp nhà dành cho dân nghèo. Trên vai gánh đôi thúng. Tay cầm chiếc cào, chiếc xẻng để hót những đống phân người, phân suc vật vương vãi trên đường làng. Vừa làm sạch đường lại vừa để bón cho lúa, hoa mầu tốt tươi.

Thời xưa, nghề hót phân là nghề mạt hạng nhất. Ðến độ, khi dậy con cái, bố mẹ, ông bà - thường đem nghề này ra ''dọa'' trẻ: ''Không chịu học hành, dốt nát, sau này lớn lên chỉ đi hót phân''. Dươi mắt của Minh Quân Lê Thánh Tôn, người làm nghề thấp hèn, bẩn thỉu nhất đã trở nên quan trọng: Còn gì vĩ đại bằng người thu phục được ''nhân tâm'' thiên hạ - Ðó là ước nguyện, hành động của các đế vương!
Tiếp theo, nhà vua đến một ngôi nhà ở phố khác.

Theo phong tục, người chủ nhà cùng đứa con lớn ra chào khach xông nhà. Gia chủ này có vẻ khá hơn người hót phân, tuy cũng không hơn nhiều vì đến giờ tất niên mà nhà ông ta vẫn còn la liệt những mảnh vải đang nhuộm dở phơi trên giây. Biết khách là học trò, ông chủ nhà xin thầy cho đôi câu đối lấy may, đoạn sai cậu con trai mang giấy, bút, phẩm mực đến.
Nhà vua quan sat, suy nghĩ đọạn viết:

Thanh hoàng ngã thủ giai thiên hạ
Triều trung chu tử tổng ngô gia.
Dịch:
Xanh vàng thiên hạ đều tay tớ
Ðỏ tía triều đình bởi cửa ta.

Ông thợ nhuộm thì trong nhà phải có phẩm mực đầy mầu sắc. Nhưng quan trong là: Dù làm nghể thấp hèn, nhưng ông đã tô điểm ngay cho cả triều đình, vua quan... khiến họ mơi trở nên danh gía!
Hai đôi câu đối này được 2 gia chủ treo ở cửa nhà đón xuân.

Thám báo của triều đình thấy khẩu khí có vẻ lộng ngôn, ngạo mạn, phạm thượng... vội về tâu trình thượng cấp trị tội. Sau khi biết rõ nguồn cơn... các quan đại thần vô cùng cảm phục minh quân của mình. Hai gia chủ kia lập tức được nhận ân xủng: Con trai ông thợ nhuộm được ngay một quan đại thần, đem con gái gả cho. Còn người hót phân thì chức sắc đia phương cấp ruộng công điền... và lộc vua ào ào đổ dến. Thiên tử đến nhà là phúc lơn không chỉ cho cá nhân mà còn là ơn mưa móc của trời đất tưới cho cả vùng.

Các thế kỷ sau, triều đại khác, câu đối càng phát triển. Ðến thời cận đại, các nhà Nho yêu nước ngoài sang tác các tác phẫm văn xuôi, thơ phú, câu đối vẫn được phát triển song song. Thời đại Cụ Nguyện Khuyến sống - là một thí dụ. Cũng học theo phong cách của vua Lê Thánh Tôn, cụ Tam Nguyên Yên Ðổ lấy ngay đề tài quanh mình sáng tác. Làng xóm có việc, cư dân trong vùng, ma chay, giổ chạp, cưới xin... đều đến xin cụ cho Câu đối, Ðại tự, Hoành phi về kính cẩn treo trong nhà, ở nơi thờ cúng trang nghiêm.

Một gia đình làm nghề thợ nhuộm, chồng chết, người vợ đến xin đôi câu đối để viếng chồng, cụ cho:
* Thiếp từ thuở lá Thắm xe duyên
Khi vận Tía, lúc cơn Ðen,
Ðiều dại điều khôn nhờ bố Ðỏ.

* Chàng chàng hỡi suối Vàng có biết :
Vợ má Hồng, con răng Trắng,
Tím gan tím ruột với trời Xanh.

Ðó chính là tòm tắt toàn bộ nghề nghiệp của ông thợ nhuộm. Chỉ bằng đôi câu đối, Cụ Tam Nguyên đã nói đến 10 mầu sắc. Nhưng đọc xong người đọc cũng chia sẻ nỗi đau với người đàn bà góa bụa và đàn con dại...
Ông Hàng Giát (Giết lợn) đến xin, cụ viết:
Tứ thời bát Tiết canh chung thủy.
Ngạn liễu đôi Bồ dục điểm trang.

Lại một đặc tính khác của người làm nghề Mổ lợn. Tiêt canh, Bồ dục- là hai bộ phận cơ thể của con lợn được dân ta chế biên thành món ăn khoái khẩu.
Người đánh dậm nghèo rớt mồng tơi thì cụ cho đôi câu đối hỗn hợp Hán - Nôm:
Nhất cận thị, nhị cận giang, thổ đîa tích tăng xương tị Ôc.
Giầu ở làng, sang ở nước, nhờ trời nay đã vểnh râu Tôm.

Ðánh Dậm- một cách đánh bắt tôm cá trên sông nước của dân nghèo, chỉ bắt được Ốc, Tôm, tép, cá lòng bong.(1)
Ðọc câu đối của hơn 500 năm sau, chúng ta thấy rõ sự kế thừa, đồng thời không thể phủ nhận tài năng của hậu bối phát triển câu đối đến đỉnh cao.

Thời kỳ Pháp sang xâm lược, giai đoạn chống Pháp, các sĩ phu trong phong trào Cần vương, các nhà Văn, nhà Thơ lớn của dân tộc, ngoài sang tác văn, thơ, phú - vẩn sang tác câu đối để gửi gắm nỗi lòng mình cho người đời...

Câu đối là một loại hình văn chương có tính đặc thù.

Người sáng tác phải nắm bắt được cái thần, cốt lõi của vấn đề rồi chọn từ, sắp xếp sao cho trên nguyên tắc ''Ðối''. Ðôi ý, đối chữ, đối từng đoạn, cả câu - nhằm lột tả được ý tưởng của tác giả và làm người đọc thây hứng thú, đồng cảm. Cứ tưởng loại hình văn học này sẽ ít đi vì người biết chữ Hán - nền tảng của việc sang tác câu đôi - đang mai một. Giới trẻ tuy có ìt người học Hán văn, cũng chưa đủ sức để phát triển loại hình văn học này. Nhưng cái chính thời hiện đại quan niệm hưởng thụ nghệ thuật đã thay đổi. Hướng theo xu thế của thời đại, Câu đối một mặt vẫn trụ vững bằng cách thu hút nhiều người tham gia sang tác, thưởng thức, đồng thời trong hoàn cảnh bức xúc : ''Tìm lối ra''. Xuân về, Tết đến, các tờ báo đều tổ chức ra đề, xướng họa.

Thật lạ lùng, luc đầu nhìều người ở độ tuổi cao tham gia, nhưng sau đó lớp trẻ cũng hăng hái dấn thân. Các sáng tác của họ lại được cả xã hội thưởng thức ghi nhận. Câu đôi của thế hệ hôm nay thể hiện bằng chữ Việt Hiện Ðại, tuyệt nhiên không mất đi bản sắc vốn có của một loại hình văn học độc đáo. Chỉ riêng phần từ ngữ phổ quát nhưng không kém phần thâm thúy, sắc nét. Nghệ thuật chơi chữ đạt đỉnh cao, đúng niêm luật của câu đôi - đã tạo ra ưu thế cho câu đối thời hiện đại, hôm nay.
Trong các đợt ra vế và đối vế này, phải kể đến vế ra của ông Tú Sót:

Bác bôi tôi không bằng tôi bôi bác.
Ðây là thủ pháp chơi chữ Quốc Ngữ thuần túy. Nắm vững nguyên tắc ''bất đảo'' của chữ Việt hiện đại, ông Tú Sót đã chọn ra được 3 từ Bác Bôi Tôi để lập ra một ý khác sau khi đảo chỉ hai chữ thành Tôi Bôi Bác. Kết qủa của việc đảo này đã cho một tập hợp từ mới mang ý nghĩa mới - có hơi hướng, thoang thoảng giống vế ra bằng hỗn hợp Hán - Nôm của nữ sĩ trứ danh Ðoàn Thị Ðiểm : Da trắng vỗ Bì bạch !

Tiếng Việt ở cả 3 miền Bắc, Trung, Nam - dùng rộng rãi Ðại từ nhân xưng Bác (Ngôi thứ hai số it hoặc thể kính trong) , Tôi (Ngôi thứ nhất số ít). Bác - nếu ở vị tri trên thang bậc của bố mẹ mình (xưng là Chắu). Bác - nếu ở vị trí ngang vai phải lứa ở tuổi trung niên tương ứng với mình (xưng là Em). Có lúc giới trẻ cũng ''Lạm dụng'' dung để xưng hô với nhau (xưng là tôi).

Bác bôi Tôi - có nghĩa là Ông, Anh, Mày (Bác) - đại từ nhân xưng ngôi thứ hai số ít làm chủ ngữ. Bôi là động từ - làm vai trò vị ngữ. Tôi là đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất số ít làm vai trò bổ ngữ trực tiếp. Ðó là một câu đơn giản hoàn chỉnh: Bác bôi (bẩn) tôi, vùi dập tôi, thoá mạ tôi!

Khi đảo vị trí hai chữ Bác - Tôi (câu đơn giản thứ 2) - cho nhau, cấu trúc văn phạm của toàn câu phức tạp không thay đổi nhưng ý nghĩa của nó đã thay đổi – Bác Bôi (bẩn) Tôi - Không thể bằng Tôi Bôi (bẩn) Bác. Ðây là lời thách đố, răn đe, cũng là lời khuyên chí tình: Ông bôi bẩn, nhục mạ tôi sẽ không thể bằng tôi nhục mạ lại ông đâu. Bởi vì Tôi là thằng mạt hang, là đất nung - nhưng lương thiện. Còn ông tự xưng là ‘‘danh gia‘‘, là ‘‘đồ sứ qúy hiếm‘‘, sạch sẽ, sang trọng từ đầu đến chân nhưng ngụy quân tử, lừa đảo - chỉ vì được dấu diếm che đậy. Tôi mà bôi (bẩn), bác mới thiệt. Bác có qúa nhiều thói xấu, tôi vạch ra, tôi ''bôi'' lên giấy, thiên hạ biết... Bác mới ''Phiền'' !. Bởi vậy bác đừng làm việc dại dột : Bôi bẩn người. gắp lửa bỏ tay người.‘‘Chân mình thì cưt rê rê . Lại đi đốt đuôc soi lê chân người‘‘. Ðó là việc làm xấu xa bỉ ổi !

Ðộng từ ''Bôi'' chỉ hành động khi người ta cầm chiếc bút, chổi, cây cọ... bôi, quyét mực, phẩm, sơn, vôi - lên một vật nào đó (bức Tranh, khung Vải hoặc bức Tượng...) - là mặt phẳng hoặc hình khối không gian. Thậm chi kể cả cách nói cường điệu của dân gian: Bôi, trát (Phân) - ‘‘ lên mặt‘‘ - đối tượng...

Ghép thêm chữ Bác vào thành Bôi Bác, lúc này tập hợp từ đã chuyển sang nghĩa khác rộng hơn: Nó chẳng những có nghĩa Ðen là ''bôi'' mà còn hàm nghĩa Bóng - Chiết tự - (Bôi bác) - thóa mạ, nhục mạ danh dự đối tượng, trên phạm vi tư tưởng, nhân cách. Vế ra, ngoài việc làm người đọc hứng thú vì nghệ thuật câu đối hoàn chỉnh, còn nói lên ý nghĩa xã hội, tính khái quát sâu rộng...
Hưởng ứng cuộc đối này có rất nhiều câu hay, xin chọn 2 câu điển hình:
Ông Tú Xuân đối lại như sau:

Nhà Vô địch cứ sợ Ðịch vô nhà.
Cũng bám theo câu của vế thách đối, vế đối của ông Tú Xuân lạị gợi ra cho người thưởng thưc suy nghĩ trước một vấn đề xã hội khác: ''Ông'' luôn nói rằng ông là Nhất - ‘‘Lăm bơ oan - Nhà vô địch‘‘. Nhưng thực ra không phải vậy. Vế đối này làm người đọc liên tưởng tới câu chuyện Tiếu lâm: Có một ông kia vốn rất sợ vợ nhưng lại hay sĩ diện trước bạn bè. Một lần thấy ông bạn hàng xóm bị vợ ’’xạc’’ vì tội khi trời mưa, ’’ngại bẩn - sợ xui ’’ - đã không cất cho vợ quần lót. Có một ông thuộc cánh hẩu khác tới chơi, ông kia đem hành động của bạn nói lại, chê trách: Thằng cha thật kém. Nếu phải vào tay mình thi...
Đúng lúc vợ từ bên ngoài vào thấy vậy, chị ta trợn mắt hỏi:
- Nếu vào tay mình thì sao?
- Thì mình... cất ngay... trước khi mưa!

Còn nhà thơ Hữu Loan thì đối lại câu này như sau:
Mày ăn Dân - hết nước - Dân ăn Mày

Nếu mới nghe qua cảm thấy vế đôi có vẻ lảng xa chủ đề. Nhưng liên tưởng tới một chi tiết sau đây sẽ thấy vế đối này hoàn chỉnh một cách diệu kỳ: Trên sân khấu Chèo, Cải lương, Tuồng cổ, chúng ta nhìn thấy 2 anh hề. Mặt mũi, trang phục động tác thật ngộ nghĩnh khiến ta vui, cười. Nhưng nghe họ ''mạn đàm thế sự'' mới thấy sướng lỗ nhĩ. Một anh than phiền bị quan trên chén ép đến ngạt thở, khó sống. Anh kia ngóac miệng cười. Họa sĩ hóa trang đã tạo hiệu qủa cho cái miệng của anh Hề rộng ra gần mang tai nên nhìn anh Hề, người xem cũng cười hết cỡ... ''thợ mộc''. Anh ta an ủi bạn: Ðừng sợ. Hôm nay cá còn sống trong nước (ao), kiên rơi xuống nước - Cá ăn kiến. Ngày mai người ta tát ao, quăng cá lên mặt đất Kiến sẽ tơi thanh toán món nợ - Kiến ăn cá!

Bạn đọc nào ở nông thôn miền Băc thì rõ: Cứ gần tết, các nhà có ao thường tát ao, bắt cá vừa ăn tết, vừa tranh thủ lấy đáy ao cấy rau Cần (vì dịp này có 3 tháng là mùa khô). Cá được bắt lên để trên mặt đất, chủ ao chuẩn bị chia cho mình và người tát thuê. Những đàn kiến các loại, đánh hơi thấy mùi tanh của Cá, thế là: Kiến đen, Kiến Lửa, Kiến đất, Kiến cánh - ‘‘Bao nhiêu Kiến gió bay ra chia phần‘‘ (2) - Họ nhà kiến kéo nhau đến - ‘‘ăn cá‘‘. Những con kiến len, rúc qua vẩy chui vào ăn thịt khiên bọn cá dẫy đành đạch rồi chết đứ đừ. Khi chết mắt chúng mờ đi, bàng bạc... Dường như trước lúc ‘‘nhắm mắt‘‘, trước lúc cặp mắt chỉ còn đùng đục thủy tinh thể - chúng cố mở to mắt nhìn nhưng đã qúa muộn. Cũng trong cuộc ‘‘Dẫy đành đạch‘‘ này ,‘‘Cá ta‘‘ dùng thân đè nat hàng đàn Kiến, hoặc l àm cho Kíên văng tứ tung... nhưng ‘‘Kiến ta‘‘ không sờn. Trong ‘‘trận cuối cùng‘‘ - Kiến đã thanh toán xong món nợ - chiến thắng!
Ðây hoàn toan là hiện thực khách quan!

Trong câu sấm truyền ''Kiến và Cá'' - danh từ ẩn nghĩa đại từ nhân xưng ngôi thứ 3 đã được đảo, thay nhau bằng đại từ nhân xưng ngôi thứ ba (Dân) và thứ hai (Mày) - Dân và Mày, đối diện trực tiếp thành cặp mà rất hay ở chỗ tác giả dùng Ðộng từ Hết nước - làm vai trò liên từ - để nối với Dân và Mày. Liên từ ''hết nước'' mang trọn vẹn hai nghĩa, mà nghĩa nào cũng khúc triết, mach lạc, lại trào lộng: Mày ăn Dân, làm Dân chết mòn, làm gì còn nước. Không còn nước - không có Quốc gia - thì dân làm gì có Nhà. Không có nhà thì đứng đường - đi ăn mày !

Nhưng vế đối buộc người nghe, người đọc phải liên tưởng, hiểu cả nghĩa khác:
Mày ăn Dân, làm Dân chết. Dân chết thì không còn nước - Cá làm sao sống, Thuyền làm sao bơi - Hết Biển hết Sông, Hồ. Không có Nước, Mày sẽ sống với ai? Ai nuôi mày. Mày cứ tưởng rằng ''ăn Dân'' là ''được'', nhưng đó là hành động tự sát. ''Hết quan toàn dân - Quan nhất thời, Dân vạn đại'' - Cái chết của Dân chính là sự ''Dân ăn lại'' - Mày đó !

Mày ăn Tao thì đến lượt Tao sẽ ăn lại Mày thôi - Ðó chu kỳ tuần hoàn của tạo hóa - là lẽ trời!
Ðó cũng là lời tuyên chiến của những con Kiến bé nhỏ cần cù nhưng đông đúc, trước những con Cá to lớn - số ít, có chút lợi thế nhưng không bền vững. Thực tế từ ngàn đời đã chứng minh: Tất cả những chính thể tàn ác, hôn quân, bạo chúa giết dân, không được lòng dân, sẽ chẳng tồn tại được lâu bền trên thế gian này. Tần Thủy Hoàng, Hitler, Polpot v.v... - là minh chứng hùng hồn (3).
Cứ Mày ăn Tao (Dân) rồi lại Tao (Dân) ăn Mày - Cá ăn Kiền rồi Kiến ăn Cá - lặp đi lặp lại. Hư hư... thực thực... người ra Vế, người đối Vế - đã chuyển tải được mục đích, ý đồ của mình và người đọc tiếp nhận một cách nồng nhiệt. Câu đối hôm nay chỉ thuần Việt Ngữ nhưng đã noi được rất nhiều...

Câu đối Việt Nam ở thời Hậu Hiện Ðại không hề bị mai một !
Berlin, Giáp Thân 1/2004

Ghi chú:
(1) - Cất vó, Vó bè, Lưới vét, Lưới bén hay đánh Ðăng... - là cách đánh bắt được cá lớn - của người có tiền để mua sắm phương tiện đánh bắt. Đánh Dậm chỉ bắt được cá nhỏ, tôm tép...
(2) - Ðám ma bác giun - Thơ Trần Ðăng Khoa
(3) - Tần Thủy Hoàng được 1 đời. Hitler và Polpot chưa được một đời...

Theo Nguyễn Xuân Quang - VCV
 

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top