Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KIẾN THỨC PHỔ THÔNG
Trung Học Cơ Sở
LỚP 9
Ngữ văn 9
Cảm nhận về truyện ngắn Làng
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="Sen Biển" data-source="post: 194717" data-attributes="member: 110786"><p><strong>Cảm nhận về truyện ngắn Làng mẫu 3</strong></p><p></p><p>Kim Lân (1920-2007), quê ở tỉnh Bắc Ninh, nhà nghèo nên chỉ học đến hết cập một rồi nghỉ, ông viết truyện ngắn từ năm 21 tuổi, với giọng văn chân chất, hiền hậu, thấm đượm tình quê hương của một người con lớn lên từ đồng ruộng. Các tác phẩm của ông không nhiều thế nhưng rất sâu sắc, đặc biệt là các <a href="https://vnkienthuc.com/threads/soan-bai-lang.89549/" target="_blank">tác phẩm viết về nông thôn Việt Nam</a> và người nông dân trước cách mạng tháng Tám. Dù rằng mảnh đất về đề tài người nông dân đã được nhiều tác giả như Ngô Tất Tố, Nam Cao, Nguyễn Công Hoan khai thác gần như triệt để thế nhưng vào tay Kim Lân nó vẫn mang những nét riêng, mới lạ và hấp dẫn. Có được điều đó là bởi Kim Lân viết văn bằng một ngòi bút tỉ mẩn, cẩn trọng và sâu lắng, ông chú tâm đến những nét đẹp, những thay đổi trong đời sống tâm hồn của nhân vật. Đặc biệt trong tác phẩm của mình, dẫu rằng ông có viết về cái nghèo khó, cái hiện thực tàn khốc của xã hội thế nhưng nó lại không phải là nội dung chính Kim Lân muốn tố cáo hay phản ánh, mà cái ông mong muốn đó là làm nổi bật được những giá trị nhân đạo thông qua tác phẩm của mình bao gồm tình cảm giữa con người với nhau, tấm lòng yêu quê hương, đất nước sâu sắc, cùng những nét đẹp tiềm ẩn trong tâm hồn người dân Việt Nam lúc bấy giờ. Làng là một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của Kim Lân làm nên tên tuổi của ông trên văn đàn Việt Nam, ở đó ta thấy được hầu hết những nét đặc biệt trong phong cách sáng tác của Kim Lân.</p><p>Làng viết năm 1948, là truyện ngắn viết về đề tài người nông dân trong giai đoạn những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Nhan đề Làng một một nhan đề có tính khái quát, chỉ chung cho nông thôn Việt Nam, gợi ra hình ảnh làng quê dân dã, với những người nông dân cần cù chân chất, khơi gợi tình yêu thương, gắn bó trong tâm hồn mỗi con người. Như nhiều truyện ngắn khác Làng cũng có cốt truyện, câu chuyện xoay quanh hai tình huống truyện độc đáo: Bắt đầu bằng việc ông Hai người làng chợ Dầu, có lòng yêu làng, yêu nước tha thiết, thế nhưng khi chạy giặc lại nghe tin làng mình theo giặc, khiến ông đau đớn và buồn bã, tình huống truyện thứ hai là khi ông Hai nghe tin cải chính, cùng với những thay đổi trong diễn biến tâm trạng. Truyện được kể với giọng văn nhẹ nhàng, bình dị, chân chất, ngôi kể thứ ba giúp người đọc nhìn nhận được vấn đề cốt truyện từ nhiều phía, khiến câu chuyện được khai thác một cách tinh tế và chặt chẽ.</p><p>Nhân vật chính của câu chuyện là ông Hai, một người nông dân chăm chỉ, cần mẫn vì chiến tranh nên phải rời khỏi ngôi làng thân yêu, nơi mà ông đã từng sinh sống suốt mấy chục năm trời. Ông yêu và gắn bó với làng tha thiết, điều ấy thể hiện qua nhiều chi tiết của truyện, ví như cảnh ông luôn nhớ về ngôi làng của mình dù lúc , và cứ nghĩa về nó là ông lại “thấy mình như trẻ ra”. Ông tự hào về những con đường “lát đá xanh, trời mưa trời gió tha hồ đi khắp đầu làng cuối xóm, bùn không dính đến gót chân” của làng, ông tự hào cả về sinh phần của một vị quan lớn trong làng, nói chung đối với ông Hai tất cả những gì thuộc về là đều đáng quý, đáng trân trọng. Kể cả sau khi đã đi tản cư ông Hai vẫn một lòng hướng về làng, ông đi khoe khắp nơi về làng của mình để vơi bớt nỗi nhớ thương, ông hào hứng kể về làng Chợ Dầu, tự hào về một ngôi làng với “những ngày khởi nghĩa dồn dập ở làng, mà ông gia nhập phong trào từ thời kỳ còn bóng tối. Những buổi tập quân sự”, tự hào về cả cái phòng thông tin to sáng nhất vùng. Bấy nhiêu đó thôi cũng đủ để thấy trong lòng ông Hai là cả một tình yêu làng vô bờ bến, cùng với tấm lòng tin tưởng vào cách mạng sâu sắc, thậm chí cái lòng tin lòng yêu ấy đã từng giữ ông ở lại để kề vai sát cánh chiến đấu cùng làng, nhưng cuối cùng ông vẫn phải dứt áo ra đi vì gia đình.</p><p>Thế nhưng éo le sao, khi ông Hai một người yêu làng, tin làng tha thiết, trung thành với cách mạng lại phải nghe một cái tin không khác gì sét đánh ngang tai rằng làng Chợ Dầu của ông theo giặc, điều đó thật tàn nhẫn khiến ông Hai vừa đau đớn, xót xa vừa xấu hổ vô cùng. Ngày nào ông cũng mong ngóng tin tức từ làng, nên khi vừa nghe tin giặc tràn vào làng, suy nghĩ đầu tiên nảy ra trong ông là chắc hẳn trận đánh này vang dội lắm, làng ông vốn có truyền thống chống giặc cơ mà, ông đã không thể kìm được mà hỏi ngay: “Thế ta giết được bao nhiêu thằng?”. Thế nhưng thật đớn đau, người đàn bà tản dường như cũng tỏ vẻ khinh khi, đỏng đảnh mà nói câu “Có giết được thằng nào đâu. Cả làng chúng nó Việt gian theo Tây còn giết gì nữa.”, thì ông lão dường như chết đứng, ông không thể tin nổi là làng Chợ Dầu của ông lại có ngày đi theo giặc, lại có ngày phản bội cách mạng và phản bội cả cái lòng tin chắc nịch của ông bấy lâu nay. Thật không còn gì đau đớn hơn lúc này, có lấy dao xẻ thịt cũng không xót xa đến thế. Với cái biệt tài miêu tả nội tâm nhân vật xuất sắc Kim Lân đã thể hiện tâm trạng của ông Hai bằng những chi tiết rất độc đáo mà dường như người đọc cũng thấy thấm thía cái tâm trạng sửng sốt, đau đớn của ông Hai lúc bấy giờ. “Cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân”, “Ông lão lặng đi, tưởng như đến không thở được”, quả thực tin tức này là cú sốc vô cùng to lớn với ông lão, ông không thể tin nổi đó là sự thật. Vì thế ông vẫn giữ chút hy vọng mong manh, cố đấm ăn xôi mà hỏi lại với chất giọng “è è” như kiểu bao nhiêu hơi sức đều dồn lại nơi cổ họng “Liệu có thật không hả bác. Hay chỉ lại…”. Có lẽ ông Hai đã tin đến 80-90% rồi nên giọng ông mới yếu ớt, ngập ngừng và lạc cả đi như thế, ông cũng sợ người đàn bà kia nói một câu nữa thôi thì tất cả những gì ông vẫn nắm chắc bấy lâu nay về làng lập tức thành bọt biển hết. Và câu khẳng định của người đàn bà dường như đã rút hết tất cả sức lực, hy vọng và tình yêu nồng nàn của ông với làng, ông xấu hổ, ông đau khổ và cảm thấy chưa lúc nào lại đắng cay đến độ này. Người đàn ông kiên cường bao năm nay đã đi hết gần nửa đời người ấy đã khóc “Nhìn lũ con, tủi thân, nước mắt ông cứ dàn ra”, nghĩ đến cảnh gia đình bị hắt hủi ông càng thấy đau đớn và tủi nhục hơn gấp trăm ngàn lần. Bởi vì quá yêu nên ông mới bị tổn thương sâu sắc, ông không thể chịu đựng nổi mà “nắm chặt hai tay rít lên: Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để giờ nhục nhã thế này”, câu chửi là tất cả những nỗi niềm tức giận, oán hận và đau khổ của ông Hai. Nỗi đau này của ông, nỗi nhục nhã này của ông chắc chỉ có mình ông hiểu được, nó giày vò làm ông khổ sở, ông không dám bước ra gặp ai, trở nên cáu bẳn, gắt gỏng với cả vợ con, ông trằn trọc không thể nào ngủ yên giấc, rồi trở nên nhạy cảm với tất cả lời bàn tán, sợ hãi việc bị đuổi đi trong nhục nhã,… Tất cả những nỗi lo, những khổ sở cứ giày vò ông lão tội nghiệp, không thể ở lại làng này nữa, hay là về làng Chợ Dầu? Ông Hai đã nghĩ vậy thế nhưng lòng yêu cách mạng, kính trọng cụ Hồ không cho phép ông làm vậy, dù có từng yêu làng đến tận xương tủy ông cũng quyết không quay về cái chốn nhục nhã ấy, bởi “về làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ cụ Hồ”. Ông kiên quyết “làng thì yêu thật. Nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”, đến đây vẻ đẹp trong nhân cách của ông Hai được bộc lộ một cách rõ ràng, ông là người rạch ròi biết phân biệt phải trái, tấm lòng trung trinh với cách mạng không đổi dời khiến người ta phải kính nể.</p><p>Cuối cùng sau bao nhiêu khổ sở, nhục nhã vì tưởng làng theo Tây thật thì cuối cùng làng cũng được minh oan, hóa ra làng ông không theo giặc, làng ông vẫn trung thành với cách mạng với cụ Hồ, làng Chợ Dầu vẫn là ngôi làng mà ông hằng yêu thương gắn bó tha thiết. Điều ấy khiến cho ông Hai phấn khởi và vui mừng khôn xiết, ông như được hồi sinh “Cái mặt buồn thỉu mọi ngày bỗng tươi vui. Mồm bỏm bẻm nhai trầu, cặp mắt hung đỏ, hấp háy,…”, ông hớn hở chia quà cho các con, lại vội đi báo tin cho bác Thứ, cho ông chủ nhà. Mà ông khoe cái gì, ông khoe “Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ. Đốt nhẵn!”, chưa từng có ai bị đốt hết nhà cửa mà lại vui và phấn chấn như ông Hai. Bởi đó là minh chứng cho việc làng ông không theo giặc, rằng nhà ông đã hy sinh cho cách mạng và ông cũng không phải là người làng Việt gian, điều đó còn gì sung sướng hơn, hạnh phúc hơn đối với ông Hai vào lúc này nữa? Ông lại tiếp tục tự hào, giọng điệu hùng hồn tuyên bố cho tất cả mọi người cùng biết: “Láo! Láo hết, chẳng có gì sất. Toàn là sai sự mục đích cả!”, để lấy lại lòng tự trọng, rửa đi nỗi nhục nhã mà ông đã phải chịu đựng suốt những ngày qua. Ông hạnh phúc vì có thể tiếp tục tự hào về ngôi làng yêu dấu, ngôi làng có truyền thống cách mạng, ông tiếp tục đi khoe về ngôi làng của mình, về những chiến tích chống giặc,…</p><p>Truyện ngắn Làng của Kim Lân đã khắc họa rõ nét hình ảnh người nông dân Việt Nam những năm tháng kháng chiến chống Pháp, với vẻ đẹp chân chất, giản dị, tấm lòng yêu làng, yêu quê hương, đất nước tha thiết, sâu nặng, chuyển biến tình cảm trong kháng chiến, cùng với sự đóng góp, hy sinh thầm lặng cho cách mạng của họ, mà như nhà thơ Trần Ninh Hồ đã viết: “Tất cả, tất cả dường như đã được ghi lại bằng những thân phận, những tâm trạng sắc sảo đến cốt, đến lõi. Nếu như cho rằng văn chương là lịch sử tâm trạng con người thì Kim Lân quả là nhà văn đích thực trên cái ý nghĩa ấy”. Bên cạnh nội dung giàu tính nhân văn thì nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật xuất sắc, văn phong sâu lắng, tỉ mẩn đã góp phần lớn làm nên thành công của tác phẩm.</p><p></p><p><strong>Sen Biển(sưu tầm)</strong></p></blockquote><p></p>
[QUOTE="Sen Biển, post: 194717, member: 110786"] [B]Cảm nhận về truyện ngắn Làng mẫu 3[/B] Kim Lân (1920-2007), quê ở tỉnh Bắc Ninh, nhà nghèo nên chỉ học đến hết cập một rồi nghỉ, ông viết truyện ngắn từ năm 21 tuổi, với giọng văn chân chất, hiền hậu, thấm đượm tình quê hương của một người con lớn lên từ đồng ruộng. Các tác phẩm của ông không nhiều thế nhưng rất sâu sắc, đặc biệt là các [URL='https://vnkienthuc.com/threads/soan-bai-lang.89549/']tác phẩm viết về nông thôn Việt Nam[/URL] và người nông dân trước cách mạng tháng Tám. Dù rằng mảnh đất về đề tài người nông dân đã được nhiều tác giả như Ngô Tất Tố, Nam Cao, Nguyễn Công Hoan khai thác gần như triệt để thế nhưng vào tay Kim Lân nó vẫn mang những nét riêng, mới lạ và hấp dẫn. Có được điều đó là bởi Kim Lân viết văn bằng một ngòi bút tỉ mẩn, cẩn trọng và sâu lắng, ông chú tâm đến những nét đẹp, những thay đổi trong đời sống tâm hồn của nhân vật. Đặc biệt trong tác phẩm của mình, dẫu rằng ông có viết về cái nghèo khó, cái hiện thực tàn khốc của xã hội thế nhưng nó lại không phải là nội dung chính Kim Lân muốn tố cáo hay phản ánh, mà cái ông mong muốn đó là làm nổi bật được những giá trị nhân đạo thông qua tác phẩm của mình bao gồm tình cảm giữa con người với nhau, tấm lòng yêu quê hương, đất nước sâu sắc, cùng những nét đẹp tiềm ẩn trong tâm hồn người dân Việt Nam lúc bấy giờ. Làng là một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của Kim Lân làm nên tên tuổi của ông trên văn đàn Việt Nam, ở đó ta thấy được hầu hết những nét đặc biệt trong phong cách sáng tác của Kim Lân. Làng viết năm 1948, là truyện ngắn viết về đề tài người nông dân trong giai đoạn những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Nhan đề Làng một một nhan đề có tính khái quát, chỉ chung cho nông thôn Việt Nam, gợi ra hình ảnh làng quê dân dã, với những người nông dân cần cù chân chất, khơi gợi tình yêu thương, gắn bó trong tâm hồn mỗi con người. Như nhiều truyện ngắn khác Làng cũng có cốt truyện, câu chuyện xoay quanh hai tình huống truyện độc đáo: Bắt đầu bằng việc ông Hai người làng chợ Dầu, có lòng yêu làng, yêu nước tha thiết, thế nhưng khi chạy giặc lại nghe tin làng mình theo giặc, khiến ông đau đớn và buồn bã, tình huống truyện thứ hai là khi ông Hai nghe tin cải chính, cùng với những thay đổi trong diễn biến tâm trạng. Truyện được kể với giọng văn nhẹ nhàng, bình dị, chân chất, ngôi kể thứ ba giúp người đọc nhìn nhận được vấn đề cốt truyện từ nhiều phía, khiến câu chuyện được khai thác một cách tinh tế và chặt chẽ. Nhân vật chính của câu chuyện là ông Hai, một người nông dân chăm chỉ, cần mẫn vì chiến tranh nên phải rời khỏi ngôi làng thân yêu, nơi mà ông đã từng sinh sống suốt mấy chục năm trời. Ông yêu và gắn bó với làng tha thiết, điều ấy thể hiện qua nhiều chi tiết của truyện, ví như cảnh ông luôn nhớ về ngôi làng của mình dù lúc , và cứ nghĩa về nó là ông lại “thấy mình như trẻ ra”. Ông tự hào về những con đường “lát đá xanh, trời mưa trời gió tha hồ đi khắp đầu làng cuối xóm, bùn không dính đến gót chân” của làng, ông tự hào cả về sinh phần của một vị quan lớn trong làng, nói chung đối với ông Hai tất cả những gì thuộc về là đều đáng quý, đáng trân trọng. Kể cả sau khi đã đi tản cư ông Hai vẫn một lòng hướng về làng, ông đi khoe khắp nơi về làng của mình để vơi bớt nỗi nhớ thương, ông hào hứng kể về làng Chợ Dầu, tự hào về một ngôi làng với “những ngày khởi nghĩa dồn dập ở làng, mà ông gia nhập phong trào từ thời kỳ còn bóng tối. Những buổi tập quân sự”, tự hào về cả cái phòng thông tin to sáng nhất vùng. Bấy nhiêu đó thôi cũng đủ để thấy trong lòng ông Hai là cả một tình yêu làng vô bờ bến, cùng với tấm lòng tin tưởng vào cách mạng sâu sắc, thậm chí cái lòng tin lòng yêu ấy đã từng giữ ông ở lại để kề vai sát cánh chiến đấu cùng làng, nhưng cuối cùng ông vẫn phải dứt áo ra đi vì gia đình. Thế nhưng éo le sao, khi ông Hai một người yêu làng, tin làng tha thiết, trung thành với cách mạng lại phải nghe một cái tin không khác gì sét đánh ngang tai rằng làng Chợ Dầu của ông theo giặc, điều đó thật tàn nhẫn khiến ông Hai vừa đau đớn, xót xa vừa xấu hổ vô cùng. Ngày nào ông cũng mong ngóng tin tức từ làng, nên khi vừa nghe tin giặc tràn vào làng, suy nghĩ đầu tiên nảy ra trong ông là chắc hẳn trận đánh này vang dội lắm, làng ông vốn có truyền thống chống giặc cơ mà, ông đã không thể kìm được mà hỏi ngay: “Thế ta giết được bao nhiêu thằng?”. Thế nhưng thật đớn đau, người đàn bà tản dường như cũng tỏ vẻ khinh khi, đỏng đảnh mà nói câu “Có giết được thằng nào đâu. Cả làng chúng nó Việt gian theo Tây còn giết gì nữa.”, thì ông lão dường như chết đứng, ông không thể tin nổi là làng Chợ Dầu của ông lại có ngày đi theo giặc, lại có ngày phản bội cách mạng và phản bội cả cái lòng tin chắc nịch của ông bấy lâu nay. Thật không còn gì đau đớn hơn lúc này, có lấy dao xẻ thịt cũng không xót xa đến thế. Với cái biệt tài miêu tả nội tâm nhân vật xuất sắc Kim Lân đã thể hiện tâm trạng của ông Hai bằng những chi tiết rất độc đáo mà dường như người đọc cũng thấy thấm thía cái tâm trạng sửng sốt, đau đớn của ông Hai lúc bấy giờ. “Cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân”, “Ông lão lặng đi, tưởng như đến không thở được”, quả thực tin tức này là cú sốc vô cùng to lớn với ông lão, ông không thể tin nổi đó là sự thật. Vì thế ông vẫn giữ chút hy vọng mong manh, cố đấm ăn xôi mà hỏi lại với chất giọng “è è” như kiểu bao nhiêu hơi sức đều dồn lại nơi cổ họng “Liệu có thật không hả bác. Hay chỉ lại…”. Có lẽ ông Hai đã tin đến 80-90% rồi nên giọng ông mới yếu ớt, ngập ngừng và lạc cả đi như thế, ông cũng sợ người đàn bà kia nói một câu nữa thôi thì tất cả những gì ông vẫn nắm chắc bấy lâu nay về làng lập tức thành bọt biển hết. Và câu khẳng định của người đàn bà dường như đã rút hết tất cả sức lực, hy vọng và tình yêu nồng nàn của ông với làng, ông xấu hổ, ông đau khổ và cảm thấy chưa lúc nào lại đắng cay đến độ này. Người đàn ông kiên cường bao năm nay đã đi hết gần nửa đời người ấy đã khóc “Nhìn lũ con, tủi thân, nước mắt ông cứ dàn ra”, nghĩ đến cảnh gia đình bị hắt hủi ông càng thấy đau đớn và tủi nhục hơn gấp trăm ngàn lần. Bởi vì quá yêu nên ông mới bị tổn thương sâu sắc, ông không thể chịu đựng nổi mà “nắm chặt hai tay rít lên: Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để giờ nhục nhã thế này”, câu chửi là tất cả những nỗi niềm tức giận, oán hận và đau khổ của ông Hai. Nỗi đau này của ông, nỗi nhục nhã này của ông chắc chỉ có mình ông hiểu được, nó giày vò làm ông khổ sở, ông không dám bước ra gặp ai, trở nên cáu bẳn, gắt gỏng với cả vợ con, ông trằn trọc không thể nào ngủ yên giấc, rồi trở nên nhạy cảm với tất cả lời bàn tán, sợ hãi việc bị đuổi đi trong nhục nhã,… Tất cả những nỗi lo, những khổ sở cứ giày vò ông lão tội nghiệp, không thể ở lại làng này nữa, hay là về làng Chợ Dầu? Ông Hai đã nghĩ vậy thế nhưng lòng yêu cách mạng, kính trọng cụ Hồ không cho phép ông làm vậy, dù có từng yêu làng đến tận xương tủy ông cũng quyết không quay về cái chốn nhục nhã ấy, bởi “về làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ cụ Hồ”. Ông kiên quyết “làng thì yêu thật. Nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”, đến đây vẻ đẹp trong nhân cách của ông Hai được bộc lộ một cách rõ ràng, ông là người rạch ròi biết phân biệt phải trái, tấm lòng trung trinh với cách mạng không đổi dời khiến người ta phải kính nể. Cuối cùng sau bao nhiêu khổ sở, nhục nhã vì tưởng làng theo Tây thật thì cuối cùng làng cũng được minh oan, hóa ra làng ông không theo giặc, làng ông vẫn trung thành với cách mạng với cụ Hồ, làng Chợ Dầu vẫn là ngôi làng mà ông hằng yêu thương gắn bó tha thiết. Điều ấy khiến cho ông Hai phấn khởi và vui mừng khôn xiết, ông như được hồi sinh “Cái mặt buồn thỉu mọi ngày bỗng tươi vui. Mồm bỏm bẻm nhai trầu, cặp mắt hung đỏ, hấp háy,…”, ông hớn hở chia quà cho các con, lại vội đi báo tin cho bác Thứ, cho ông chủ nhà. Mà ông khoe cái gì, ông khoe “Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ. Đốt nhẵn!”, chưa từng có ai bị đốt hết nhà cửa mà lại vui và phấn chấn như ông Hai. Bởi đó là minh chứng cho việc làng ông không theo giặc, rằng nhà ông đã hy sinh cho cách mạng và ông cũng không phải là người làng Việt gian, điều đó còn gì sung sướng hơn, hạnh phúc hơn đối với ông Hai vào lúc này nữa? Ông lại tiếp tục tự hào, giọng điệu hùng hồn tuyên bố cho tất cả mọi người cùng biết: “Láo! Láo hết, chẳng có gì sất. Toàn là sai sự mục đích cả!”, để lấy lại lòng tự trọng, rửa đi nỗi nhục nhã mà ông đã phải chịu đựng suốt những ngày qua. Ông hạnh phúc vì có thể tiếp tục tự hào về ngôi làng yêu dấu, ngôi làng có truyền thống cách mạng, ông tiếp tục đi khoe về ngôi làng của mình, về những chiến tích chống giặc,… Truyện ngắn Làng của Kim Lân đã khắc họa rõ nét hình ảnh người nông dân Việt Nam những năm tháng kháng chiến chống Pháp, với vẻ đẹp chân chất, giản dị, tấm lòng yêu làng, yêu quê hương, đất nước tha thiết, sâu nặng, chuyển biến tình cảm trong kháng chiến, cùng với sự đóng góp, hy sinh thầm lặng cho cách mạng của họ, mà như nhà thơ Trần Ninh Hồ đã viết: “Tất cả, tất cả dường như đã được ghi lại bằng những thân phận, những tâm trạng sắc sảo đến cốt, đến lõi. Nếu như cho rằng văn chương là lịch sử tâm trạng con người thì Kim Lân quả là nhà văn đích thực trên cái ý nghĩa ấy”. Bên cạnh nội dung giàu tính nhân văn thì nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật xuất sắc, văn phong sâu lắng, tỉ mẩn đã góp phần lớn làm nên thành công của tác phẩm. [B]Sen Biển(sưu tầm)[/B] [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KIẾN THỨC PHỔ THÔNG
Trung Học Cơ Sở
LỚP 9
Ngữ văn 9
Cảm nhận về truyện ngắn Làng
Top