Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KIẾN THỨC PHỔ THÔNG
Trung Học Phổ Thông
Ngữ văn THPT
Văn 12
Việt Bắc - Tố Hữu
Cảm nhận về khổ 10 trong bài "Việt Bắc "của Tố Hữu
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="oOoThanhHoaoOo" data-source="post: 84988" data-attributes="member: 175196"><p><strong><span style="font-size: 18px">“Kế tục xuất sắc truyền thống thơ ca dân tộc, đặc biệt là thơ ca dân gian và thơ ca cổ điển, thơ Tố Hữu đậm đà tính dân tộc cả trong nội dung và nghệ thuật biểu hiện” (SGK Văn 12 trang 152). Qua việc cảm nhận đoạn mở đầu và phần 1 của bài thơ ViệtBắc làm sáng tỏ nhận xét trên.</span></strong></p><p><span style="font-size: 18px"><strong><em>Gợi ý trả lời</em></strong></span></p><p><span style="font-size: 18px"><strong>Mở bài:</strong></span></p><p><span style="font-size: 18px">“Trách nhiệm của nhà thơ là thể hiện rõ bản sắc của dân tộc mình trước thế giới” (R.Tago). Kế tục xuất sắc truyền thống thơ ca dân tộc, nhất là thơ ca dân gian và thơ cổ điển, thơ Tố Hữu nói chung, bài thơ Việt Bắc nói riêng, đậm đà tính dân tộc trong cả nội dung và hình thức biểu hiện.</span></p><p><span style="font-size: 18px"><strong>II. Thân bài:</strong></span></p><p><span style="font-size: 18px"><strong>1. Nêu hoàn cảnh sáng tác của tác phẩm:</strong></span></p><p><span style="font-size: 18px">Là nhà thơ trữ tình chính trị, nhà thơ của lí tưởng Cộng sản, hồn thơ Tố Hữu thường rất nhạy cảm trước những vấn đề thời sự của đất nước, của dân tộc. Việt Bắc được Tố Hữu sáng tác vào tháng 10/1954, khi Trung ương Đảng, Chính phủ, Bác Hồ rời chiến khu Việt Bắc, từ biệt nhân dân Việt Bắc sau gần 15 năm gắn bó, về Hà Nội tiếp tục lãnh đạo đất nước. Bài thơ ra đời nhân một sự kiện có ý nghĩa thời sự, chính trị, cho thấy với Tố Hữu, mọi sự kiện thời sự chính trị đều có thể trở thành nguồn cảm hứng thực sự. Ý nghĩa thời sự của bài thơ có thể sẽ qua mau nhưng tình cảm thủy chung với cách mạng, gắn bó với nhân dân và chiến khu Việt Bắc, tình cảm ân tình ân nghĩa với quá khứ thì sẽ còn mãi muôn đời.</span></p><p><span style="font-size: 18px"><strong>2. Cảm nhận đoạn mở đầu và phần 1 của bài thơ Việt bắc, để làm sáng tỏ những biểu hiện của tính dân tộc trong nội dung và nghệ thuật biểu hiện của bài thơ:</strong></span></p><p><span style="font-size: 18px"><em>a. Tính dân tộc trong nội dung của bài thơ Việt Bắc:</em></span></p><p><span style="font-size: 18px">– Về nội dung biểu hiện, tính dân tộc của tác phẩm văn học bao giờ cũng được bộc lộ trước hết ở việc tác phẩm ấy đề cập tới và thể hiện rõ tính cách của dân tộc, đặc điểm linh hồn, cốt cách của dân tộc. Với bài thơ Việt Bắc, nhất là trong đoạn mở đầu và phần một, qua nhiều dòng thơ tinh tế, hồn thơ Tố Hữu đã tập trung thể hiện nhiều vẻ đẹp đặc trưng cho tâm hồn, cốt cách của dân tộc, của người Việt:</span></p><p><span style="font-size: 18px">+ Tình cảm thiết tha gắn bó với cội nguồn, với quá khứ, không bao giờ quên một thời gian khổ:</span></p><p><span style="font-size: 18px">“Mình về mình có nhớ ta….nhìn sông nhớ nguồn”, “Mình đi mình có nhớ…mái đình cây đa”, “Ta với mình, mình với ta…Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu”, “Mười lăm năm ấy ai quên…dựng nên Cộng hòa”</span></p><p><span style="font-size: 18px">+Tình cảm gắn bó, chia ngọt sẻ bùi, đồng cam cộng khổ: “Trám bùi để rụng…”, “Ta đi ta nhớ những ngày…chăn sui đắp cùng”.</span></p><p><span style="font-size: 18px">+Tinh thần lạc quan cách mạng, niềm vui sống, yêu đời: “Gian nan đời vẫn…núi đèo”, “Nghìn đêm…như ngày mai lên”.</span></p><p><span style="font-size: 18px">+Tinh thần đoàn kết đồng lòng chung sức kháng chiến: “Nhớ khi giặc đến…cả chiến khu một lòng”.</span></p><p><span style="font-size: 18px">+Niềm tự hào dân tộc, niềm hãnh diện trước sự trưởng thành mạnh mẽ của Cách mạng: “Những đường Việt Bắc …mũ nan”, trước những chiến thắng vang dội lây lan từ miền này sang miền khác: “Tin vui chiến thắng…núi Hồng”</span></p><p><span style="font-size: 18px">+Hiện thân tiêu biểu nhất, đầy đủ nhất cho tính cách Việt Nam, con người Việt Nam trong kháng chiến chính là hình ảnh Bác Hồ. Chính vì vậy hình ảnh Bác Hồ cũng như chiến khu Việt Bắc đã trở thành những chuẩn mực, những phẩm chất cao quý thiêng liêng nhất để con người ở mọi nơi hướng về noi theo: “Ở đâu u ám quân thù…nuôi chí bền”.</span></p><p><span style="font-size: 18px">– Trong nội dung biểu hiện ở đoạn đầu và phần 1 bài thơ Việt Bắc, tính dân tộc còn được thể hiện qua việc Tố Hữu đề cập tới những phương diện đặc trưng nhất trong đời sống của con người Việt Nam như đời sống sinh hoạt với “bát cơm sẻ nửa”, đời sống học tập với “lớp học i tờ”, đời sống công tác “ngày tháng cơ quan”, đời sống lao động “chày đêm nện cối đều đều suối xa”… cũng như cái dáng tảo tần, lam lũ của một người mẹ miền núi “Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô”.</span></p><p><span style="font-size: 18px">– Việt Bắc còn thể hiện thành công những bức tranh đặc trưng cho thiên nhiên dân tộc: có khi là những hình ảnh thiên nhiên thơ mộng “Trăng lên đầu núi nắng chiều lưng nương”, có khi là kỉ niệm về thiên nhiên hoa với người bên nhau qua bốn mùa độc đáo: “Rừng xanh hoa chuối…tiếng hát ân tình, thủy chung”. Nhưng đặc trưng nhất cho hình ảnh thiên nhiên đất Việt vẫn là những địa danh: “Nhớ từng rừng nứa bờ tre/ Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê… vơi đầy”. “Ta về ta nhớ Phủ Thông…Nhị Hà”. Mỗi một hình ảnh thiên nhiên ở đây như đều mang linh hồn cốt cách thiên nhiên đất Việt, đều gửi gắm một phần linh hồn của dân tộc và giúp cho bài thơ đậm đà tính dân tộc trong nội dung biểu hiện của mình.</span></p><p><span style="font-size: 18px"><em>b. Tính dân tộc trong hình thức biểu hiện của bài thơ Việt Bắc:</em></span></p><p><span style="font-size: 18px">– Việt Bắc đã kế thừa xuất sắc truyền thống thơ ca dân tộc, đặc biệt là thơ ca dân gian và thơ ca cổ điển khi sử dụng đặc biệt nhuần nhuyễn thể thơ lục bát thuần túy dân tộc. Thể thơ này vốn có truyền thống trong ca dao, dân ca của người Việt và được phát triển tới đỉnh cao nghệ thuật trong Truyện Kiều của Nguyễn Du. Âm điệu của lời thơ lục bát vốn ngọt ngào tha thiết, thân thuộc gần gũi dễ thấm sâu vào tâm hồn người Việt; lại được Tố Hữu sử dụng nhiều phép tiểu đối, nhất là ở các dòng thơ 8 chữ như “ Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng”…, tạo nên một vẻ đẹp cân đối hài hoà, nhịp nhàng uyển chuyển, vừa giản dị, mộc mạc mang âm điệu của dân ca, vừa có vẻ đẹp cổ điển bác học giống lời thơ của Nguyễn Du trong Truyện Kiều.</span></p><p><span style="font-size: 18px">– Việt Bắc cũng kế thừa và sử dụng nhuần nhuyễn hình thức đối đáp dân gian, một hình thức rất phổ biến và đặc trưng cho đời sống văn hoá tinh thần của dân tộc Việt Nam. Hình thức đối đáp dân gian giúp cho mọi câu hỏi, mọi niềm băn khoăn đều được giải đáp cặn kẽ, và tạo nên một cuộc biệt li được nhìn từ cả hai phía, nỗi lòng của cả kẻ ở lẫn người đi đều sâu nặng thắm thiết như nhau. Cái hay của Việt Bắc chính là ở chỗ tình cảm đáp lại tình cảm, kỉ niệm đáp lại kỉ niệm.</span></p><p><span style="font-size: 18px">– Tố Hữu sử dụng phổ biến và thành công những lối so sánh, các phép chuyển nghĩa và cách diễn đạt trong thơ ca dân gian đã trở nên quen thuộc với tâm hồn người Việt như “Nhớ gì như nhớ người yêu”, hay “Đêm đêm rầm rập như là đất rung”. Nhìn chung sáng tạo hình ảnh ở bài thơ Việt Bắc thiên về giá trị biểu hiện tình cảm hơn là giá trị tạo hình, thiên về cổ điển hơn là hiện đại thậm chí còn có nhiều hình ảnh ước lệ tượng trưng khá quen thuộc.</span></p><p><span style="font-size: 18px">– Lối xưng hô “mình – ta” vốn rất riêng tư và phổ biến trong ca dao dân ca đã được Tố Hữu tiếp thu, sử dụng một cách sáng tạo để chỉ kẻ ở, người đi trong một cuộc biệt li tập thể, giúp tình cảm trong bài thơ có sự thống nhất hài hòa giữa cái riêng và cái chung, vừa lớn lao cao cả, vừa sâu sắc thấm thía.</span></p><p><span style="font-size: 18px">– Chiều sâu của tính dân tộc trong thơ Tố Hữu nói chung, bài thơ Việt Bắc nói riêng là ở nhạc điệu. Lời thơ Việt Bắc đặc biệt phong phú về vần và những phối âm trầm bổng nhịp nhàng nên dễ ngâm, dễ thuộc. Nhạc điệu trong bài thơ Việt Bắc còn được tạo nên qua hàng loạt các cấu trúc trùng điệp, các phép liệt kê liên tiếp, các điệp từ “nhớ”, các lời hỏi “có nhớ”, “còn nhớ”… Đặc biệt trong nhiều đoạn thơ của Việt Bắc có sự láy đi láy lại của cái điệp khúc “Mình đi” – “mình về” nhất là ở đầu các dòng thơ sáu chữ tạo thành phép láy đầu. Trong tiếng Việt các từ “đi”, “về” thường chỉ sự vận động trái hướng nhưng ở đây lại chỉ cùng một hướng về xuôi, tuy vẫn bảo lưu được ý nghĩa trái hướng ban đầu. Sự láy lại của các từ “đi”, “về” như thế đã tạo nên cái nhịp hồi hoàn chao qua liệng lại của lời ru. Cả thế giới Việt Bắc triền miên trong nhịp ru, một nhịp ru lây lan từ miền này sang miền khác, từ kỉ niệm này sang kỉ niệm khác như ôm ấp vỗ về niềm thương nhớ khôn nguôi của con người trong cuộc biệt li.</span></p><p><span style="font-size: 18px"><strong>III. Kết bài:</strong></span></p><p><span style="font-size: 18px">Được sáng tác nhân một sự kiện có ý nghĩa thời sự chính trị, nhưng Việt Bắc vẫn là một bài thơ đậm đà tính dân tộc trong cả nội dung và hình thức, đồng thời là một đỉnh cao nghệ thuật thực sự, cho thấy “Tố Hữu đã đưa thơ chính trị lên đến trình độ là thơ rất đỗi trữ tình.” (Xuân Diệu) </span></p></blockquote><p></p>
[QUOTE="oOoThanhHoaoOo, post: 84988, member: 175196"] [B][SIZE=5]“Kế tục xuất sắc truyền thống thơ ca dân tộc, đặc biệt là thơ ca dân gian và thơ ca cổ điển, thơ Tố Hữu đậm đà tính dân tộc cả trong nội dung và nghệ thuật biểu hiện” (SGK Văn 12 trang 152). Qua việc cảm nhận đoạn mở đầu và phần 1 của bài thơ ViệtBắc làm sáng tỏ nhận xét trên.[/SIZE][/B] [SIZE=5][B][I]Gợi ý trả lời[/I][/B] [B]Mở bài:[/B] “Trách nhiệm của nhà thơ là thể hiện rõ bản sắc của dân tộc mình trước thế giới” (R.Tago). Kế tục xuất sắc truyền thống thơ ca dân tộc, nhất là thơ ca dân gian và thơ cổ điển, thơ Tố Hữu nói chung, bài thơ Việt Bắc nói riêng, đậm đà tính dân tộc trong cả nội dung và hình thức biểu hiện. [B]II. Thân bài:[/B] [B]1. Nêu hoàn cảnh sáng tác của tác phẩm:[/B] Là nhà thơ trữ tình chính trị, nhà thơ của lí tưởng Cộng sản, hồn thơ Tố Hữu thường rất nhạy cảm trước những vấn đề thời sự của đất nước, của dân tộc. Việt Bắc được Tố Hữu sáng tác vào tháng 10/1954, khi Trung ương Đảng, Chính phủ, Bác Hồ rời chiến khu Việt Bắc, từ biệt nhân dân Việt Bắc sau gần 15 năm gắn bó, về Hà Nội tiếp tục lãnh đạo đất nước. Bài thơ ra đời nhân một sự kiện có ý nghĩa thời sự, chính trị, cho thấy với Tố Hữu, mọi sự kiện thời sự chính trị đều có thể trở thành nguồn cảm hứng thực sự. Ý nghĩa thời sự của bài thơ có thể sẽ qua mau nhưng tình cảm thủy chung với cách mạng, gắn bó với nhân dân và chiến khu Việt Bắc, tình cảm ân tình ân nghĩa với quá khứ thì sẽ còn mãi muôn đời. [B]2. Cảm nhận đoạn mở đầu và phần 1 của bài thơ Việt bắc, để làm sáng tỏ những biểu hiện của tính dân tộc trong nội dung và nghệ thuật biểu hiện của bài thơ:[/B] [I]a. Tính dân tộc trong nội dung của bài thơ Việt Bắc:[/I] – Về nội dung biểu hiện, tính dân tộc của tác phẩm văn học bao giờ cũng được bộc lộ trước hết ở việc tác phẩm ấy đề cập tới và thể hiện rõ tính cách của dân tộc, đặc điểm linh hồn, cốt cách của dân tộc. Với bài thơ Việt Bắc, nhất là trong đoạn mở đầu và phần một, qua nhiều dòng thơ tinh tế, hồn thơ Tố Hữu đã tập trung thể hiện nhiều vẻ đẹp đặc trưng cho tâm hồn, cốt cách của dân tộc, của người Việt: + Tình cảm thiết tha gắn bó với cội nguồn, với quá khứ, không bao giờ quên một thời gian khổ: “Mình về mình có nhớ ta….nhìn sông nhớ nguồn”, “Mình đi mình có nhớ…mái đình cây đa”, “Ta với mình, mình với ta…Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu”, “Mười lăm năm ấy ai quên…dựng nên Cộng hòa” +Tình cảm gắn bó, chia ngọt sẻ bùi, đồng cam cộng khổ: “Trám bùi để rụng…”, “Ta đi ta nhớ những ngày…chăn sui đắp cùng”. +Tinh thần lạc quan cách mạng, niềm vui sống, yêu đời: “Gian nan đời vẫn…núi đèo”, “Nghìn đêm…như ngày mai lên”. +Tinh thần đoàn kết đồng lòng chung sức kháng chiến: “Nhớ khi giặc đến…cả chiến khu một lòng”. +Niềm tự hào dân tộc, niềm hãnh diện trước sự trưởng thành mạnh mẽ của Cách mạng: “Những đường Việt Bắc …mũ nan”, trước những chiến thắng vang dội lây lan từ miền này sang miền khác: “Tin vui chiến thắng…núi Hồng” +Hiện thân tiêu biểu nhất, đầy đủ nhất cho tính cách Việt Nam, con người Việt Nam trong kháng chiến chính là hình ảnh Bác Hồ. Chính vì vậy hình ảnh Bác Hồ cũng như chiến khu Việt Bắc đã trở thành những chuẩn mực, những phẩm chất cao quý thiêng liêng nhất để con người ở mọi nơi hướng về noi theo: “Ở đâu u ám quân thù…nuôi chí bền”. – Trong nội dung biểu hiện ở đoạn đầu và phần 1 bài thơ Việt Bắc, tính dân tộc còn được thể hiện qua việc Tố Hữu đề cập tới những phương diện đặc trưng nhất trong đời sống của con người Việt Nam như đời sống sinh hoạt với “bát cơm sẻ nửa”, đời sống học tập với “lớp học i tờ”, đời sống công tác “ngày tháng cơ quan”, đời sống lao động “chày đêm nện cối đều đều suối xa”… cũng như cái dáng tảo tần, lam lũ của một người mẹ miền núi “Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô”. – Việt Bắc còn thể hiện thành công những bức tranh đặc trưng cho thiên nhiên dân tộc: có khi là những hình ảnh thiên nhiên thơ mộng “Trăng lên đầu núi nắng chiều lưng nương”, có khi là kỉ niệm về thiên nhiên hoa với người bên nhau qua bốn mùa độc đáo: “Rừng xanh hoa chuối…tiếng hát ân tình, thủy chung”. Nhưng đặc trưng nhất cho hình ảnh thiên nhiên đất Việt vẫn là những địa danh: “Nhớ từng rừng nứa bờ tre/ Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê… vơi đầy”. “Ta về ta nhớ Phủ Thông…Nhị Hà”. Mỗi một hình ảnh thiên nhiên ở đây như đều mang linh hồn cốt cách thiên nhiên đất Việt, đều gửi gắm một phần linh hồn của dân tộc và giúp cho bài thơ đậm đà tính dân tộc trong nội dung biểu hiện của mình. [I]b. Tính dân tộc trong hình thức biểu hiện của bài thơ Việt Bắc:[/I] – Việt Bắc đã kế thừa xuất sắc truyền thống thơ ca dân tộc, đặc biệt là thơ ca dân gian và thơ ca cổ điển khi sử dụng đặc biệt nhuần nhuyễn thể thơ lục bát thuần túy dân tộc. Thể thơ này vốn có truyền thống trong ca dao, dân ca của người Việt và được phát triển tới đỉnh cao nghệ thuật trong Truyện Kiều của Nguyễn Du. Âm điệu của lời thơ lục bát vốn ngọt ngào tha thiết, thân thuộc gần gũi dễ thấm sâu vào tâm hồn người Việt; lại được Tố Hữu sử dụng nhiều phép tiểu đối, nhất là ở các dòng thơ 8 chữ như “ Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng”…, tạo nên một vẻ đẹp cân đối hài hoà, nhịp nhàng uyển chuyển, vừa giản dị, mộc mạc mang âm điệu của dân ca, vừa có vẻ đẹp cổ điển bác học giống lời thơ của Nguyễn Du trong Truyện Kiều. – Việt Bắc cũng kế thừa và sử dụng nhuần nhuyễn hình thức đối đáp dân gian, một hình thức rất phổ biến và đặc trưng cho đời sống văn hoá tinh thần của dân tộc Việt Nam. Hình thức đối đáp dân gian giúp cho mọi câu hỏi, mọi niềm băn khoăn đều được giải đáp cặn kẽ, và tạo nên một cuộc biệt li được nhìn từ cả hai phía, nỗi lòng của cả kẻ ở lẫn người đi đều sâu nặng thắm thiết như nhau. Cái hay của Việt Bắc chính là ở chỗ tình cảm đáp lại tình cảm, kỉ niệm đáp lại kỉ niệm. – Tố Hữu sử dụng phổ biến và thành công những lối so sánh, các phép chuyển nghĩa và cách diễn đạt trong thơ ca dân gian đã trở nên quen thuộc với tâm hồn người Việt như “Nhớ gì như nhớ người yêu”, hay “Đêm đêm rầm rập như là đất rung”. Nhìn chung sáng tạo hình ảnh ở bài thơ Việt Bắc thiên về giá trị biểu hiện tình cảm hơn là giá trị tạo hình, thiên về cổ điển hơn là hiện đại thậm chí còn có nhiều hình ảnh ước lệ tượng trưng khá quen thuộc. – Lối xưng hô “mình – ta” vốn rất riêng tư và phổ biến trong ca dao dân ca đã được Tố Hữu tiếp thu, sử dụng một cách sáng tạo để chỉ kẻ ở, người đi trong một cuộc biệt li tập thể, giúp tình cảm trong bài thơ có sự thống nhất hài hòa giữa cái riêng và cái chung, vừa lớn lao cao cả, vừa sâu sắc thấm thía. – Chiều sâu của tính dân tộc trong thơ Tố Hữu nói chung, bài thơ Việt Bắc nói riêng là ở nhạc điệu. Lời thơ Việt Bắc đặc biệt phong phú về vần và những phối âm trầm bổng nhịp nhàng nên dễ ngâm, dễ thuộc. Nhạc điệu trong bài thơ Việt Bắc còn được tạo nên qua hàng loạt các cấu trúc trùng điệp, các phép liệt kê liên tiếp, các điệp từ “nhớ”, các lời hỏi “có nhớ”, “còn nhớ”… Đặc biệt trong nhiều đoạn thơ của Việt Bắc có sự láy đi láy lại của cái điệp khúc “Mình đi” – “mình về” nhất là ở đầu các dòng thơ sáu chữ tạo thành phép láy đầu. Trong tiếng Việt các từ “đi”, “về” thường chỉ sự vận động trái hướng nhưng ở đây lại chỉ cùng một hướng về xuôi, tuy vẫn bảo lưu được ý nghĩa trái hướng ban đầu. Sự láy lại của các từ “đi”, “về” như thế đã tạo nên cái nhịp hồi hoàn chao qua liệng lại của lời ru. Cả thế giới Việt Bắc triền miên trong nhịp ru, một nhịp ru lây lan từ miền này sang miền khác, từ kỉ niệm này sang kỉ niệm khác như ôm ấp vỗ về niềm thương nhớ khôn nguôi của con người trong cuộc biệt li. [B]III. Kết bài:[/B] Được sáng tác nhân một sự kiện có ý nghĩa thời sự chính trị, nhưng Việt Bắc vẫn là một bài thơ đậm đà tính dân tộc trong cả nội dung và hình thức, đồng thời là một đỉnh cao nghệ thuật thực sự, cho thấy “Tố Hữu đã đưa thơ chính trị lên đến trình độ là thơ rất đỗi trữ tình.” (Xuân Diệu) [/SIZE] [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KIẾN THỨC PHỔ THÔNG
Trung Học Phổ Thông
Ngữ văn THPT
Văn 12
Việt Bắc - Tố Hữu
Cảm nhận về khổ 10 trong bài "Việt Bắc "của Tố Hữu
Top