Cảm nhận bài Mùa xuân của tôi số 7
Mùa xuân của tôi là phần đầu bài tùy bút Tháng giêng mơ về trăng non rét ngọt trong kiệt tác văn chương Thương nhớ mười hai của nhà văn Vũ Bằng. Vũ Bằng (1913 - 1984) là nhà văn, nhà báo Hà Nội, đã nổi tiếng trước năm 1945. Ông viết tác phẩm này tại Sài Gòn trong những năm tháng đất nước bị chia cắt, gửi gắm bao nỗi “sầu biệt li vơi sáng đầy chiều”: nhớ vợ con, nhớ gia đình, nhớ quê hương, nhớ miền Bắc, nhớ Hà Nội... Mỗi tháng Ông có một nỗi nhớ, nhớ triền miên, nhớ dằng dặc suốt năm.
Tháng giêng và mùaxuân Hà Nội, mùa xuân miền Bắc đối với Vũ Bằng sao nhớ thế. Nỗi nhớ ấy, nỗi buồn đẹp ấy là của khách“thiên lí tương tư”. “Ai cũng chuộng mùa xuân” và “mê luyến mùa xuân” nên càng “trìu mến” tháng giêng, tháng đầu mùa của mùa xuân. Tình cảm ấy rất chân tình “không có gì lạ hết”. Cách so sánh đôi chiếu của Vũ Bằng rất phong tình gợi cảm: “Ai bảo non đừng thương nước, bướm đừng thương hoa, trăng đừng thương gió; ai cấm được: trai thương gái, ai cấm được mẹ yêu con; ai cấm được cô gái còn son nhớ chồng thì mới hết được người mê luyến mùa xuân”. Một cách viết duyên dáng, cảm xúc cứ trào ra qua các điệp ngữ: “ai bảo được..”, “ai cấm được... ai cấm được... ai cấm được..”. Chữ “thương” được nhắc lại bốn lần, liên kết với chữ “yêu”, chữ “nhớ" đầy ấn tượng và rung động.
Là một khách tài tử yêu cảnh sắc thiên nhiên “yêu sông xanh núi tím”, rất đa tình, yêu nhan sắc giai nhân “đôi mày như trăng mới in ngần”, yêu những “mộng ước của mình”. Nhưng Vũ Bằng đã tâm sự là mình “yêu nhất mùa xuân không phải vì thế”. Câu văn như nhún nhảy: “tôi yêu... tôi yêu... và tôi cũng xây mộng... những yêu nhất”. Thoáng gợi một câu thơ Kiều của Nguyễn Du, một cách viết, tài hoa.
Mùa xuân mà Vũ Bằng thương nhớ và yêu nhất là mùa xuân miền Bắc, mùa xuân Hà Nội, nơi có gia đình và vợ con ông, mà ông đã nhiều năm tháng cách biệt. Ông nhớ cái “mưa riêu riêu”, cái “gió lành lạnh” của mùa xuân quê hương. Ông thương nhớ những âm thanh mùa xuân miền Bắc: “tiếng nhạn kêu trong đêm xanh, tiếng trống chèo vọng lại từ những thôn xóm xa xa, câu hát huê tình của cô gái đẹp như thơ mộng..”. Tình thương nhớ mùa xuân Bắc Việt của Vũ Bằng rất thiết tha nồng nàn cháy bỏng. Ta thấy tâm hồn ông trang trải khắp cảnh sắc và con người, từ xóm thôn đến bầu trời, từ lễ hội mùa xuân đến tiếng trống chèo, đến câu tình ca thôn nữ.
Càng yêu cảnh bao nhiêu, tác giả càng yêu sự sống bấy nhiêu! “Cái mùa xuân thần thánh” rất diệu kì. Vũ Bằng đã sử dụng hai so sánh để nói lên cái diệu kì ấy: “Nhựa sống ở trong người căng lên như máu căng lên trong lộc của loài nai, như mầm non của cây cối, nằm im mãi không chịu được, phải trỗi ra thành những cái lá nhỏ ti tí giơ tay vẫy những cặp uyên ương đứng cạnh".
Cùng với cảm hứng mùa xuân ấy, Vũ Bằng cho biết, trong “cái rét ngọt ngào” của mùa xuân, “tim người ta dường như cũng trẻ hơn ra, và dập mạnh hơn..!’ và “thèm khát yêu thương thực sự”, yêu đồng loại, yêu gia đình. Trong không khí gia đình đoàn tụ êm đềm giữa những ngày xuân, lòng người “ấm lạ ấm lùng", bao niềm vui sướng hạnh phúc tưởng “như có không biết bao nhiêu là hoa mới nở, bướm ra ràng mở hội liên hoan”.
San sẻ với bao thương nhớ của Vũ Bằng, ta càng thấy rõ ông yêu mùa xuân, yêu cảnh vật, yêu con người của quê hương xứ sở, lại càng yêu sống, yêu đời hơn bao giờ hết. Câu văn xuôi của Vũ Bằng rất giàu biểu cảm và chất thơ trữ tình. Chất thơ lắng dịu ngọt ngào. Ta hãy khẽ đọc và cùng nhau cảm thụ: “Đẹp quá đi, mùa xuân ơi - mùa xuân của Hà Nội thân yêu, của Bắc Việt thương mến”.
Yêu mùa xuân quê hương, nhưng tác giả “yêu mùa xuân nhất là vào khoảng sau ngày rằm tháng giêng”. Lúc ấy có biết bao xuân tứ, xuân tình. Bao cảnh sắc vương vấn. “Đào hơi phai nhưng nhụy vẫn còn phong”, cỏ thì “nức một mùi hương man mác”. Con ong siêng năng bay đi kiếm nhị hoa trên giàn thiên lí. Sau cơn mưa xuân, bầu trời xuân rất đẹp. Buổi sáng sớm thấy “những vệt xanh tươi hiện ở trên trời”. Độ tám chín giờ “trên nền trời trong trong có những làn sáng hồng hồng rung động như cánh con ve mới lột”. Cà om thịt thăn điểm lá tía tô thái nhỏ hay bát canh trứng cua vắt chanh ăn mát như quạt vào lòng, là hương vị đậm đà bữa cơm giản dị gia đình. Đã mấy ai trong chúng ta được thưởng thức như Vũ Bằng? Hương vị đậm đà ấy tưởng như được ướp hương xuân.
Mùa xuân của tôi thể hiện phong cách của Vũ Bằng: một lối viết tài hoa, câu chữ mượt mà, lời văn giàu hình ảnh, cảm xúc trong sáng đậm đà, giọng văn nhẹ nhàng, mơn man như làn gió xuân. Với Vũ Bằng, tình yêu mùa xuân, yêu thiên nhiên miền Bắc, yêu mùa xuân Hà Nội rất nồng hậu đắm say; tình yêu ấy gắn bó với bao kỉ niệm, bao nỗi nhớ vơi đầy trong tâm hồn khách xa quê.
Trong hoàn cảnh đất nước bị quân thù chia cắt, tác giả nhớ mùa xuân Hà Nội cũng là nỗi nhớ quê hương, nhớ gia đình, vợ con đã bao ngày đêm năm tháng cách biệt. Tác giả đã kín đáo gửi qua Thương nhớ mười hai một niềm tin sắt son chung thủy về cội nguồn, về ý chí thống nhất đất nước, về Bắc - Nam liền một dải, sự họp một nhà mà không thế lực nào, kẻ thù nào có thể chia cắt được.
Bài văn cảm nhận bài Mùa xuân của tôi số 8
Tình yêu mùa xuân là tình cảm thường trực trong mỗi người: “Tự nhiên như thế ai cũng chuộng mùa xuân”. Đó là quy luật bất biến, vốn có, bản năng của con người cũng như tự nhiên : “ Ai bảo non đừng thương nước, bướm đừng thương hoa, trăng đừng thương gió; ai cấm được trai thương gái, ai cấm được mẹ yêu con; ai cấm được cô gái còn son nhớ chồng thì mới hết được người mê luyến mùa xuân”….Đúng là không ai bảo được, cũng cẳng ai cấm được, vì đó là quy luật của tự nhiên mà! Vũ Bằng đã dùng kết cấu sóng đôi uyển chuyển nhịp nhàng cân đối từng cặp một…và không thể tách rời : Như non với nước, như bướm với hoa, trăng với gió, trai với gái, mẹ với con…
Tác giả gọi “mùa xuân Bắc Việt”, “ mùa xuân Hà Nội” là “mùa xuân của tôi”, cách gọi như vậy có gì đặc biệt? “Mùa xuân của tôi – mùa xuân Bắc Việt – mùa xuân Hà Nội”…Câu văn ngân nga như một tiếng reo vui và dường như nhà văn Vũ Bằng quá lạm nhận về mùa xuân. Sao lại là "mùa xuân của tôi” ? Mùa xuân là của đất trời cỏ cây hoa lá, mùa xuân là của tất cả mọi người, của tôi, của các bạn…Vậy sự lạm nhận của nhà văn là như thế nào?
Ta thấy sự lạm nhận của Vũ Bằng thật đáng trân trọng và đáng được cảm thông trong hoàn cảnh xa quê đặc biệt ! Trong nỗi nhớ Hà Nội da diết đó, tác giả đã cảm nhận được những nét đặc trưng về thời tiết, khí hậu của mùa xuân Hà Nội, mùa xuân miền Bắc. Tín hiệu mùa xuân về có mưa riêu riêu, gió lành lạnh, có tiếng nhạn kêu, tiếng trống chèo và những câu hát huê tình say đắm đẹp như thơ mộng….Đó còn là bầu không khí gia đình với nhang trầm đèn nến, với sự xum họp đầm ấm tình người càng được hâm nóng lên trong nét truyền thống văn hóa của người Việt Nam.
Tác giả không chỉ dừng ở ngoại cảnh mà tập trung thể hiện nổi bật sức sống mùa xuân trong thiên nhiên và lòng người. Mùa xuân đem lại sức sống kì diệu cho thiên nhiên và con người, làm thay đổi mắt nhìn, óc nghĩ, là niềm đau đáu, say mê. Đó chính là tình yêu quê hương nồng nàn, đằm thắm, da diết nhớ thương của Vũ Bằng. Đoạn văn nổi bật nhất chính là những hình ảnh so sánh đặc sắc: “ Nhựa sống ở trong người căng lên như máu căng lên trong lộc của loài nai….” Hay “ cùng với mùa xuân trở lại, tim người ta dường như cũng trẻ hơn ra”, “ đập mạnh hơn” và “ thèm khát yêu thương thực sự”. Không khí mùa xuân còn “ ấm lạ ấm lùng” trong mỗi gia đình.
Giọng văn trữ tình da diết như nhân lên trong người đọc cái sức sống bất tận của mùa xuân. Ngỡ như trước mùa xuân, ông hóa thân thành muôn loại cỏ cây muông thú để được tắm mình trong mùa xuân, được hưởng tất cả sức sống tràn trề của mùa xuân, để lớn lên, trẻ lại cùng mùa xuân. “ Đẹp quá đi ! Mùa xuân của hà Nội thân yêu, của Bắc Việt thương mến. Nhưng tôi yêu nhất là vào khoảng sau ngày rằm tháng giêng”. Vũ Bằng thật đặc biệt ! Có mấy ai lưu luyến mùa xuân và nhận ra vẻ đẹp của mùa xuân vào thời gian sau ngày rằm ? Đây mới là lúc mà Vũ Bằng cảm nhận được sự hồi sinh của đất trời cây cỏ. Đó là mùi hương man mác của cỏ, là sự thay đổi của “ nền trời trong trong có làn sáng hồng hồng…”
Một sự cảm nhận thật tinh tế, ít ai nhận thấy ! Và điều làm ta thán phục hơn nữa chính là sự trân trọng về cuộc sống của con người . Hết sức bình dị, giản đơn của bữa cơm thường nhật là cà om với thịt thăn, là bát canh cua trứng vắt chanh…Vậy mà nhà văn đã tìm thấy chính cái đẹp trong cái mà tưởng như bình thường vẫn diễn ra hàng ngày đó!
Phải là người hiểu tường tận về thiên nhiên, nặng tình với thiên nhiên, trân trọng sự sống, biết tận hưởng cái đẹp của cuộc sống và rất yêu Hà Nội mới có được cảm xúc dâng trào như vậy. Thiên nhiên sau ngày rằm tháng giêng như đang bình tĩnh, đang tích tụ, chưng cất sức sống mùa xuân để tiếp nối cuộc tuần hoàn kì diệu trong đời sống con người và đất trời cây cỏ.
Ngòi bút của Vũ Bằng như cũng lắng lại, trầm tĩnh hơn. Lòng yêu quê hương mỗi lúc một da diết, đằm sâu, thấm thía hơn. Bài văn khi dạy xong sao trong tôi vẫn đau đáu nỗi niềm nhớ quê hương da diết của tác giả Vũ Bằng ! Trong bài văn cũng nhiều người cho rằng đó còn ẩn chứa niềm mong mỏi Bắc Nam xum họp một nhà ! Liệu đó có phải trong suy nghĩ của nhà văn xa quê ? Đọc nhiều lần, dạy nhiều lần càng thấy sao mà có con người tài hoa đến thế, bài văn giống như một bài thơ vậy. Từng câu từng chữ ta như muốn uống lấy, rồi nhâm nhi cho thỏa thích, khi dạy thật tôi không muốn bỏ đi từ nào, câu nào. Như vậy có lẽ mình tham quá rồi chăng?
Bài văn Cảm nhận bài Mùa xuân của tôi số 9
Nhắc đến mùa xuân, con người ta thường hay nhắc đến sự đâm chồi, này lộc, mùa của sức sống, của sắc xuân. Chính bởi vậy mà khi viết về mùa xuân, nhiều nhà văn, nhà thơ hãy dành cho mùa xuân những nét yêu kiều, tươi mới nhưng lại căng tràn nhựa xuân. Phải chăng như vậy mà khi mùa xuân đến, nàng tiên mùa xuân như đang đặt những bước chân đầu tiên xuống mặt đất khiến cho hoa cỏ như bừng tỉnh, cảnh vật đua nhau khoe sắc. Cũng chính bởi sức cuốn hút của mùa xuân mà đến nhà văn Vũ Bằng cũng phải viết nên những tâm tư, tình cảm của mình để gửi gắm đến mùa xuân.
Bài tùy bút “mùa xuân của tôi” được trích từ thiên tùy bút “Tháng Giêng mơ về trăng non rét ngọt in” trong tập Thương nhớ mười hai của tác giả Vũ Bằng. Tác phẩm được sáng tác trong những năm tháng kháng chiến oai hùng của dân tộc ta, khi mà đất nước ta vẫn đang bị chia cắt, tác giả phải sống trong vùng địch kiểm soát, bởi vậy mà tác giả phải xa đất Bắc, xa nơi chon rau cắt rồn của mình. Nỗi như quê hương, nhớ gia đình và lòng mong mỏi đến một cuộc sống hòa bình, ấm no hạnh phúc, đã được tác giả gửi gắm vào những vần thơ. Và niềm hy vọng ấy của tác giả càng được nung nấu khi trong những tháng mùa xuân đầy hy vọng này.
Mở đầu tác phẩm, tác giả không nói ngay lên nỗi nhớ trong lòng mình mà tác giả dẫn người đọc vào bài một cách tự nhiên, không hề gò bó: “Tự nhiên như thế: ai cũng chuộng mùa xuân. Mà tháng giêng là tháng đầu của mùa xuân, người ta càng trìu mến, không có gì lạ hết. Ai bảo được non đừng thương nước, bướm đừng thương hoa, trăng đừng thương gió; ai cấm được trai thương gái, ai cấm được mẹ yêu con; ai cấm được cô gái còn son nhớ chồng thì mới hết được người mê luyến mùa xuân.”
Câu mở đầu của tác giả hết sức tự nhiên, tác giả đã sử dụng từ “ai” để nhấn mạnh. Như một câu hỏi tu từ, ai có thể ngăn cấm được những điều tự nhiên đến như vây: “Ai bảo được non đừng thương nước; ; ai cấm được trai thương gái;…” nhưng điều bình dị ấy thì ai có thê ngăn cấm. Giặc Mỹ sao? Không, giặc Mỹ chỉ có thể cùm trói được thể xác ta, nhưng làm sao chúng có thể trói buộc được tâm hồn ta? Và đó cũng là những nỗi tâm tình mà tác giả muốn gửi gắm. Nhà văn nhớ về đất Bắc, nhớ những cảnh sinh hoạt đời thường, nhớ những nét đặc trưng của con người Bắc: “Mùa xuân của tôi – mùa xuân Bắc Việt, mùa xuân của Hà Nội – là mùa xuân có mưa riêu riêu, gió lành lạnh, có tiếng nhạn kêu trong đêm xanh, có tiếng trống chèo vọng lại từ những thôn xóm xa xa, có câu hát huê tình của cồ gái đẹp như thơ mộng…”
Giọng văn của tác giả nhẹ nhàng mà sao lại dào dạt đến vậy? Bằng một cách vô hình nào đó, tác giả đã đưa chúng ta quay về với những hồi ức đẹp để có thể quên đi những điều thực tại. Trong bài văn, nhà thơ luôn nhấn mạnh mùa xuân của tôi, mùa xuân của tác giả, mùa xuân đang rực cháy trong lòng của một con người xa xứ Bắc. Ấy thế mà mùa xuân ấy thật lạ lung, mùa xuân như đã khắc sâu vào trong tâm hồn của tác giả một nét khác biệt, một nét văn không thể giống với bất kỳ nơi nào: “: Ấy đấy, cái mùa xuân thần thánh của tôi nó làm cho người ta muốn phát điên lên như thế đấy. Ngồi yên không chịu được. Nhựa sống ở trong người cứ căng lên như máu căng lên trong lộc của loài nai, như mầm non của cây cối, nằm im mãi không chịu được, phải trồi ra thành những cái lá nhỏ li ti giơ tay vẫy những cặp uyên ương đứng cạnh.”
Mùa xuân như làm con người ta thêm trẻ ra, càng căng tràn sức sống hơn, tim ta cùng đập nhanh và rộn rã hơn. Mùa xuân bao phủ cả đất trời, khiến ta nhìn ai cũng thấy yêu, thấy quý. Mùa xuân đâu chỉ phủ xuống đường phố, mùa xuân len lỏi vào từng ngóc ngách, mùa xuân đến với từng ngôi nhà nhỏ bé của mỗi chúng ta. Để rồi, trên bàn thơ ngày Tết, có đủ sắc xuân và trong ngôi nhà nhỏ bé ấy lại là tình cảm anh em, ông bà, bố mẹ sum vầy. Nhắc đến mùa xuân, tác giả đã sử dụng một giọng văn vừa sục sôi, vừa da diết, lắng đọng, vừa suy tư.
Đến bây giờ, nhà văn lại nhắc đến đất trời vào xuân, đó là sắc đào hơi phai nhưng vẫn căng tràn nhựa sống, đó là những ngọn cỏ mướt xanh mang một mùi hương man mác. Những con chữ dường như thấm đẫm vào trong lòng người đọc, khiến cho người đọc cảm nhận như mùa xuân đang bao quanh mình, như được đắm chìm trong khung cảnh của tác giả, ấy vậy mà tác giả lại viết tiếp: “Thường thường, vào khoảng đó trời đã hết nồm, mưa xuân bắt đầu thay thế cho mưa phùn, không còn làm cho nền trời đùng đục như màu pha lê mờ. Sáng dậy, nằm dài nhìn ra cửa sổ thấy những vệt xanh tươi hiện ở trên trời, mình cảm thấy rạo rực một niềm vui sáng sủa. Trên giàn hoa lý, vài con ong siêng năng đã bay đi kiếm nhị hoa. Chỉ độ tám chín giờ sáng, trên nền trời trong trong có những làn sóng hồng hồng rung động như cánh con ve mới lột.”
Bài văn kép lại với sự lưu luyến của tác giả, qua đó ta không chỉ cảm nhận được, tác giả không những là người hiểu rõ về mùa xuân đất Bắc mà còn biết trân trọng và nâng niu từng khoảng khắc mà mùa xuân đã đem lại cho con người.
Bài văn Cảm nhận bài Mùa xuân của tôi số 10
Mùa xuân luôn là nguồn cảm hứng bất tận đối với các nhà văn nhà thơ, và Vũ Bằng cũng không phải là ngoại lệ. Nhắc đến mùa xuân, chúng ta nhớ đến tiết trời tươi mát, vạn vật đâm chồi, căng tràn sức sống. Là tết đến, đào mai khoe sắc, là hạnh phúc xum vầy. Nên trong một dịp tết xa quê tác giả đã viết nên bài “ Mùa xuân của tôi” để nói lên những kỷ niệm với mùa xuân Hà Nôi.
Bài văn được ra đời khi tác giả phải sống trong cảnh đất nước bị chia lìa. Đau đớn thay tác giả lại sống giữa vùng bị Mỹ – Ngụy chiếm đóng. Giữ sự kìm kẹp của thực dân xâm lăng dường như tình yêu của tác giả với quê hương càng cháy bỏng. Vũ Bằng đã dùng những trang văn để nói lên hết những tình yêu, nỗi nhớ thương của mình về mùa xuân Hà Nội – quê hương của ông.Sâu lắng và ngọt ngào chính là cảm nhận đầu tiên khi chúng ta đọc những trang tùy bút của Vũ Bằng về mùa xuân. Mùa xuân trong trí nhớ của tác giả chính là sự giao thoa của trời và đất.
Là sự bắt đầu của vạn vật sau một mùa đông dài lạnh lẽo. Là cột mốc đánh dấu thời gian khi bước sang năm mới. Là sự hòa quyện của cảnh vật thiên nhiên và con người. Bằng lối viết nhẹ nhàng, sâu lắng tác giả đã đưa người đọc về với những mùa xuân bình yên, tươi đẹp, căng tràn nhựa sống. Từng câu từng chữ trong bài chính là tình yêu của Vũ Bằng dành cho mùa xuân đất Bắc.
Nỗi nhớ đầu tiên của tác giả về mùa xuân đất Bắc chính là thời tiết và khí xuân với “mưa rêu rêu gió lành lạnh”. Đây chính là nét đặc trưng mà không nơi nào có được, và cũng chính trên nền khí xuân này tác giả lần lượt vẽ nên nỗi nhớ của mình. Đó là những thanh âm của mùa xuân vẫy gọi, tiếng chim nhạn kêu, văng vẳng đâu xa câu hát huê tình cùng mùi thơm thoang thoảng ấm áp của nhang trầm, không khí gia đình ấm áp đã làm tác giả thổn thức trong tim. Sự bình dị, yên bình sao giờ đây là nóng bỏng và da diết đến thế.
Mùa xuân không chỉ mang đến cho thiên nhiên vẻ đẹp lạ kỳ mà còn khiến lòng người thao thức không yên “Ngồi yên không chịu được. Nhựa sống trong người căng lên như máu”. Vậy là cái nhựa sống tràn đầy của mùa xuân đã đánh thức bản năng của con người, thôi thúc người ta phải thức tỉnh sau những ngày đông giá rét. Mùa xuân đã thắp lên những ngọn lửa trong tim “tim người ta dường như cũng trẻ hơn ra, và đập mạnh hơn những ngày đông giá”.
Nếu mùa xuân trong thơ của Xuân Diệu “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần” đầy hối hả, gợi cảm thì mùa xuân của Vũ Bằng lại trầm lắng và da diết làm sao nó khiến cho người đọc lâng lâng, mê đắm.
Bằng giọng văn trầm bổng, mềm mại du dương đầy chất thơ Vũ Bằng đã đưa độc giả cảm nhận trọn vẹn mùa xuân đất Bắc. Qua đây, ta cũng cảm nhận được tình yêu quê hương đất nước của một tâm hồn tinh tế, nhạy cảm.
Hi vọng bài viết trên giúp các em làm tốt bài cảm nhận bài Mùa xuân của tôi. Chúc các em học tốt và vận dụng sáng tạo kiến thức để bài văn đạt kết quả cao. Đừng quên ghé thăm và ủng hộ vnkienthuc.com các em nhé! Mỗi nút like , chia sẻ của các em trở thành động lực để Sen Biển đăng bài. Thân ái chài tạm biệt và hẹn gặp lại các em.