- Xu
- 458
Cảm nghĩ về đoạn văn Vào Trịnh Phủ trích Thượng Kinh kí sự của Lê Hữu Trác.
Bài làm
Lê Hữu Trác (1720 – 1791) hiệu là Hải Thượng Lãn Ông, một đại danh y Đại Việt. Ngoài những trước tác về y học trong bộ “ Y tông tâm lĩnh” gồm 66 quyển, ông còn để lại nhiều thơ văn, trong đó có tác phẩm độc đáo “ Thượng Kinh kí sự”. Thơ văn của Lãn Ông nhẹ nhàng,hóm hỉnh, giàu tính hiện thực, phản ánh một cách cao đẹp : coi thường công danh phú quý, yêu thiên nhiên, yêu quý đồng loại, thích cuộc sống thanh nhàn.
“Thượng Kinh kí sự” ghi lại hành trình của ông lên Kinh đô Thăng Long chữa bệnh cho Thế tử Trịnh Cán. Đoạn văn “Vào Trịnh Phủ” trích trong cuốn kí sự ấy rất giàu giá trị hiện thực và cho thấy một ngòi bút đậm đà, tài hoa.
Lần đầu, Lê Hữu Trác được vào Trịnh Phủ. Ông ngắm nghía và quan sát rất kĩ càng. Cửa sau vào phủ Chúa phải đi qua con đường bên trái, ông ngẩng đầu lên nhìn một khung cảnh tuyệt đẹp “đâu đâu cũng là cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm,gió đung đưa thoang thoảng mùi hương”.
Nơi cung cấm, hành lang “quanh co nối nhau liên tiếp”, người giữ cửa, vệ sĩ canh giữ nghiêm ngặt, ai muốn vào ra phải có thẻ, người có việc quan qua lại như mắc cửi, “truyền báo rộn ràng”.
Quan sát cảnh cung cấm, Lê Hữu Trác ngẫm nghĩ : “Bước chân đến đây mới hay các cảnh giàu sang của vua chúa thực khác người thường”. RỒi ông làm thơ nói lên sự ngạc nhiên, xúc động của mình tựa như “ngư phủ Đào nguyên thuở nào”:
Cả trời Nam sang nhất là đây!
Lầu từng gác vẽ tung mây,
Rèn châu, hiên ngọc, bóng mai ánh vào.
Hoa cung thoảng ngạt ngào đưa tới,
Vườn ngự nghe vẹt nói đòi phen…
Ông thầy thuốc trên đường đi khám bệnh, mang tâm hồn thi sĩ, tả cảnh, vịnh thơ, ta tưởng như ông đang đi thăm thú cảnh đẹp . Cách viết kí sự của Lê Hữu Trác hấp dẫn ta vì thế!
Trong Trịnh phủ, cung điện nguy nga tráng lệ. Mỗi lâu đài, cung điện có một cái tên riêng. Là “Điếm Hậu mã quân túc trực” làm bên một cái hồ, cột và bao lơn “ lượn vòng , kiểu cách thật là xinh đẹp”, phía ngoài có những cây “lạ lùng”, có những hòn đá “kì lạ”. Nhà “Đại Đường” còn gọi là “Quyển Hồng”. Là cái lầu cao và rộng, “cột đều sơn son thiếp vàng” gọi là “Gác Tía”, nơi Thế tử dùng “chè”, nên gọi là “Phòng chè”.
Lê Hữu Trác có phần choáng ngợp sợ hãi “chỉ dám liếc mắt nhìn rồi lại cúi đầu đi”. Cảnh đẹp nơi Trịnh Phủ, từ vườn hoa đến hồ, từ lầu son đến gác tía là công trình văn hóa nghệ thuật do tài trí công sức của nhân dân làm nên, vì thế Lê Hữu Trác đã xúc động ngắm nghía. Cảnh đẹp nơi Trịnh phủ được miêu tả còn mang ý nghĩa thực phản ánh cuộc sống xa hoa của bọn vua chúa thời Lê – Trịnh, cảnh giàu sang “khác hẳn người thường”.
Phương tiện của vua chúa đi lại là hai cái kiệu; đồ nghi trương đều sơn son thiếp vàng. Thứ để ngồi và nằm là một cái sập thiếp vàng, trên sập mắc một cái võng điều đỏ. Xung quan cái sập bày bàn ghế vô cùng quý giá, sang trọng làm cho ông thầy thuốc phải tấm tắc và cảm thấy “những đồ đạc nhân gian chưa từng thấy”.
Thế tử - con bận – là con Trời, mới lên 5,6 tuổi mặc áo lụa đỏ, ngồi trên cái sập thiếp vàng. Bên cạnh sập đặt một cái ghế rồng sơn son thiếp vàng, trên ghế bày nệm gấm. Lê Hữu Trác phải đi qua năm, sáu lần trướng mới đến được nơi Thế tử ngồi để “ lạy bốn lạy” trước và sau khi khám bệnh. Nơi nội cung, đèn sáp chiếu sáng ,sau chiếc màn là cung nhân đững xúm xít “mặt phấn, màu áo đỏ”. Cả một không gian “lấp lánh, hương hoa ngào ngạt”. Thật đúng “cả trời Nam sang nhất là đây!”.
Vua chúa và bọn quan lại trong phủ Chúa ăn uống như thế nào ? Tại điếm “Hậu Mã”, lần đầu tiên và cũng là lần duy nhất trong cuộc đời, vị danh y được ăn một bữa cơm ngon nhớ mãi. Tuy chỉ được quan Chánh đường “ san mâm cơm cho ăn” nhưng “mâm vàng ,chén bạc,đồ ăn toàn là của ngon vật lạ”. Ông thầy thuốc mà danh tiếng “như sấm động” đã suy nghĩ và nói : “tôi bấy giờ mới biết cái phong vị của nhà đại gia”.
Chốn đế cung gấm là nơi “ lính nghìn của vác đòng nghiêm ngặt”. Lê Hữu Trác chỉ mới được đặt chân tới một vài cung điện, mới được tiếp xúc một vài cảnh, một số ít người, nhưng ông đã nêu bật được cuộc sống xa hoa, hưởng lạc của vua chúa thời Lê – Trịnh. Cuộc sống đế vương được xây dựng trên mồ hôi xương máu của nhân dân, mọi món ngon của lạ do người lao động cả nước làm ra bị tước đoạt cho một số ít người hưởng thụ. “Cơm ngự thiện bữa nghìn quan” xưa nay đều thế! Tác giả “Thượng Kinh kí sự” có một lối viết rất hiện thực và ấn tượng , mọi chi tiết được ông nói đến rất sống động.
Lê Hữu Trác vốn dòng dõi thế tộc thời Lê sinh trưởng ở chốn phồn hoa, trong cấm thành chỗ nào cũng đã từng biết, nhưng Trịnh phủ thì “ ông mới nghe nói thôi”, lần đầu đi vào ông choáng ngợp như bước vào cảnh tiên:
Quê mùa cung cấm chưa quen,
Khác gì ngư phủ Đào nguyên thuở nào!
Coi thường danh lợi, ông đã vào tận Hương Sơn, Hà Tĩnh sinh sống, chuyên tâm nghề y, chữa bệnh cứu người làm lẽ sống. Vì có tài, tiếng tăm như sấm động nên có thánh chỉ triệu vào cung chữa bệnh cho Thế tử. Ông viết một cách hóm hỉnh về cái bả công danh : “Cáng chạy như ngựa lồng, tôi bị xóc một mẻ, khổ không nói hết!”. Nửa thế kỉ sau, Cao Bá Quát chua chát viết : “Ơn vua kèm theo sấm sét!”.
Tiếp xúc với cảnh và người nơi Trịnh phủ, Lê Hữu Trác có lúc mất tự nhiên, có lúc sợ sệt, hoặc “ cúi đầu đi”, hoặc “liếc mắt nhìn”. Lúc xem mạch thì “khúm núm” phải hai lần vái lạy một đứa bé độ 5,6 tuổi , mỗi lần bốn lạy!
Lúc kê đơn là một cuộc tự vấn đấu tranh tư tưởng diễn ra vô cùng sâu sắc xung quanh vấn đề danh lợi, y đức và chữ nhàn. Ông nghĩ : “Nếu mình làm có kết quả ngay thì sẽ bị danh lợi nó ràng buộc, không làm sao về núi được”. Về núi để được sống tự do, thảnh thơi, chan hòa với thiên nhiên. “Lưng khuôn uốn, lộc nên từ” là thế!
Lương tâm bậc danh y lại nhắc nhở ông “phải dốc hết cả cái lòng thành, để nối tiếp cái lòng trung của cha ông mình mới được”.Cái lòng thành mà ông nói đến là lương y từ mẫu, là y đức coi việc chữa bệnh cứu người là lẽ sống cao đẹp. Vì thế, mặc dù quan Chánh đường có gợi ý nên dùng những vị thuốc “phát tán mới xong”, mặc dù có năm, sáu vị lương y của sáu cung hai viện đang ngày đêm chầu chực xung quanh con bệnh, nhưng Lê Hữu Trác vẫn có chủ kiến riêng, lập luận riêng của mình:
“Tôi thấy thánh thể gầy, mạch lại tế sắc. Thế là âm dương đều bị tổn hại, nay phải dùng thật bổ để bồi dưỡng tì và thận, cốt giữ cái căn bản tiên thiên và làm nguồn gốc cho cái hậu thiên…”.
Qua đó, ta thấy tài năng và đức độ của Lê Hữu Trác, một đại danh y coi thường danh lợi, sống thanh bạch, thích nhàn, lấy việc trị bệnh cứu người, đặt lên trên hết, lên trước hết. Biệt hiệu “Lãn Ông thật giàu ý nghĩa: ông già lười, lười làm quan và biếng danh lợi.
Đoạn văn “Vào Trịnh phủ” thật hay và thú vị, ta cảm thấy mình được tác giả dẫn đi xem cung điện Thăng Long thời Lê Trịnh. Đoạn văn cũng như tác phẩm “Thượng Kinh kí sự” vừa có giá trị văn chương vừa có giá trị lịch sử.
Đoạn văn rất giàu tính hiện thực, nó đã phản ánh chân thực cảnh vàng son nơi Trịnh phủ và cuộc sống cực kì xa hoa, phú quý của vua chúa, quan lại thời Lê – Trịnh.
Cách viết của Lãn Ông rất đặc sắc hấp dẫn. Vừa tả, vừa kể, vừa lồng ý nghĩ cảm xúc, rất chân thực, hóm hỉnh. Ngôn ngữ văn chương, ngôn ngữ đời thường, ngôn ngữ cung đình, ngôn ngữ chuyên môn về y học được tác giả sử dụng rất sáng tạo, biến hóa.
“Vào Trịnh phủ” , đoạn kí sự giàu chất thơ đã phản chiếu một tâm hồn đẹp, một nhân cách cao quý.
Theo 100 bài văn hay lớp 9*
Bài làm
Lê Hữu Trác (1720 – 1791) hiệu là Hải Thượng Lãn Ông, một đại danh y Đại Việt. Ngoài những trước tác về y học trong bộ “ Y tông tâm lĩnh” gồm 66 quyển, ông còn để lại nhiều thơ văn, trong đó có tác phẩm độc đáo “ Thượng Kinh kí sự”. Thơ văn của Lãn Ông nhẹ nhàng,hóm hỉnh, giàu tính hiện thực, phản ánh một cách cao đẹp : coi thường công danh phú quý, yêu thiên nhiên, yêu quý đồng loại, thích cuộc sống thanh nhàn.
“Thượng Kinh kí sự” ghi lại hành trình của ông lên Kinh đô Thăng Long chữa bệnh cho Thế tử Trịnh Cán. Đoạn văn “Vào Trịnh Phủ” trích trong cuốn kí sự ấy rất giàu giá trị hiện thực và cho thấy một ngòi bút đậm đà, tài hoa.
Lần đầu, Lê Hữu Trác được vào Trịnh Phủ. Ông ngắm nghía và quan sát rất kĩ càng. Cửa sau vào phủ Chúa phải đi qua con đường bên trái, ông ngẩng đầu lên nhìn một khung cảnh tuyệt đẹp “đâu đâu cũng là cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm,gió đung đưa thoang thoảng mùi hương”.
Nơi cung cấm, hành lang “quanh co nối nhau liên tiếp”, người giữ cửa, vệ sĩ canh giữ nghiêm ngặt, ai muốn vào ra phải có thẻ, người có việc quan qua lại như mắc cửi, “truyền báo rộn ràng”.
Quan sát cảnh cung cấm, Lê Hữu Trác ngẫm nghĩ : “Bước chân đến đây mới hay các cảnh giàu sang của vua chúa thực khác người thường”. RỒi ông làm thơ nói lên sự ngạc nhiên, xúc động của mình tựa như “ngư phủ Đào nguyên thuở nào”:
Cả trời Nam sang nhất là đây!
Lầu từng gác vẽ tung mây,
Rèn châu, hiên ngọc, bóng mai ánh vào.
Hoa cung thoảng ngạt ngào đưa tới,
Vườn ngự nghe vẹt nói đòi phen…
Ông thầy thuốc trên đường đi khám bệnh, mang tâm hồn thi sĩ, tả cảnh, vịnh thơ, ta tưởng như ông đang đi thăm thú cảnh đẹp . Cách viết kí sự của Lê Hữu Trác hấp dẫn ta vì thế!
Trong Trịnh phủ, cung điện nguy nga tráng lệ. Mỗi lâu đài, cung điện có một cái tên riêng. Là “Điếm Hậu mã quân túc trực” làm bên một cái hồ, cột và bao lơn “ lượn vòng , kiểu cách thật là xinh đẹp”, phía ngoài có những cây “lạ lùng”, có những hòn đá “kì lạ”. Nhà “Đại Đường” còn gọi là “Quyển Hồng”. Là cái lầu cao và rộng, “cột đều sơn son thiếp vàng” gọi là “Gác Tía”, nơi Thế tử dùng “chè”, nên gọi là “Phòng chè”.
Lê Hữu Trác có phần choáng ngợp sợ hãi “chỉ dám liếc mắt nhìn rồi lại cúi đầu đi”. Cảnh đẹp nơi Trịnh Phủ, từ vườn hoa đến hồ, từ lầu son đến gác tía là công trình văn hóa nghệ thuật do tài trí công sức của nhân dân làm nên, vì thế Lê Hữu Trác đã xúc động ngắm nghía. Cảnh đẹp nơi Trịnh phủ được miêu tả còn mang ý nghĩa thực phản ánh cuộc sống xa hoa của bọn vua chúa thời Lê – Trịnh, cảnh giàu sang “khác hẳn người thường”.
Phương tiện của vua chúa đi lại là hai cái kiệu; đồ nghi trương đều sơn son thiếp vàng. Thứ để ngồi và nằm là một cái sập thiếp vàng, trên sập mắc một cái võng điều đỏ. Xung quan cái sập bày bàn ghế vô cùng quý giá, sang trọng làm cho ông thầy thuốc phải tấm tắc và cảm thấy “những đồ đạc nhân gian chưa từng thấy”.
Thế tử - con bận – là con Trời, mới lên 5,6 tuổi mặc áo lụa đỏ, ngồi trên cái sập thiếp vàng. Bên cạnh sập đặt một cái ghế rồng sơn son thiếp vàng, trên ghế bày nệm gấm. Lê Hữu Trác phải đi qua năm, sáu lần trướng mới đến được nơi Thế tử ngồi để “ lạy bốn lạy” trước và sau khi khám bệnh. Nơi nội cung, đèn sáp chiếu sáng ,sau chiếc màn là cung nhân đững xúm xít “mặt phấn, màu áo đỏ”. Cả một không gian “lấp lánh, hương hoa ngào ngạt”. Thật đúng “cả trời Nam sang nhất là đây!”.
Vua chúa và bọn quan lại trong phủ Chúa ăn uống như thế nào ? Tại điếm “Hậu Mã”, lần đầu tiên và cũng là lần duy nhất trong cuộc đời, vị danh y được ăn một bữa cơm ngon nhớ mãi. Tuy chỉ được quan Chánh đường “ san mâm cơm cho ăn” nhưng “mâm vàng ,chén bạc,đồ ăn toàn là của ngon vật lạ”. Ông thầy thuốc mà danh tiếng “như sấm động” đã suy nghĩ và nói : “tôi bấy giờ mới biết cái phong vị của nhà đại gia”.
Chốn đế cung gấm là nơi “ lính nghìn của vác đòng nghiêm ngặt”. Lê Hữu Trác chỉ mới được đặt chân tới một vài cung điện, mới được tiếp xúc một vài cảnh, một số ít người, nhưng ông đã nêu bật được cuộc sống xa hoa, hưởng lạc của vua chúa thời Lê – Trịnh. Cuộc sống đế vương được xây dựng trên mồ hôi xương máu của nhân dân, mọi món ngon của lạ do người lao động cả nước làm ra bị tước đoạt cho một số ít người hưởng thụ. “Cơm ngự thiện bữa nghìn quan” xưa nay đều thế! Tác giả “Thượng Kinh kí sự” có một lối viết rất hiện thực và ấn tượng , mọi chi tiết được ông nói đến rất sống động.
Lê Hữu Trác vốn dòng dõi thế tộc thời Lê sinh trưởng ở chốn phồn hoa, trong cấm thành chỗ nào cũng đã từng biết, nhưng Trịnh phủ thì “ ông mới nghe nói thôi”, lần đầu đi vào ông choáng ngợp như bước vào cảnh tiên:
Quê mùa cung cấm chưa quen,
Khác gì ngư phủ Đào nguyên thuở nào!
Coi thường danh lợi, ông đã vào tận Hương Sơn, Hà Tĩnh sinh sống, chuyên tâm nghề y, chữa bệnh cứu người làm lẽ sống. Vì có tài, tiếng tăm như sấm động nên có thánh chỉ triệu vào cung chữa bệnh cho Thế tử. Ông viết một cách hóm hỉnh về cái bả công danh : “Cáng chạy như ngựa lồng, tôi bị xóc một mẻ, khổ không nói hết!”. Nửa thế kỉ sau, Cao Bá Quát chua chát viết : “Ơn vua kèm theo sấm sét!”.
Tiếp xúc với cảnh và người nơi Trịnh phủ, Lê Hữu Trác có lúc mất tự nhiên, có lúc sợ sệt, hoặc “ cúi đầu đi”, hoặc “liếc mắt nhìn”. Lúc xem mạch thì “khúm núm” phải hai lần vái lạy một đứa bé độ 5,6 tuổi , mỗi lần bốn lạy!
Lúc kê đơn là một cuộc tự vấn đấu tranh tư tưởng diễn ra vô cùng sâu sắc xung quanh vấn đề danh lợi, y đức và chữ nhàn. Ông nghĩ : “Nếu mình làm có kết quả ngay thì sẽ bị danh lợi nó ràng buộc, không làm sao về núi được”. Về núi để được sống tự do, thảnh thơi, chan hòa với thiên nhiên. “Lưng khuôn uốn, lộc nên từ” là thế!
Lương tâm bậc danh y lại nhắc nhở ông “phải dốc hết cả cái lòng thành, để nối tiếp cái lòng trung của cha ông mình mới được”.Cái lòng thành mà ông nói đến là lương y từ mẫu, là y đức coi việc chữa bệnh cứu người là lẽ sống cao đẹp. Vì thế, mặc dù quan Chánh đường có gợi ý nên dùng những vị thuốc “phát tán mới xong”, mặc dù có năm, sáu vị lương y của sáu cung hai viện đang ngày đêm chầu chực xung quanh con bệnh, nhưng Lê Hữu Trác vẫn có chủ kiến riêng, lập luận riêng của mình:
“Tôi thấy thánh thể gầy, mạch lại tế sắc. Thế là âm dương đều bị tổn hại, nay phải dùng thật bổ để bồi dưỡng tì và thận, cốt giữ cái căn bản tiên thiên và làm nguồn gốc cho cái hậu thiên…”.
Qua đó, ta thấy tài năng và đức độ của Lê Hữu Trác, một đại danh y coi thường danh lợi, sống thanh bạch, thích nhàn, lấy việc trị bệnh cứu người, đặt lên trên hết, lên trước hết. Biệt hiệu “Lãn Ông thật giàu ý nghĩa: ông già lười, lười làm quan và biếng danh lợi.
Đoạn văn “Vào Trịnh phủ” thật hay và thú vị, ta cảm thấy mình được tác giả dẫn đi xem cung điện Thăng Long thời Lê Trịnh. Đoạn văn cũng như tác phẩm “Thượng Kinh kí sự” vừa có giá trị văn chương vừa có giá trị lịch sử.
Đoạn văn rất giàu tính hiện thực, nó đã phản ánh chân thực cảnh vàng son nơi Trịnh phủ và cuộc sống cực kì xa hoa, phú quý của vua chúa, quan lại thời Lê – Trịnh.
Cách viết của Lãn Ông rất đặc sắc hấp dẫn. Vừa tả, vừa kể, vừa lồng ý nghĩ cảm xúc, rất chân thực, hóm hỉnh. Ngôn ngữ văn chương, ngôn ngữ đời thường, ngôn ngữ cung đình, ngôn ngữ chuyên môn về y học được tác giả sử dụng rất sáng tạo, biến hóa.
“Vào Trịnh phủ” , đoạn kí sự giàu chất thơ đã phản chiếu một tâm hồn đẹp, một nhân cách cao quý.
Theo 100 bài văn hay lớp 9*
Sửa lần cuối bởi điều hành viên: