Cảm nghĩ về nhân vật Vũ Nương trong “Chuyện người con gái Nam Xương

ngan trang

New member
Cảm nghĩ về nhân vật Vũ Nương trong “Chuyện người con gái Nam Xương"


Trong văn học Việt Nam đã có không ít tác phẩm mang tên gọi truyền kỳ hoặc có tính chất truyền kỳ song được tôn vinh là “ thiên cổ kỳ bút” thì cho đến nay chỉ có một “Truyền kỳ mạn lục” của Nguyễn Dữ .“Chuyện người con gái Nam Xương” được rút trong tập những câu chuyện kỳ lạ đó .Nhân vật chính của tác phẩm là Vũ Nương đã để lại trong lòng người đọc niềm cảm thương sâu sắc.


Tác phẩm là tiếng nói đồng cảm,trân trọng,ngợi ca của tác giả đối với con người đặc biệt là người phụ nữ.Toàn bộ câu chuyện xoay quanh cuộc đời và số phận bi thảm của người con gái xinh đẹp,*** na tên là Vũ Thị Thiết quê ở Nam Xương.Phải nói rằng Nguyễn Dữ không có ý định cho Vũ Nương mang đức tính của một phụ nữ yêu nước hay một mỹ nhân nơi gác tía lầu son .Vũ Nương là người phụ nữ bình dân vốn con kẻ khó có một khát khao bao trùm cả cuộc đời-Đó là thú vui nghi gia nghi thất.Nàng mang đầy đủ vẻ đẹp của một người phụ nữ lý tưởng “tính đã thuỳ mỵ *** na lại thêm có tư dung tốt đẹp ”.Càng đi sâu vào câu chuyện ta càng thấy vẻ đẹp của nàng được tác giả tập trung thể hiện rõ nét.Trong những ngày đoàn viên ít ỏi,dù Trương Sinh con nhà hào phú tính vốn đa nghi, đối với vợ thường phòng ngừa quá sức nhưng nàng khéo léo cư xử, giữ gìn khuân phép nên gia đình không khi nào phải thất hoà.Khi tiễn chồng đi lính,mong ước lớn nhất của nàng không phải là công danh phú quí mà là khao khát ngày chồng về “mang theo hai chữ bình yên thế là đủ rồi”.Những ngày chồng đi xa, nàng thực sự là một người mẹ hiền,dâu thảo,chăm sóc thuốc thang tận tình khi mẹ chồng đau yếu,ma chay tế lễ chu tất khi mẹ chồng qua đời.Nguyễn Dữ đã đặt những lời ca ngợi đẹp đẽ nhất về Vũ Nương vào miệng của chính mẹ chồng nàng khiến nó trở nên vô cùng ý nghĩa “sau này trời xét lòng lành ban cho phúc đức ,giống dòng tươi tốt con cháu đông đàn,xanh kia quyết chẳng phụ con cũng như con đã chẳng phụ mẹ”.Người thiếu phụ tận tuỵ ,hiếu nghiã ấy còn là một người vợ thuỷ chung đối với chồng .Trong suốt ba năm chồng đi chinh chiến,người thiếu phụ trẻ trung xinh đẹp đó một lòng một dạ chờ chồng,nuôi con:“cách biệt ba năm giữ gìn một tiết,tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng ,ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót”.Dưới ngòi bút của Nguyễn Dữ,Vũ Nương được mọi người yêu mến bằng tính tình,phẩm hạnh của nàng.Trong cái nhìn nâng niu trân trọng của ông,Vũ Nương là con người của gia đình,đức hạnh của nàng là đức hạnh của một người vợ hiền,dâu thảo,một người yêu mến cuộc sống gia đình và làm mọi việc để giữ gìn,vun vén cho hạnh phúc.

Người phụ nữ dịu dàng ,hiếu nghĩa ,tận tuỵ và chung tình đó đáng ra phải được đền bù xứng đáng bằng một gia đình êm ấm, phúc lộc đề huề.Nhưng tai ác thay ,một ngày kia chồng nàng đi chinh chiến trở về,nghe lời con trẻ đinh ninh là vợ hư,mắng nhiếc,đánh đập và đuổi nàng đi bất chấp sự can ngăn của xóm giềng và lời than rớm máu của người vợ trẻ.Không có cơ hội để thanh minh,trái tim tan nát,tuyệt vọng bởi “bình rơi,trâm gãy,mây tạnh,mưa tan,sen rũ trong ao,liễu tàn trước gió ”.Đến bến Hoàng Giang,người thiếu phụ đau khổ nguyền rằng:“Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu chồng con rẫy bỏ,điều đâu bay buộc tiếng chịu nhuốc nhơ,thần sông có linh xin ngài chứng giám,thiếp nếu đoan trang giữ tiết,trinh bạch gìn lòng,xuống nước xin làm ngọc Mỵ Nương,vào đất xin làm cỏ *** Mĩ…” Với nàng ,cái chết là hành động quyết liệt cuối cùng cần phải có để bảo toàn danh dự .Nhịp văn dồn dập ,lời văn thống thiết như cực tả nỗi niềm đồng cảm,xót thương của tác giả đối với người thiếu phụ chung tình mà bạc mệnh! Thương nàng ông sáng tạo ra một thế giới thần tiên êm đềm trong chốn làng mây cung nước để Vũ Nương được sống như một nàng tiên .Phải chăng đó cũng chính là dụng ý của tác giả:người tốt sẽ được được đền bù xứng đáng, ở hiền ắt sẽ gặp lành?

Điều gì đã khiến người phụ nữ đẹp người,đẹp *** đó phải tìm đến cái chết bi thảm?Đó chính là do chiến tranh phong kiến phi nghĩa đã làm cho gia đình phải li tán. Đó còn là lễ giáo phong kiến hà khắc với tư tưởng nam quyền độc đoán đã biến Trương Sinh thành một bạo chúa gia đình… Để ngàn đời trên bến Hoàng Giang, khắc khoải niềm thương và nỗi ám ảnh dai dẳng về một người thiếu phụ trẻ trung,xinh đẹp , hiếu nghĩa, chung tình mà bạc mệnh !

Câu chuyện về nàng Vũ Nương khép lại nhưng dư âm về sự bất bình, căm ghét xã hội phong kiến bất lương, vô nhân đạo thì còn mãi.Có lẽ vì thế mà em càng yêu mến, trân trọng xã hội tốt đẹp mà em đang sống hôm nay.
giangvien

 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:
Đề bài: Suy nghĩ của em về nhân vật Vũ Nương.

Gợi ý

a. Mở bài:

- Giới thiệu về tác phẩm: là tác phẩm tiêu biểu trong truyền kỳ…đã đề cập tới người phụ nữ phong kiến.

- Giới thiệu về Vũ Nương là nhân vật chính trong tác phẩm, một phụ nữa đẹp người đẹp nết nhưng phải chết oan nghiệt để minh oan cho mình.

b.
Thân bài:

- Chân dụng của Vũ Nương:

+ Vũ Nương quê ở Nam Xương, thùy mị , nết na, xinh đẹp.

+ Cuộc đời của Vũ Nương thật là ngắn ngủi nhưng nàng đã làm trọn bổn phận của người phụ nữ. Biết giữ gìn khuôn phép vì vậy cuộc sống gia đình trong ấm ngoài êm. Trương Sinh đi lính, nàng phải gánh bao vất vả, phải sinh nở và nuôi con một mình, chăm sóc mẹ già khi ốm đau, khi mẹ mất lo toan như lo cho mẹ mình. Nàng đã làm tròn bổn phận làm dâu, làm vợ, làm mẹ.

+ Vũ Nương cũng giống như bao nhiêu người chinh phụ khác, lúc nào nàng cũng mong ước người chồng trở về đoàn tụ. Khát vọng hạnh phúc ấy thật là bình thường giản dị. Người chinh phụ trong tác phẩm Chinh phụ ngâm luôn khao khát chồng đi lính sẽ được phong tước, phong hầu, để rồi một ngày kia “võng anh đi trước, võng nàng theo sau”. Còn Vũ Nương, chẳng ham công danh, võng lọng, chỉ mong ngày về mang hai chữ “bình yên”. Vũ Nương xem trọng hạnh phúc gia đình, coi đó là tất cả của cuộc đời mình.

- Cái chết của Vũ Nương:

+ Trương Sinh trở về, ước mong của Vũ Nương sắp trở thành hiện thực nhưng không ngờ lại có một cuộc chia ly vĩnh viễn.

+ Trương Sinh bế con, nó không theo, chàng dỗ con. Không ngờ thằng bé ngây thơ lại nói : thế ra ông cũng là cha tôi ư? Cha tôi chỉ nín thin thít…Trương sinh gặng hỏi con, thì đã được bé Đản nói rõ ràng: cha nó ngày nào cũng đến, mẹ nó đi cha nó cũng đi theo. Vốn tính cả ghen, Trương Sinh cho rằng có người đàn ông thứ hai xen vào gia đình mình.

+ Nghi ngờ này sẽ được giải tỏa nếu Trương Sinh cho biết câu nói của con. Truong Sinh không làm như vậy. Cái thói ghen tuông thô lỗ ăn sâu vào tâm trí, khiến cho Trương Sinh mất đi lý trí, thiếu tỉnh táo đã mắng nhiếc Vũ Nương thậm tệ rồi đánh đuổi nàng đi. Trương Sinh bất chấp những lời thanh minh, van xin tha của Vũ Nương, khiến nàng chỉ có một con đường lấy cái chết để giải bày lòng mình.

+ Từ đây ta nhận thấy nguyên nhân cái chết của Vũ Nương còn do: chiến tranh ly tán, vợ phải xa chồng nên tạo nên mối ngờ vực, xã hội phong kiến trọng nam khinh nữ.

+ Cái chết của Vũ Nương đã chứng minh rằng: hạnh phúc lứa đôi chỉ có thể được xây dựng trên cơ sở tình yêu thương chân chính, có sự cảm thông và chia sẻ.

c.
Kết bài:

- Nhân vật Vũ Nương tiêu biểu cho hình ảnh người phụ nữ chịu nhiều bất hạnh trong chế độ cũ.

- Nguyễn Dữ đã đồng cảm trước nỗi đau và ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của họ. Chuyện người con gái Nam Xương là minh chứng cho trái tim giàu tình yêu thương của Nguyễn Dữ và làm người đọc xúc động.
 
SUY NGHĨ S​AU KHI ĐỌC XONG TRUYỆN NGƯỜI CON GÁI NAM XƯƠNG


Với loại “thiên cổ kỳ bút” như truyện Người con gái Nam xương trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ, dù đã được phân tích đánh giá nhiều nhưng thiết nghĩ vẫn có điều cần nói thêm. Bởi ở đây ngoài lớp giá trị lộ thiên, chỉ khéo khơi khơi một tí đã thấy, còn có lớp giá trị nằm sâu phía trong mà muốn khai thác thì bên cạnh cái mà mọi người quen nói là cảm thụ văn chương còn phải có thêm sự hỗ trợ của năng lực tư duy triết học và tư duy trừu tượng khoa học, trừ trường hợp với ai đó đã mở rộng nội hàm khái niệm năng lực cảm thụ văn chương để bao gồm cả hai điều vừa được nêu lên đó.

Năng lực tư duy triết học sẽ cho phép đi sâu thêm, phát hiện thêm những vấn đề phức tạp nhất, sâu sắc nhất, kể cả sự bí hiểm trong cuộc sống con người mà cách cảm thụ văn chương thường gặp, đặc biệt là phương pháp xã hội học giản đơn, dung tục ít nhiều đều bất lực, bất cập. Năng lực tư duy trừu tượng khoa học cho phép nhìn nhận sự vật, ở đây là tác phẩm văn chương, không chỉ ở cấp độ bộ phận, chi tiết mà quan trọng hơn là ở mối quan hệ nội tại, trừu tượng giữa các chi tiết trong một cơ chế nghệ thuật có tính nhất thể, nhận ra vị trí của từng bộ phận từng chi tiết, đâu là chi tiết chủ công, đâu là chi tiết phu trợ.

Chi tiết chủ công là chi tiết có khả năng sản sinh trữ lượng tư tưởng thẩm mỹ lớn nhất cho tác phẩm, không có nó thì giá trị của tác phẩm sẽ khác đi thấp đi rõ rệt. Trong khi với các chi tiết phụ trợ, có thay đi cũng chẳng ảnh hưởng gì đáng kể. Những điều vừa nêu trên là có thể ứng dụng vào việc khám phá bất cứ tác phẩm văn chương nào, nhất là với những tác phẩm kiệt xuất. Ơ đây thử ứng dụng để nói thêm về chuyện Người con gái Nam Xương.

Trong truyện Người con gái Nam Xương, hình tượng trung tâm là Vũ nương đã đươc xây dựng với tính cách một phụ nữ đẹp người đặc biệt là đẹp nết nhưng lại phải chịu một nỗi oan khiên tày trời. Nàng là hiện thân khổ đau của người phụ nữ trong xã hội xưa. Nói thế hoàn toàn không sai nhưng chưa đủ để phân biệt giá trị cuả truyện Người con gái Nam Xương với các tác phẩm khác cùng nói về phẩm chất tốt đẹp và nỗi khổ của người phụ nữ ở thời đó. Muốn thấy cái độc đáo và cũng là cao siêu cuả truyện Người con gái Nam xương, phải nói thêm điều này. Đó là cái mong manh vô cùng mong manh, mong manh tới độ với tư duy thông thường, trên thế gian này, chẳng ai có thể nghĩ tới. Nhưng đó là sự thật. Sự thật quá ư khắc nghiệt đối với hạnh phúc của đàn bà, chẳng riêng gì ở Việt nam thời phong kiến, mà còn là với nữ giới muôn nơi muôn thuở. Cứ đọc kỹ truyện Người con gái Nam xương thì thấy rõ. Có đúng là sự tan nát hạnh phúc của Vũ nương đã bắt đầu từ cái bóng của chính Vũ nương không? Chồng đi chiến trận, “Ngày thường ở một mình, nàng hay đùa con, trỏ bóng mình mà bảo là cha Đản”. Cái bóng là gì vậy? Nếu không phải là một biểu tượng của sự đồng nhất mình với chồng. Kim Kiều yêu nhau.

Nguyễn Du đã có một cách nói đến mức sơn cùng thuỷ tận về chữ đồng trong tình yêu: “Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương” . Nguyễn Dữ trước Nguyễn Du trong truyện Người con gái Nam xương lấy cái bóng của Vũ nương để nói là cha Đản tức là chồng mình kể cũng là một cách nói sơn cùng thuỷ tận về chữ đồng trong đạo vợ chồng. Vậy mà có ai ngờ rằng đời Vũ nương tan nát bắt đầu từ đấy. Từ cái bóng kia. Tan nát đến mức thánh thần, trời phật cũng chỉ có thể an ủi bù đắp chút ít chứ không cứu lại được. Rồi nữa,tham gia vào việc phá nát hạnh phúc của Vũ nương là ai? Trời ơi! lại không ai khác mà chính là đứa con nàng đứt ruột đẻ ra. Nó ngây thơ, trong trắng. Nó hoàn toàn vô tội. Nhưng thực tế khách quan, nó là tác nhân trực tiếp gây ra sự đổ nát hạnh phúc cuộc đời của mẹ nó.

Có đáng sợ, có khủng khiếp không cho cái gọi là sự ma quái trong cuộc sống con người ở cõi đời. Trong Truyện Kiều, nàng Kiều bị tan nát hạnh phúc, chịu hết nạn nọ đến nạn kia là bởi có thằng bán tơ vu oan, có viên quan quen nghề ăn hối lộ, có Mã giám sinh, Sở khanh, Tú bà chuyên nghề kiếm ăn ở miền nguyệt hoa, có Hoạn bà, Hoạn thư ỷ thế danh gia độc ác, có Hồ tôn Hiến nổi tiếng lật lọng...tóm lại là có nguyên nhân xã hội cụ thể, có những kẻ gian ác sờ sờ trước mắt mọi người, để người ta nếu chưa đủ sức chống lại thì tìm cách né tránh, lánh xa nó. Đàng này, Vũ nương làm sao mà né tranh được những tác nhân phá hoại đời mình một khi nó nằm ngay trong cái bóng của mình, nằm ngay trong cảnh mình đùa vui vui con, nằm ngay trong khi mình đang bày tỏ sự gắn bó keo sơn với chồng nơi xa cách, nằm ngay trong một câu nói hồn nhiên vô tư của đứa con ngây thơ trong trắng của mình.

Tôi muốn nói thế này được chăng: ở phương diện thể hiện nguyên nhân đau khổ của người phụ nữ, truyện Người con gái Nam xương có ý nghĩa triết học sâu sắc hơn, cao hơn Truyện Kiều, bởi nó đã chạm vào sự ma quái có thực trong sự sống vốn là nghiệt ngã của con người muôn nơi muôn thuở. Không ít người đã cho rằng sự tan nát hạnh phúc của Vũ nương là do chế độ nam nữ bất bình đẳng. Nói thế nghe qua tưởng có lý. Nhưng nghĩ kỹ thì thấy về cơ bản không hẳn là thế. Bởi như chính tác phẩm đã để lộ, nguyên nhân quan trọng và trực tiếp làm tan nát đời Vũ nương cùng với chuyện cái bóng của Vũ nương, lời nói hồn nhiên vô tư của đứa con, là cái “tính đa nghi”, “hay ghen” của anh chồng Trương sinh. Mà cái tính hay ghen là gì vậy? Là một hiện tượng tâm lý có liên quan đến sinh lý, đến giới tính thuộc phạm vi tính người mà tạo hoá đã phát riêng cho nhân loại. Nó rất ít liên quan tới vấn đề hình thái xã hội, chế độ chính trị, kể cả dân tộc và thời đại lịch sử. Nó chỉ trừ riêng cho những người mất trí hoăc giả với đó ai nhưng là rất hiếm có trạng thái tâm lý không bình thường hoặc có triết lý sống quá siêu việt.

Trước phiên toà công lý trong Truyện Kiều, Hoạn Thư chẳng đã nói đúng cái qui luật muôn đời này sao: “Ghen tuông thì cũng người ta thường tình”. “Người ta” đây hẳn là có cả nam lẫn nữ. Cứ giả thiết ở một xã hội nào đó, quyền nam nữ bình đẳng đã đươc thực hiện trăm phần trăm thì đã có thể tin rằng con người không còn cái máu ghen “thường tình” này nữa sao?. Phải nói rõ điều đó để hiểu được vấn đề triết học nhân sinh vô cùng sâu sắc mà Nguyễn Dữ đã nêu lên trong tác phẩm, dù tự giác hay tự phát, có ý thức hay vô tình. Phải hiểu rõ điều đó cũng là để hiểu đúng nguồn gốc tội lỗi của Trương sinh trong việc đẩy vợ vào chỗ chết. Đúng là không ai không oán giận Trương sinh nhưng từ đó mà qui về chế độ nam nữ bất bình đẳng thì về cơ bản là chưa đúng ý tác phẩm. Nếu thế, cũng khó cắt nghĩa đúng hiện tượng Trương sinh đã “động lòng thương tìm vớt thây nàng” ngay cả khi còn “giận là nàng thất tiết”, cũng khó cắt nghĩa đúng sự “tỉnh ngộ thấu nỗi oan của vợ” về sau, khi lại chính từ cái bóng của chàng và cũng qua câu nói của đứa con ngây thơ, trong trắng mà hiểu ra mình đã lầm to để gây tội ác với vợ.

Xin nói lại cái tội tày trời của Trương sinh, xét nguyên nhân không gì khác là cái tội của một anh chồng có “tính đa nghi”, “hay ghen”, muốn tránh cũng không tránh được, mà tạo hoá đã trớ trêu ban cho anh ta cũng như bao chàng trai cô gái khác trên thế gian này từ cổ chí kim, từ đông sang tây, cùng một lúc ban cho họ hạnh phúc tình yêu, tình vợ chồng. Để từ đó, văn chương có chuyện mà nói, mà sáng tạo, mà có Đexđêmôna của nước Anh bị bóp cổ chết, Vũ nương của Việt nam phải tự vận...nhưng lại nổi tiếng với muôn đời. Đó đây lại còn có ý kiến cho rằng Vũ nương tan nát hạnh phúc là vì chiến tranh. Xin nói ngay: ý kiến này là hoàn toàn sai, là vô hình trung đã coi truyện Người con gái Nam xương cũng như Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn, trong khi hai tác phẩm có hai nội dung hai chủ đề khác nhau mặc dù đều phản ánh nỗi khổ của phụ nữ.

Cần thấy rằng chi tiết Trương sinh đi chiến trận, chẳng có vai trò quyết định gì trong nội dung câu chuyện đánh ghen đến mức đẩy vợ đến cái chết này. Giả sử anh ta không ra trận mà đi học xa về, đi buôn xa về, gặp con, con không nhận lại cứ nói cha là một người đàn ông “đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cùng đi, mẹ Đản ngồi cùng ngồi, nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả” (đúng là một người ngoại tình với mẹ chứ còn ai nữa) thì chuyện gì đã xảy ra trong tác phẩm, chắc chắn lại xẩy ra thôi. Ở trên đã có nói, với chi tiết phụ, nếu có thay đi cũng chẳng ảnh hưởng gì đáng kể đến nội dung tác phẩm là như thế.

Rõ ràng câu chuỵện Người con gái Nam xương đã cho người đọc thấy thế nào là cái mong manh vô cùng mong manh của hạnh phúc đàn bà muôn nơi muôn thuở. Cho nên những chàng trai cô gái đang yêu nhau, những cặp vợ chồng dù đã chỉ non thề biển, đã kết tóc xe tơ với nhau trên cõi thế gian nà vẫn cứ phải coi chừng, phải cảnh giác. Coi chừng, cảnh giác về nhiều thứ nhưng xin đừng quên coi chừng cảnh giác với cái máu ghen.

Hãy nhớ rằng, chỉ nhỡ ra một chút thôi ví như ở đây là nghe con mà không hỏi lại vợ xem sao, thì đã đủ tan nát cả cuộc đời, đã đủ để hạnh phúc trong chốc lát trở thành mây khói, muốn cứu vãn cũng chẳng cứu vãn được nữa đâu.

Nguyễn Dữ từ sự cảm nhận, phát hiện được cái qui luật khắc nghiệt ma quái đó trong cuộc sống của người phụ nữ mà sáng tạo nên một cốt truyện bao gồm một hệ thống chi tiết trong đó có chi tiết chủ công ăm ắp trữ lượng tư tưởng nghệ thuật thông qua một bút pháp vừa thực vừa ảo, vừa hiện thực vừa lãng mạn. Và cuối cùng để lại cho văn học dân tộc một thiên tình sử bi thảm làm nhức nhói trái tim người đọc bao đời nay, cho lịch sử văn học Việt nam một áng “thiên cổ kỳ bút”, cho riêng thể loại truyện ngắn Việt nam một truyện ngắn vừa là đột khởi vừa là đỉnh cao vợi vợi trong muôn đời./.
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:

VnKienthuc lúc này

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top