Cảm nghĩ về hình ảnh người chiến sĩ lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duậ

  • Thread starter Thread starter Butchi
  • Ngày gửi Ngày gửi

Butchi

VPP Sơn Ca
Xu
92
Cảm nghĩ về hình ảnh người chiến sĩ lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật.

Bài làm

Phạm Tiến Duật là một nhà thơ tiêu biểu của thế hệ nhà thơ trẻ trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Nhà thơ đã từng cầm súng chiến đấu và công tác trong đội ngũ những chiến sĩ vận tải chở vũ khí ra tiền tuyến:

Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước
Mà lòng phơi phới dậy tương lai.

Niềm vui hăm hở của tuổi trẻ như cuộc sống chói chang chiếu sáng tâm hồn của người chiến sĩ, thi sĩ khiến thơ ông có giọng điệu khỏe khoắn, tự nhiên, tràn trề sức sống, rất tinh nghịch vui tươi đầy chất lính. Điều này đã được Phạm Tiến Duật thể hiện và nâng cao hơn trong tác phẩm Bài thơ về tiểu đội xe không kính . Bài thơ đã ca ngợi những người chiến sĩ lái xe có tư thế hiên ngang dũng cảm, bất chấp gian khổ, sống lạc quan yêu đời, quyết tâm chiến đấu vì miền Nam yêu thương.

Trước hết đọc tác phẩm điều mà mỗi chúng ta cảm thấy khâm phục, tự hào và cũng là nét bao trùm nổi bật của người chiến sĩ lái xe trong bài là sự ung dung, thanh thản tuyệt vời trong một tư thế hiên ngang, bất khuất, bất chấp mọi khó khăn, thử thách. Mặc dù:

Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi…
…Không có kính, rồi xe không có đèn,
Không có mui xe thùng xe có xước…

Những người lính lái xe phải lái những chiếc xe trần trụi, xấu xí là vì bom đạn của đế quốc Mĩ đã làm cho những chiếc xe biến dạng, làm cho đồng chí đồng đội của các anh ngã xuống. Chiến tranh quả là khốc liệt thế nhưng các anh vẫn lái những chiếc xe ấy băng ra ngoài mặt trận, chở vũ khí, lương thực từ hậu phương lớn ra tiền tuyến lớn bởi các anh có những trái tim yêu nước cháy bỏng. Đế quốc Mĩ đã gây bao tội ác cho đồng bào miền Nam, bắt đoàn xe phải ngừng hoạt động, gây biết bao khó khăn cho kháng chiến. Song những người lính vẫn vững vàng tay lái bất chấp bom đạn của kẻ thù với tâm hồn lạc quan như niềm tin chắc chắn vào chiến thắng:

Ung dung buồng lái ta ngồi…
Nhìn đất , nhìn trời, nhìn thẳng…

Đoạn thơ hay cả về âm điệu, hình ảnh, cách nói. Những câu thơ nhanh, gấp mà vẫn nhịp nhàng như bánh xe đang lăn đều đặn trên đường. Những câu thơ như bật ra từ trái tim người lái xe đang ngồi sau tay lái. Hiện thực đầy ắp chính xác đến từng chi tiết, nhưng đằng sau hiện thực ấy là một tâm trạng, một tư thế, một bản lĩnh chiến sĩ. Xe không có kính mà họ vẫn ung dung, thanh thản, vẫn tập trung cao độ, vẫn bình tĩnh tự tin để đưa hàng xe ra tiền tuyến với một cái nhìn đầy ngạo mạn của lòng dũng cảm. Có lẽ, tác giả phải là người trong cuộc mới sáng tác được những câu thơ hay và chính xác như thế. Tâm hồn các chiến sĩ lái xe thật lãng mạn, nhờ không có kính mà nhìn thấy sao trời, cánh chim sa, gió cứ ùa vào buồng lái và trở thành người bạn đường của họ. Thiên nhiên con người như hòa vào làm một câu thơ rất thực lại mang chút nghệ sĩ đáng yêu của người lính. Cả đoạn thơ như ào ra từ cuộc sống thực để nói lên tinh thần cao đẹp của người chiến sĩ đường ra trận mùa này đẹp lắm. Đây phải chăng là con đường cách mạng, con đường hàng vạn, hàng triệu con người Việt Nam đang xây đắp chờ ngày “khai trương”. Bằng lời thơ giản dị mà chân thành tác giả lại viết tiếp:

Không có kính ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha

Những câu thơ ngồn ngộn chất sống hiện thực ở chiến trường, tác giả như nhìn thấy bụi trắng, bộ mặt lấm lem của người lính và nghe rõ tiếng cười sảng khoái của người lính. Nhưng đằng sau những dòng buông đùa đáng yêu này cũng là một bản lĩnh chiến đấu rất vững vàng của họ, bởi không vững vàng thì không thể đùa vui như vậy. Điều đó càng làm cho chúng ta thấm thía hơn sự đối lập giữa người già ở câu trên với tiếng cười ha hả hồn nhiên, yêu đời và trẻ trung đến lạ lùng ở câu dưới. Điệp từ ừ thì như một sự chấp nhận những khó khăn đã được nhà thơ miêu tả khá rõ nét. Mặc dù bụi đường phun tóc trắng nhưng người lính vẫn không hề nao núng, vẫn bình tĩnh coi thường khó khăn, gian khổ. Mặc dù Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời song người lính vẫn chưa cần. Vậy đó,dù trong khó khăn các anh vẫn cười tươi để động viên nhau cố gắng.

Dường như khó khăn, thử thách không chỉ giúp con người ta tôi rèn ý chí mà còn giúp cho tình bạn thêm gắn bó keo sơn. Phạm Tiến Duật đã phát hiện và ghi lại điều đó về vẻ đẹp của những người lính lái xe và những hình ảnh thơ độc đáo:

Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bạn bè suốt dọc đường đi
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi

Những cỗ xe đã chiến thắng với những vũ khí tối tân của Mĩ và hoàn thành nhiệm vụ một cách xuất sắc, họ đã gặp nhau, động viên nhau bằng một cái bắt tay thân thiện, cái bắt tay ấy đâu chỉ là một cái bắt tay đơn thuần mà là cả một niềm tin vào chiến thắng. Nó giúp cho con người xích lại gần nhau, nó như một sợi dây nối liền tâm hồn tình cảm của những người lính. Phạm Tiến Duật đã dành cho tình đồng đội của người lính một khổ thơ chân thật và xúc động.

Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi lại đi trời xanh thêm

Đời người lính là đi, nhất là người lính lái xe. Nhưng trong cái giây phút dừng chân ngắn ngủi ấy, ta càng cảm thấy rõ sự gắn bó tự nhiên mà cao đẹp của tình đồng đội. Chỉ là bếp Hoàng Cầm , là võng mắc chông chênh mà chung bát đũa nghĩa là gia đình ấy, câu thơ đẹp cả về tính cách, cách nhìn, cách nghĩ của người chiến sĩ. Có khác gì câu thơ nói về tình đồng chí của Chính Hữu hơn hai mươi năm trước đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ và có phải tình đồng đội đã ngân lên câu hát nâng bước chân người lính đi tiếp những chặng đường mới lại đi, lại đi trời xanh thêm.

Dường như chính vì tình yêu thương đùm bọc mà người lính đã quyết chiến đấu với giặc. Phạm Tiến Duật đã kết thúc bài thơ bằng một sự nhận thức sâu sắc của người lính lái xe cho dù các anh có phải đối mặt với bao khó khăn của cuộc chiến đấu nhưng các anh vẫn chạy vì miền Nam phía trước. Và đoàn xe của các anh đã chiến thắng, các anh đã ra tiền tuyến bằng một tình cảm thiêng liêng vì miền Nam thân yêu, vì chiến đấu giành lại độc lập tự do và thống nhất đất nước. Điều này đã được các anh thực hiện bằng trái tim của mình: chỉ cần trong xe có một trái tim. Đó là một hình ảnh tỏa sáng chói ngời đã đúc kết lại phong cách của người lính gan góc, kiên cường, giàu bản lĩnh chứa chan tình yêu thương với đồng đội, đất nước. Chính lí do này đã khích lệ người lính vượt qua mọi thử thách. Dường như quyết định chiến thắng không phải là vũ khí, công cụ mà là con người – con người mang trái tim, nồng nàn yêu thương, ý chí, lòng dũng cảm và có niềm tin vững chắc.

Bài thơ mang chất lính rất đượm, là tiếng nói hồn nhiên thường ngày của người lính đã đi vào trong thơ ca. Nhưng đấy là tính cách lính trẻ của thời kháng chiến chống Mĩ, họ có học thức, có bản lĩnh chiến đấu, có cuộc sống nội tâm hết sức phong phú. Qua bài thơ ta càng khâm phục và học tập ở các anh nét hồn nhiên và tình yêu đời, yêu đất nước tha thiết.

Theo 100 bài văn hay lớp 9*
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:
Cảm nghĩ về hình ảnh người chiến sĩ lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật.

Bài làm

Phạm Tiến Duật sinh ra và lớn lên trong những năm chống Mĩ oanh liệt của dân tộc. Ông vào chiến trường và trở thành những người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn với tất cả sức hấp dẫn và vẻ đẹp của cuộc đời người lính, của cuộc chiến tranh. Ông vừa cầm súng, vừa cầm bút để tái hiện lại những hiện thực bộn bề của cuộc chiến tranh. Với một phong cách tài năng đa dạng, những khám phá mới lạ, táo bạo, phong phú, giọng thơ tinh nghịch, trẻ trung , ngang tàng, Phạm Tiến Duật đã ghi lại được tinh thần chiến đấu của những chiến sĩ Trường Sơn trong những ngày cả nước sôi sục khí thế:

Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước
Mà lòng phơi phới dậy tương lai

Bài thơ về tiểu đội xe không kính ra đời trong bối cảnh lịch sử ấy đã ngợi ca và hoàn thiện những vẻ đẹp của anh bộ đội cụ Hồ với những tình cảm lắng sâu trách nhiệm và vẫn vui tươi thanh thản lạ thường.

Ngay từ nhan đề của bài thơ cũng đã thực hiện được sự độc đáo khác thường. Hình ảnh những chiếc xe không kính và cả tiểu đội xe không kính là có thật trong những năm chống Mĩ trên đường Trường Sơn và trở thành nguồn cảm hứng táo bạo, bất ngờ cho Phạm Tiến Duật, mạch cảm xúc của bài thơ cứ thế ào ạt tuôn chảy như những chiếc xe không kính đang đi trên những đoạn đường khi thì gồ ghề, khúc khuỷu lắc lư chao đảo, khi thì bằng phẳng êm trôi.

Mở đầu bài thơ là những câu thơ dài, giọng điệu gần như lời nói thường ngày như những khúc văn xuôi, lời hội thoại:

Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ rồi

Phạm Tiến Duật đã miêu tả hiện thực, hiện thực đến trần trụi nhằm tô đậm mức độ ác liệt của cuộc chiến tranh tàn khốc, khó khăn thiếu thốn. Những chiếc xe từ trong bom rơi, đạn lửa biến hình dị dạng thương tích vẫn phải băng vào chiến trường làm nhiệm vụ, góp phần giải phóng quê hương dù:

Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước

Những chiếc xe từ trong bom rơi đạn lửa lại đi trên con đường gồ ghề, khúc khuỷu, quanh co, sườn cao vực sâu của Trường Sơn. Nhịp thơ ngắn mạnh giúp cho người đọc, người nghe hình dung được những chiếc xe đang lăn bánh trên đoạn đường nguy hiểm, khó khăn. Với phép lặp từ không độc đáo càng làm bật lên tư thế của những người cầm lái, dù trong hoàn cảnh nào họ vẫn vững một niềm tin vào bản lĩnh và nghị lực của người chiến sĩ lái xe.

Phải là người trong cuộc, cùng chịu đựng, cùng lái, cùng sẻ chia những hiện thực khó khăn ấy, Phạm Tiến Duật mới có thể có những phát hiện táo bạo bất ngờ về những chiếc xe ấy.

Từ câu thơ thứ ba của bài thơ người đọc đã có cảm giác như những chiếc xe vừa băng qua một đoạn đường nguy hiểm và bây giờ những chiếc xe đang trong một tư thế hoàn toàn khác lạ. Câu thơ ngắn lại trong nhịp đôi đều đặn kéo dài sáu câu:

Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái

Điệp từ nhìn lặp lại nhiều lần trong khổ thơ khẳng định tư thế bình thản, thoải mái, khoan thai chủ động chiêm ngưỡng và tận hưởng đất trời của người lính thu vào tầm mắt của mình đất trời bao la núi sông cây cỏ thiên nhiên tạo vật đầy hương sắc. Đây là vẻ đẹp của quê hương đất nước trên đường ra trận. Người lính trở thành một lữ khách du ngoạn lạc quan yêu đời ung dung thoải mái.

Tiếp theo là những câu thơ có cấu trúc giống nhau:

Không có kính ừ thì có bụi
….
Không có kính ừ thì ướt áo
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
….
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa.

Những điệp từ không có,ừ thì như những tiếng nói chắc gọn, những lời từ chối thẳng thắn táo bạo lặp đi lặp lại trong suốt khổ thơ đã khẳng định vẻ đẹp tự tin hiên ngang kiêu hùng của người lính trước khó khăn, tô đậm thêm tinh thần chịu đựng, đẩy lùi gian lao, khắc phục khó khăn trở thành một thói quen chấp nhận vượt lên.

Người lính trên đường ra trận bao giờ cũng mang theo những nhịp điệu hối hả khẩn trương bận rộn, họ rất ít thời gian để chuyện trò tâm sự , tất cả chỉ một thoáng đi qua kí ức và trở thành kỉ niệm.

Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha
…..
Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi

Cười ha ha có nghĩa là tiếng cười sảng khoái hồn nhiên vô tư trong sáng, tiếng cười át tiếng bom đạn và cũng những tiếng cười ấy gieo vào nhau những tình cảm, những kỉ niệm đẹp về người lính thật khó quên trên đường ra trận.

Chỉ một cái bắt tay qua cửa kính vỡ rồi cũng đủ để họ san xẻ cho nhau, cảm hiểu lẫn nhau của những đồng chí đồng đội chung một vị trí chiến hào, chung một nhiệm vụ thiêng liêng cao cả mà Tổ quốc và nhân dân giao phó.

Người lính trên đường ra trận còn có chung những điểm tựa về tình cảm tâm hồn, sinh hoạt. Chúng ta hãy nghe Phạm Tiến Duật kể về những cái chung ấy:

Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm

Tất cả những cái chung ấy tụ hội thành một gia đình đầm ấm, vui vẻ, hạnh phúc diễn ra một thoáng giữa hai cuộc hành quân nhưng ở đó ta thấy một vẻ đẹp của sự sum họp, tình cảm bạn bè an hem, đồng chí, đồng đội luôn có nhau vui buồn sướng khổ, cũng từ những cái chung ấy ta thấy được đời sống tâm hồn tình cảm của người lính thật thiêng liêng, thoải mái , vô tư, chân tình. Họ có chung bát đũa, chung mâm, chung bếp lửa, chung ánh sao trời, chung gió bụi mưa tuôn, chung một con đường hành quân, một chiến hào, một nhiệm vụ. Những tình cảm ấy chỉ có những người lính cách mạng mới được thưởng thức và nếm trải bình thường mà cao đẹp.

Bài thơ đã đạt đến cao trào cảm xúc, hình ảnh thơ đã được nâng lên thành “nhãn tự” và chủ đề tư tưởng của tác phẩm:

Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim.

Bài thơ đã khép lại nhưng cuộc hành quân của các chiến sĩ vẫn còn tiếp tục và đang ở phía trước. “Miền Nam chưa được giải phóng một nửa đất nước vẫn còn trong nước sôi lửa bỏng, tiền tuyến vẫn đang vẫy gọi, tuổi trẻ cả nước tiếp tục đấu tranh để giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, tuổi trẻ vẫn phải băng ra chiến trường, những chiếc xe không kính vẫn cùng với tiểu đội tham gia làm nhiệm vụ góp phần giải phóng miền Nam”.

Hình ảnh “chỉ cần trong xe có một trái tim” là phép tu từ hoán dụ điển hình. Trái tim là hiện thân của yêu thương và căm giận, hiện thân của mục đích và lí tưởng là ánh sáng, ý chí nghị lực, tuổi trẻ Trường Sơn. Đó là trái tim biết cầm lái, biết đối diện với tất cả thử thách để làm nên chiến thắng. Trái tim của tuổi trẻ cả nước đang thử thách miền Nam trong những năm chống Mĩ.
Nếu ta trở lại hình ảnh người lính cách mạng trong bài thơ Đồng chí của Chính Hữu trong những năm chống Pháp đến Bài thơ tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật trong những năm chống Mĩ thì ta sẽ bắt gặp ở đó những vẻ đẹp truyền thống của người lính cách mạng, anh bộ đội cụ Hồ. Đó là tình đồng chí đồng đội thiêng liêng cao cả, tinh thần bất chấp khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ, tư thế sẵn sàng chiến đấu bảo vệ quê hương đất nước nhưng những người lính trong những năm chống Mĩ có thêm vẻ đẹp hiên ngang hiện đại, dũng cảm, kiêu hùng trong một tầm vóc mới, thời đại mới.

Với một chất liệu hiện thực độc đáo, giọng thơ ngang tàng, khẩu khí trẻ trung, nhịp điệu biến hóa linh hoạt khi thì như lời hội thoại khi thì như khúc văn xuôi phù hợp với nhịp hành quân của binh chủng lái xe cơ giới trên đường ra tuyến lửa Tiểu đội xe không kính là một bài thơ hay, ấn tượng, tiêu biểu về đề tài người lính cách mạng trong những năm chống Mĩ. Kết hợp giữa hiện thực và lãng mạn, Phạm Tiến Duật đã làm nổi bật hình ảnh những chiếc xe không kính và những phẩm chất cao quý của những chiến sĩ lái xe trên tuyến đường Trường Sơn hào hùng sôi nổi của những năm tháng cả nước vì miền Nam ruột thịt, vì cuộc chiến đấu giải phóng thống nhất đất nước.

Theo 100 bài văn hay lớp 9*
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:
Đề bài: Cảm nhận của em về hình tượng những người lính lái xe trong bài “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật.

Gợi ý


a.
Mở bài

Bài thơ về tiểu đội xe không kính
(1969) là tác phẩm trong chùm thơ của Phạm Tiến Duật được tặng giải nhất cuộc thi thơ của báo Văn nghệ năm 1969 – 1970.

Bài thơ, tác giả đã thể hiện khá đặc sắc hình ảnh anh bộ đội Cụ hồ với tư thế hiên ngang, ung dung, tình đồng đội thắm thiết, tinh thần dung cảm trên tuyến đường Trường Sơn trong thời kì kháng chiến chống Mỹ.

b.
Thân bài

Tư thế, thái độ, cảm giác của người lính.

- Trong chiếc xe không kính, tư thế ung dung tự tin của người lái xe càng nổi bật: “ung dung, nhìn thẳng” – “ung dung” là một từ láy vừa gợi được hình vừa gợi được tâm thế.

- Thái độ bất chấp khó khăn, coi thường gian khổ - sự lặp lại của các câu thơ: Không có… ừ thì… và kết cấu phủ định Chưa cần… ở cả hai khổ thơ đã biểu hiện khá mạnh mẽ thái độ của người lính lái xe.
- Cảm giác và ấn tượng: hòa mình vào thiên nhiên, gần gũi với sao trời, cánh chim… cách diễn tả chính xác cảm giác trong buồng lái không có kính chắn gió.

Tình đồng đội của người lính.

- Được thể hiện qua các hình ảnh thật bình dị mà đặc sắc: “bắt tay qua cửa kính vỡ rồi. Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời. Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”.

- Bên nhau vui vẻ, trẻ trung, sôi nổi, lạc quan.

Tinh thần chiến đấu.

- Động lực mạnh mẽ và sâu xa để làm nên sức mạnh và sự dũng cảm, tư thế hiên ngang của những người lính lái xe chính là lòng yêu nước, ý chí quyết tâm và khát vọng giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước của thế hệ trẻ và toàn dân tộc.

- Để làm nổi bật lên điều đó, tác giả đã tạo nên một kêt cấu đối lập bất ngờ mà sâu sắc ở khổ thơ cuối cùng:
Không có kính, rồi xe không có đèn,
Không có mui xe, thùng xe có xước,

Bom đạn làm cho nó trơ trụi, thiếu nhiều thứ cần cho một chiếc xe bình thường, tưởng như nó không thể hoạt động được nữa.
Thế nhưng “xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước” bởi vì: “Trong xe có một trái tim” vì miền Nam, vì Tổ quốc.

c.
Kết bài

Bài thơ đã khắc họa một hình ảnh tiêu biểu của thế hệ trẻ trong thời kì kháng chiến chống Mỹ, một thế hệ thanh niên anh hùng, sống đẹp, ý thức sâu sắc về trách nhiệm của tuổi trẻ trước vận mệnh của đất nước, trong gian khổ hi sinh mà vẫn lạc quan phơi phới.
 
Cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu n­ước của dân tộc ta là một bản anh hùng ca bất diệt .Trong những tháng năm sục sôi khí thế “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” ấy nhân dân Miền Bắc đã không tiếc sức người ,sức của chi viện cho Miền Nam ruột thịt. Trong những đoàn quân điệp trùng nối nhau ra trận có chàng trai trẻ Phạm Tiến Duật .Anh được tôi luyện và trưởng thành trong chiến tranh và trở thành nhà thơ chiến sỹ .Thơ anh không cuốn hút người đọc bằng ngôn từ mượt mà, âm điệu du dương mà nó khiến người đọc say bằng chính sự tự nhiên,sống động,gân guốc,độc đáo và đậm chất lính tráng.“Bài thơ về tiểu đôi xe không kính” là một bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ đó .

Xuyên suốt bài thơ là hai hình ảnh trung tâm:những chiếc xe và những người chiến sĩ lái xe.Những chiếc xe không kính và nguyên nhân của nó được giới thiệu bằng lời thơ tự nhiên ,mộc mạc như một lời phân bua mà có lẽ trước tác giả chưa ai khám phá ra chất thơ bộc lộ ngay trong vẻ tự nhiên của ngôn từ :

Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung, kính vỡ đi rồi .


Cách lý giải đơn giản ,ngộ nghĩnh tạo thú vị cho người đọc .Cảm hứng thơ bắt đầu từ hiện thực ác liệt nơi chiến trường với “bom giật, bom rung ”giúp ta hình dung sự tàn phá của đạn bom trên những nẻo Trường Sơn năm ấy vô cùng dữ dội. Song thiếu đi những phương tiện vật chất tối thiểu lại là cơ sở để người lái xe bộc lộ những phẩm chất cao đẹp và sức mạnh tinh thần lớn lao của họ :

Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất ,nhìn trời ,nhìn thẳng.


Trên những chiếc xe không kính ,dưới làn bom đạn của kẻ thù, an toàn của các anh khó mà bảo đảm .Vậy mà thái độ của các anh bình thản tự tin đến không ngờ.Trong tư thế ung dung ,trong cái nhìn bao quát cả đất trời còn có cả niềm kiêu hãnh của người làm chủ hoàn cảnh ,tự hào ngắm nhìn đón nhận thiên nhiên.Nhịp thơ cân xứng,ý thơ trôi chảy ,lời thơ nhẹ nhàng như diễn tả hình ảnh những đoàn xe lăn bánh trên những nẻo đường ra trận .Cái vất vả ,gian khổ hiểm nguy được miêu tả bằng những hình ảnh giản dị trung thực đến từng chi tiết:

Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái .


Xe không kính ,gió lùa mạnh vào cabin,người lái xe không chỉ cảm thấy mà còn nhìn thấy “gió vào xoa mắt đắng ”. Cử chỉ quá đỗi trìu mến,dịu dàng và thân thiện ấy của gió làm đắng những đôi mắt cay xè vì thiếu ngủ .Và hơn thế nữa ,nắng mưa gió bụi của Trường Sơn đã trở thành những bạn đồng hành :

Không có kính ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già .
…Không có kính ừ thì ướt áo
Mưa phun mưa xối như ngoài trời .


Điệp từ “ừ thì” , “chưa cần” ,hình ảnh “phì phèo châm điếu thuốc ”,giọng “cười haha” hào sảng làm tôn lên chất bình dị mà anh hùng của những chàng trai trẻ biết biến cái vất vả gian nan thành phút giây thư giãn thoải mái .Qua đó làm sáng lên tinh thần cứng cỏi đầy nghị lực và bất chấp gian khó của những người biết vượt lên hoàn cảnh để làm chủ hoàn cảnh .Có lẽ ai đã từng đến Trường sơn mới thấu hết cái gian nan của người cầm lái.Đường Trường Sơn gập ghềnh,mưa Trường Sơn như trút nước,mùa khô xe chạy bụi mù trời.Bom đạn của quân thù không làm các anh chùn bước thì gió, bụi,mưa sa của thiên nhiên khắc nghiệt nào có đáng kể chi.Trên những chiếc xe không kính ,tâm trạng người chiến sĩ lái xe vẫn phơi phới thênh thang:

Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi .


Lạ lùng thay ,như một khám phá bất chợt của nhà thơ ,sự hiểm nguy của những chiếc xe không kính lại trở thành sự tiện lợi bất ngờ khi các chàng lính gặp nhau , bởi họ có thể không cần phải xuống xe mà vẫn có thể bắt tay nhau thể hiện tình thân ái. Công việc vất vả, hiểm nguy nhưng phút nghỉ ngơi của những người lính lại vô cùng giản dị :

Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy .


Cuộc sống dẫu giản dị, xuềnh xoàng nhưng ấm áp tình cảm .Những người lính không chỉ là đồng chí ,đồng đội của nhau mà họ còn là những người cùng trong một gia đình . Bởi vậy sau những phút nghỉ ngơi ngắn ngủi họ lại tiếp tục công việc của mình với niềm tin mãnh liệt vào ngày mai chiến thắng . Chỉ có điều càng gần đến phương Nam những chiếc xe ngày càng hư hỏng :

Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước .


Khi tứ xe “không kính” được gói lại thì những con số không khác lại mở ra : “không đèn”,“không mui”,chỉ một thứ duy nhất có thêm nhưng lại là “có xước”.Như vậy cả “không có” và “có ”đều là tổn thất ,đều là hư hại.Điệp ngữ “không có” được nhắc lại ba lần như nhân lên ba lần những thử thách khốc liệt của chiến tranh , hoàn thiện dung mạo trụi trần đến kinh ngạc của chiếc xe vận tải. Vượt dãy Trường Sơn ,đi qua đạn bom khói lửa của kẻ thù ,mang trên mình đầy thương tích những chiếc xe như một dũng sĩ kiên cường . Kì lạ thay :

Xe vẫn chạy vì miền nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim.


“Trái tim” là một hoán dụ chỉ người chiến sĩ lái xe yêu nước căm thù giặc sống trẻ trung ,sôi nổi và lạc quan tin tưởng vào thắng lợi tất yếu của cuộc kháng chiến .Câu thơ khép lại nhưng con mắt thơ thì mở ra .Ta chợt nhận ra người chiến sỹ lái xe là một phần không thể thiếu ,là con mắt ,là bộ não ,là linh hồn của xe .Có trái tim chiếc xe thành một cơ thể sống ,thành một khối thống nhất với người chiến sĩ .Ta hiểu vì sao cả đoàn xe có thể vượt qua dãy Trường Sơn khói lửa bởi cội nguồn sức mạnh của nó kết tụ lại cả trong trái tim gan góc, kiên cường, giàu bản lĩnh và chan chứa yêu thương.Có lẽ vì thế mà nhiều người cho rằng đây là hình ảnh trái tim cầm lái .

Đến với bài thơ ta thú vị nhận ra cái giọng rất trẻ,rất lính.Chất giọng ấy bắt nguồn từ sức trẻ ,từ tâm hồn phơi phới của thế hệ chiến sĩ Việt Nam mà chính tác giả đã từng sống, từng trải nghiệm.Ngôn ngữ thơ giản dị đậm chất văn xuôi,hình ảnh thơ sáng tạo bất ngờ ,đặc biệt là sự linh hoạt của nhạc điệu trong thơ đã góp phần tạo nên sức hấp dẫn sâu sắc của bài thơ trong lòng độc giả .
 

VnKienthuc lúc này

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top