Cái mới và nỗi buồn, cô đơn ở một số bài thơ mới trong chương trình VHPT

Bút Nghiên

ButNghien.com
Cái mới và nỗi buồn, cô đơn ở một số bài thơ mới trong chương trình VHPT


1. Vấn đề cái mới của Thơ mới

Xuân Diệu là tác gia Thơ mới duy nhất được giảng dạy trong chương trình môn Văn lớp 11. Sau này, dù chương trình có thay đổi theo hướng tinh giản, Xuân Diệu vẫn được giữ lại cùng những bài thơ tiêu biểu nhất của ông.

Trong việc nghiên cứu văn chương nói chung, thật khó có thể xác định một cách dứt khoát tác giả nào lớn hơn tác giả nào, bài thơ nào hay hơn bài thơ nào. Việc xác định giá trị của một bài thơ, bên cạnh những tiêu chí chung còn có một vấn đề quan trọng thuộc về chủ quan là tình cảm, thị hiếu thẩm mĩ, là cái tạng của người cảm thụ. Người đọc thơ có thể thích Huy Cận hơn Xuân Diệu, thích Hàn Mặc Tử hơn Thế Lữ, thích Xuân Diệu hơn Nguyễn Bính... Đây là điều bình thường trong cảm thụ thơ ca. Nhưng khi khẳng định "Xuân Diệu là nhà thơ mới nhất trong những nhà thơ mới" (Hoài Thanh) thì có lẽ dễ dàng tìm được sự đồng tình ở các giáo viên và những người am hiểu về Thơ mới. Cái mới của Thơ mới được biểu hiện trước hết ở Phan Khôi, Thế Lữ, Lưu Trọng Lư.. nhưng có thể nói được tập trung thể hiện rõ nét và tiêu biểu nhất trong thơ Xuân Diệu. Phải chăng chọn Xuân Diệu là tác gia duy nhất của Thơ mới, các tác giả biên soạn sách muốn nhấn mạnh đến những cái mới mà các tác giả Thơ mới đã đạt được? Từ suy nghĩ đó, chúng tôi cho rằng, giảng về Xuân Diệu, thơ Xuân Diệu, và cả những nhà Thơ mới khác, cần phải nhấn mạnh những cái mới trong thơ của họ so với những nhà thơ trước đó. Nói cách khác, giảng về Thơ mới, nhất thiết phải giúp cho học sinh thấy được cái mới trong thơ họ so với thơ Trung đại Việt Nam. Riêng với Xuân Diệu, không chỉ thấy rõ cái mới trong thơ ông so với các nhà thơ Trung đại mà còn cần chỉ rõ cái mới đó so với các nhà thơ lãng mạn cùng thời.

Trong quá trình phát triển của thơ ca Việt Nam hiện đại, Xuân Diệu có một vai trò hết sức quan trọng. Ông được các nhà phê bình văn học cùng thời nhận xét là người mang đến cho Thơ mới nhiều cái mới nhất (Vũ Ngọc Phan), Người mới nhất trong những nhà Thơ mới ( Hoài Thanh). Cái mới trong thơ Xuân Diệu được thể hiện trên nhiều phương diện từ quan niệm nghệ thuật về thế giới và con người đến những cách tân táo bạo trong hình thức nghệ thuật thơ ca...
Những đổi mới của thơ Xuân Diệu trong giai đoạn 1930-1945 gắn liền với quan niệm nghệ thuật của ông về con người và thế giới. Là một nhà thơ lãng mạn, Xuân Diệu có ít nhiều điểm tương đồng với các nhà Thơ mới. Nếu như các nhà Thơ mới đề cao cái tôi, ý thức sâu sắc về cá nhân thì Xuân Diệu cũng không vượt ra ngoài qui luật chung đó của thời đại nhưng con người cá nhân trong thơ Xuân Diệu cũng có những nét riêng không lẫn vào đâu được, đó “là Một, là Riêng, là Thứ Nhất” như ông quan niệm. Cũng như các nhà Thơ mới, ông cũng thể hiện con người với nhiều ước mơ, mộng tưởng, cô đơn, lạc loài nhưng điều quan trọng trong thơ ông là con người đó đồng thời cũng gắn bó sâu xa, máu thịt với cuộc đời thường nhật, biểu hiện một khát vọng sống mãnh liệt, nồng nàn, tha thiết.

Xuân Diệu đã cảm nhận thế giới vượt ra ngoài thông lệ so với những nhà thơ của quá khứ cũng như nhiều nhà thơ đương thời. Những sự vật vốn trừu tượng, vô hình thường hiện lên một cách sinh động, cụ thể trong mối tương quan, tổng hòa của các giác quan.

Riêng trên bình diện ngôn ngữ thơ ca, Xuân Diệu có những điểm mới, rất sáng tạo, lạ lùng, mà đương thời không ít người chê là ngô nghê, lai căng, mất gốc...Quả thật, nhiều câu thơ của Xuân Diệu chịu ảnh hưởng của sự diễn đạt của câu văn Pháp.

Trong thơ Xuân Diệu có hàng loạt những từ ngữ mới mẻ nhưng cũng chỉ những từ ngữ ấy mới diễn đạt được cái mới trong tâm hồn thi sĩ của nhà thơ: Nhan sắc ơi, bình minh quá, tháng giêng cười, tuôn âu yếm, lùa mơn trớn, rượu nơi mắt, gấm trong lòng, chùm mong nhớ, khóm yêu đương, hoa kỹ nữ, gió phong lưu, tình thổi gió, trăng mối lái, trăng vú mộng, tắt nắng đi, buộc gió lại..

Xuân Diệu bắt đầu làm thơ từ năm 1933 nhưng chỉ thật sự nổi bật khi phong trào Thơ mới đã giành thắng lợi. Và có thể nói Xuân Diệu trở thành nhà thơ nổi bật trong giai đoạn phát triển mạnh mẽ nhất của phong trào thơ ca này.
Cái mới không chỉ được thể hiện trong thơ Xuân Diệu. Bên cạnh Xuân Diệu, các nhà Thơ mới khác cũng có những cách tân quan trọng. Có thể thấy rõ điều này qua các nhà thơ Hàn Mặc Tử, Huy Cận, Phạm Huy Thông, Thâm Tâm, và ngay cả ở Nguyễn Bính – nhà thơ của “chân quê”. Cái mới chủ yếu của họ không chỉ được ở hình thức nghệ thuật mà chủ yếu là sự cảm nhận sâu sắc, thấm thía của cảm xúc, là sự băn khoăn, trăn trở của cái tôi cô đơn, lẻ loi. Hà Bình Trị coi Tràng giang của Huy Cận hiện đại ở hình ảnh, thi liệu và cảm xúc:

“Thuyền về, nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng”


“Vào những năm 30 của thế kỉ trước, đây là những câu thơ mới mẻ bởi vì trong đó xuất hiện cái tầm thường, nhỏ nhoi, vô nghĩa như “ Hình ảnh một cành củi khô đơn lẻ bềnh bồng trên dòng sông mênh mông sóng nước dễ gợi lên nỗi buồn về kiếp người nhỏ bé, vô định”(4). Đấy là nỗi buồn của một cá nhân cảm thấy tâm hồn không còn được bình an, không còn nhận thấy được sự hài hoà, liên hệ giữa các sự vật, giữa con người và vũ trụ...

Mặc dù lưu ý đến những cái mới như vừa trình bày, có một vấn đề hết sức quan trọng cần phải được nhấn mạnh để học sinh nhận thức rõ, đó là- dù có mới mẻ đến đâu- những thành tựu của Thơ mới cũng bám chặt vào cội rễ của truyền thống thơ ca, văn hoá và tinh thần của dân tộc.

2. Về nỗi buồn và cô đơn của các bài Thơ mới trong chương trình văn PTTH

Đọc Thơ mới lãng mạn, nhìn chung không thể không thấy đó là một tiếng thở dài u uất, đau đớn và bế tắc vì hoàn cảnh xã hội và quan niệm nghệ thuật của các nhà thơ.
Nếu coi sự cô đơn, nỗi buồn "thường thấy trong văn chương lãng mạn nhiều nước và nó được coi như một thứ tâm bệnh của thời đại"(5) thì trong hoàn cảnh mất nước, cái tâm bệnh đó trong thơ mới càng phổ biến và càng được thể hiện đậm nét. Đó là cái buồn mênh mang, xa vắng, cái buồn tàn tạ, thê lương, đau đớn, quằn quại, cái buồn mơ hồ, không duyên cớ, cái buồn giữa cuộc đời tẻ lạnh nhưng cũng có thể là nỗi buồn ngay ở những phút giây tưởng chừng hạnh phúc nhất của đời người. Nỗi buồn và sự cô đơn được biểu hiện trong Thơ mới - ngay ở những nhà thơ tiêu biểu nhất - không phải không có lúc bi quan, chán nản nhưng nhìn chung không phải là tiêu cực. Nỗi buồn và sự cô đơn đó xuất phát từ điều kiện lịch sử của một dân tộc mất độc lập, tự do, xuất phát từ những hoàn cảnh riêng của các nhà thơ nhưng đồng thời cũng xuất phát từ quan niệm nghệ thuật của họ. Nỗi buồn và cô đơn đó có tính chất riêng tư nhưng cũng gắn liền với tâm trạng của nhiều tầng lớp trong xã hội Việt Nam lúc bấy giờ.

Phân tích và giảng dạy cho học sinh những bài thơ lãng mạn cụ thể trong giai đoạn 1932- 1945, không thể không phân tích những nỗi băn khoăn, đau buồn ấy nhưng đồng thời phải chỉ ra được những vẻ đẹp với những sắc thái khác nhau của nó trong cảm nhận thơ ca. Các nhà Thơ mới quan niệm cái buồn gắn liền với cái đẹp và điều này được thể hiện rõ nét trong các bài thơ lãng mạn ở chương trình môn văn lớp 11. Cái đẹp ở đây có thể là cái đẹp của thiên nhiên, đất nước, con người nhưng điều quan trọng hơn hết là cái đẹp trong cảm xúc của người nghệ sĩ trước cuộc đời. Bất cứ bài Thơ mới nào trong chương trình cũng đều thể hiện sự hòa nhập giữa cái đẹp và nỗi buồn thương, cô đơn của con người trước cuộc đời. Phân tích và giảng dạy những bài Thơ mới không thể không chỉ rõ nét chung đó. Trong phần lớn các tác phẩm thuộc dòng văn học cách mạng, học sinh đã được dạy về niềm vui, tinh thần lạc quan cách mạng, tính chiến đấu... mang nhiều tính chất sử thi nhưng chưa chú ý đúng mức đến việc dạy cho học sinh biết buồn thương, xót xa về sự cô đơn, côi cút của thân phận con người. TMLM góp phần bổ sung cho cảm hứng thẩm mĩ này của con người. Lê Quang Hưng đã có lí khi cho rằng "dạy cho con người biết buồn thương ... có lẽ khó hơn nhiều so với việc dạy cho con người biết ca hát" (6) [32 bis/79]

Những bài thơ được giảng dạy trong chương trình đều thể hiện khát vọng hướng tới sự hài hòa, tươi mới, khát vọng của cái đẹp nhưng đều thấm đẫm một nỗi buồn thương, cô đơn với những sắc thái cảm xúc khác nhau và được phân tích khá đầy đủ trong các sách giáo viên văn học lớp 11. Riêng đối với bài "Thơ duyên", khi nói đến nỗi buồn hay niềm vui, có những ý kiến khá mâu thuẫn, thiết nghĩ cần làm rõ.

Sách giáo viên văn học lớp 11, tập 1 (Nxb Giáo dục 2001) có nhận xét:
"Thơ duyên là một trong số ít bài thơ đứng bên lề các sáng tác của Xuân Diệu trước Cách mạng tháng Tám năm1945. Bởi vì thơ Xuân Diệu nói chung là âu sầu, u uất, cô đơn, bài này không có một chút gì những thứ đó", "Thơ duyên là một trong số những bài thơ ít ỏi không chứa đựng một nỗi buồn hiu hắt, nỗi chán chường chua chát, một tâm trạng hoài nghi, bi quan như ta thường gặp ở Xuân Diệu" (trang 105)

Phân tích bài thơ này, ông Nguyễn Văn Long cũng khẳng định:

"Thơ duyên là bài thơ duy nhất không buồn trong các bài thơ về mùa thu của Xuân Diệu (và có lẽ cũng là duy nhất trong thơ mới). Tâm trạng bao trùm trong bài thơ là những rung động xôn xao, những xúc cảm tinh tế đón nhận những biến thái tinh vi, mơ hồ của sự sống trong thiên nhiên, tạo vật và lòng người trong lúc giao mùa vào thu Thơ duyên thể hiện sự cảm nhận độc đáo và tinh tế của Xuân Diệu về mùa thu" .

Quả thực Thơ duyên là một trong số những bài thơ ít ỏi không chứa đựng một một nỗi buồn hiu hắt, nỗi chán chường chua chát, một tâm trạng hoài nghi, bi quan thì dễ được sự đồng tình nhưng cho rằng nỗi buồn cô đơn không hiện diện trong bài thơ, rằng đây là bài thơ duy nhất không buồn trong các bài thơ về mùa thu của Xuân Diệu (và có lẽ cũng là duy nhất trong thơ mới) thì có lẽ cần phải bàn bạc thêm cho thấu đáo.

Đúng là Thơ duyên thể hiện những rung động xôn xao, những xúc cảm tinh tế đón nhận những biến thái tinh vi, mơ hồ của sự sống trong thiên nhiên, tạo vật và lòng người trong lúc giao mùa vào thu. Nhưng ở đây không chỉ có niềm vui mà còn có cả nỗi buồn và cô đơn, là sự không hòa hợp giữa ước mơ, tưởng tượng và thực tế. Nếu hai khổ thơ đầu là sự thể hiện niềm vui và hạnh phúc trước cái đẹp, trước sự giao hòa tuyệt diệu của đất trời, cảnh vật và lòng người thì khổ thơ thứ ba đã bắt đầu xuất hiện những băn khoăn, lo âu trong thực tế (và dường như giữa chiều mộng trong thơ và thực tế có một khoảng cách không gì san lấp được)

Em bước điềm nhiên không vướng chân
Anh đi lững đững chẳng theo gần,
Vô tâm nhưng giữa bài thơ dịu
Anh với em như một cặp vần.


Và đến khổ thứ 4 thì không thể không thấy nỗi buồn cô đơn tràn ngập

Mây biếc về đâu bay gấp gấp
Con cò trên ruộng cánh phân vân
Chim nghe trời rộng giang thêm cánh
Hoa lạnh chiều thưa sương xuống dần.


Không phải vô cớ mà Hoài Thanh khi so sánh nỗi cô đơn của Thơ mới với thơ cũ đã chọn hai câu thơ “Mây biếc về đâu bay gấp gấp, Con cò trên ruộng cánh phân vân" trong bài Thơ Duyên của Xuân Diệu để cuối cùng khẳng đinh: “Từ con cò của Vương Bột lặng lẽ bay tới ráng chiều đến con cò của Xuân Diệu không bay mà cánh phân vân, có sự cách biệt của hơn một ngàn năm và của hai thế giới”(7). Cái cánh cò phân vân, hoa lạnh chiều thưa sương xuống dần đó phải chăng là nỗi buồn do khát khao, giao hòa, giao cảm với người yêu, với cuộc đời nhưng không thể nào đạt được?. Từ những chi tiết trong văn bản thơ, cần chỉ rõ cả những xôn xao, băn khoăn, lo âu và cả cô đơn chứ không phải chỉ có niềm vui của cái đẹp, cái nên thơ và sự hài hòa của bài thơ này.

Những bài Thơ mới được giảng trong chương trình đều thể hiện cái đẹp của nỗi buồn, cô đơn của con người với những cung bậc khác nhau. Quả là các nhà Thơ mới đã khai thác và đi sâu vào một khía cạnh của tâm hồn con người và đã đem đến cho văn học Việt Nam những bài thơ trữ tình độc đáo, mới mẻ và đầy giá trị. Từ những nét chung về nỗi buồn và cô đơn của Thơ mới và những giá trị mà nó đã đạt được, khi nói đến thơ, không phải không có người đã đồng nhất thơ ca với nỗi buồn, cô đơn và cái đẹp. Và đây chính là điều mà giáo viên cần giải thích rõ cho học sinh khi dạy về những bài Thơ mới trong chương trình.

Nếu văn chương là sự phản ánh hiện thực, là những cảm xúc, tâm trạng, những suy ngẫm của con người về cuộc đời thì cũng cần phải thấy rằng nỗi buồn đau và cô đơn chỉ là một trạng thái trong rất nhiều trạng thái khác nhau của tâm hồn người. Trong văn học quá khứ, cuộc đời của con người quả đã có quá nhiều buồn thương, những bất công mà họ phải gánh chịu và điều đó thể hiện rõ trong văn thơ thì cuộc sống ngày hôm nay đã có nhiều khác biệt. Không thể nói đời sống đã hết mọi bất công, ngang trái và triệt tiêu được những bi kịch của cuộc đời nhưng dù sao đời sống của con người vẫn hướng đến và khao khát những niềm vui.. Khai thác mọi trạng thái tâm hồn của con người ở tất cả mọi góc cạnh, đó cũng là một trong những chức năng đặc trưng của văn chương nghệ thuật ...

Theo Tào Văn Ân​
 

VnKienthuc lúc này

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top