Các thể thơ truyền thống
Thể lục bát
Lục bát còn gọi là thể thơ sáu-tám hay thượng lục hạ bát. Điểm đặt biệt quan trọng nhất của thể thơ này chính là tính đại chúng và tính đa năng của nó với tính chất là một thể thơ phổ biến và tiêu biểu của người Việt Nam. Với khả năng phản ánh được những đặc trưng cơ bản của ngữ âm tiếng Việt, thể thơ này đã một có sức mạnh nghệ thuật vững bền và đầy sức thuyết phục, đã từng hiện diện cả trong hai dòng văn học cổ điển và bình dân trong suốt các chặng đường hình thành và phát triển của văn học dân tộc. Trong mảng thơ ca yêu nước Nam bộ nửa đầu thế kỷ XX, một lần nữa, thể thơ lục bát với tính chất là một thể thơ đa năng lại hiện diện trong thơ ca mang khuynh hướng yêu nước – cách mạng ở Nam Bộ trong gần nửa đầu của thế kỷ XX. Và đây là một lựa chọn của thơ ca mang khuynh hướng yêu nước – cách mạng với có đầy đủ cơ sở lý giải động cơ của sự lựa chọn đó.
Trong quá trình hình thành và phát triển của mình, thơ lục bát đã đạt được khả năng thể hiện những tinh hoa của ngôn ngữ dân tộc. “Lục bát thể hiện cảm thức cộng đồng ở mọi thời đại…Mỗi con chữ hằn rõ những dấu ấn của những trạng thái tâm lý tinh tế phức tạp của cá nhân trong cộng đồng xã hội”. [4; tr.26]. Người Việt Nam đã sử dụng lục bát trước hết vào mục đích thể hiện tình cảm, thể hiện tấm lòng trong các mối quan hệ, từ quan hệ cộng đồng như:
“Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng”
(Ca dao)
Hay trong quan hệ tình cảm gắn bó:
“Sông dài cá lội biệt tăm
Phải duyên chồng vợ trăm năm cũng chờ”
(Ca dao)
Lục bát gắn bó sâu xa với tâm thức cộng đồng bằng cả hai yếu tố ngôn từ và nhạc tính đặc biệt của thể thơ này. Ưu điểm của thể thơ lục bát nằm ở mô hình âm luật hoàn chỉnh của nó khiến thể thơ này đã dễ dàng biến lời nói tự nhiên chuyển thành thơ, nên bất kỳ một cặp câu lục bát hoàn chỉnh nào cũng chứa đựng những nét đặc trưng về ngữ âm, từ vựng và cú pháp của tiếng Việt, và từ đó nó dễ dàng giúp cho “tao nhân mặc khách mở miệng thành câu, khuê phụ, điền phu buông lời đúng điệu, cho đến ngạn ngữ ca dao các câu trẻ con đùa hát mà cũng đều tự nhiên đúng thể” [4; tr.26].
Những đặc điểm trên đã lý giải được vị trí vững vàng của thể thơ lục bát trong ca quá trình phát triển của văn học dân tộc. Từ văn học dân gian đến văn học bác học, với nhiều mục đích trữ tình hay chính trị xã hội, người ta đều có thể tiếp cận thể thơ này.
Sự xuất hiện của thể thơ lục bát trong thơ ca mang khuynh hướng yêu nước – cách mạng ở Nam Bộ từ 1900 – 1945 cũng không ra ngoài những ảnh hưởng từ tâm lý, tình cảm và lợi thế âm luật của thể thơ lục bát như đã nêu trên.
Điều ghi nhận đầu tiên từ ý nghĩa của số lượng khá nhiều các bài thơ lục bát từ Tổng thư mục thơ ca mang khuynh hướng yêu nước – cách mạng ở Nam Bộ đã cho thấy sự quán xuyến của cảm hứng vĩ mô trong hầu hết các bài lục bát trong thơ ca mang khuynh hướng yêu nước – cách mạng ở Nam Bộ thời kỳ này, thể hiện qua những phạm vi rộng lớn nhưng thống nhất của các trạng thái tinh thần, tình cảm của toàn xã hội khi đứng trước những đòi hỏi bức xúc của lịch sử, mà quan trọng nhất là yêu cầu độc lập tự do và canh tân đất nước. Nhiều tác giả của các bài lục bát đã thể hiện những trạng thái tâm hồn, tình cảm cũng như thái độ của mình trước thiên nhiên, đất nước, con người, xã hội.
Tuy nhiên, với sự thắng thế của cảm hứng vĩ mô, nên tính trữ tình trong thơ lục bát trong mảng thơ ca mang khuynh hướng yêu nước – cách mạng ở Nam Bộ cũng được định hướng rõ rệt.
Cách mạng ở Nam Bộ đã có một số bài thơ lục bát đã được dùng để biểu hiện những tình cảm với đất nước, làng quê, với dân tộc, với cộng đồng. Chẳng hạn như các bài Làng tôi tôi nhớ của Yến Lan, Sông Đồng Nai của Huỳnh Văn Nghệ…Trong các bài thơ này, có bài đã tận dụng được khá thành công tính chất uyển chuyển trong cơ chế nhịp điệu của thơ Lục bát để thể hiện nỗi niềm thương nhớ quê hương xa xôi hiện đã rời khỏi tầm tay mình bằng sự đan xen giữa cơ chế nhịp truyền thống 2/2 với những ngắt nhịp sáng tạo thể hiện rất rõ những cung bậc của tình cảm thương nhớ về cảnh vật và con người của làng xóm quê hương:
Mưa / đưa /thương nhớ về làng
Mưa /làm xa/ những dặm đàng bến sông
Chiều nay/ mở cửa ra trông
Thấy làng, đâu? /Chỉ thấy lòng/ mà thôi
Mưa ơi/ thương nhớ /bời bời
Bời bời/ thương nhớ/ mưa ơi, /khuất làng…
Ở đây /nắng mới/ ố vàng
Dừa cao lểnh khểnh, /cành xoan ngòng ngoèo…”
(Làng tôi tôi nhớ, Yến Lan, Gió mùa, 1941)
Hay trong bài Sông Đồng Nai của Huỳnh Văn Nghệ, ta cũng gặp hiện tượng ngắt nhịp rất sáng tạo làm cho sự thể hiện tình cảm trong bài thơ có một sắc thái rõ rệt hơn ở ý chí cương quyết tìm đến với những khoảng trời tự do rộng lớn bao la. Ý chí tự do ấy không chỉ là của hình tượng dòng sông hùng vĩ luôn hướng về đại dương mênh mông như một tất yếu, mà với cách ngắt nhịp sáng tạo và táo bạo, đã cho thấy đó còn là ý chí tự do của một dân tộc quyết không chịu khuất phục trước mọi ràng buộc tù hãm, mà luôn nuôi giữ, thực hiện khát vọng hoà nhập vào cộng đồng rộng lớn của thế giới:
“Dặm xa…/vượt núi băng ngàn
Gặp Là Ngà,/ nghĩa bạn vàng/ kết đôi
Thề:/ “Dù trắc trở núi đồi
Cũng liều /sống thác /tìm trời /tự do
Lệ trời/ tràn ngập /hồn thơ
Bao phen lỡ hận /chở bờ đau thương…
Gió ngang,/ thuyền ngược xuôi dòng
Đồng Nai/ hoà Thái Bình Dương/ dâng trào…”
(Sông Đồng Nai, Huỳnh Văn Nghệ) [6; tr.23]
Tuy nhiên, con số những bài thơ lục bát đạt được những thành tựu về nhịp điệu như trên trong thơ ca yêu nước nói chung là ít. Trong thơ ca mang khuynh hướng yêu nước – cách mạng ở Nam Bộ, câu thơ lục bát chủ yếu được sử dụng vào mục đích biểu hiện những trạng thái tình cảm mang tính chất hướng ngoại của con người. Và câu thơ lục bát với tính chất dân gian và tính chất mở rộng vô hạn của vần điệu đã tỏ ra có khả năng hài hòa tình cảm riêng tư với những tình cảm rộng lớn và mới mẻ như tình giai cấp, tình nhân loại, với lý tưởng cách mạng…Chẳng hạn như:
“Thân này giữa đảo chơi vơi
Âm thầm mơ đón cơ trời chuyển xoay
Thân kia dong ruổi đường mây
Việc đời một gánh đôi vai chưa sờn…”
(Đó đây, Đào Duy Kỳ) [2; tr. 447]
Đây là một hiện tượng có thể giải thích được từ sự ưu tiên mà xã hội lúc bấy giờ dành cho nhưng vấn đề cấp bách hơn, nóng bỏng hơn và thời sự hơn của dân tộc và đất nước.
Ghi nhận tiếp theo chính là khả năng chuyển tải rất đáng kể của thơ lục bát trên các bình diện khác nhau, với những sắc thái, cung bậc khác nhau của tâm tư con người trong sự chuyển biến từ tình cảm sang nhận thức trong mảng thơ mang khuynh hướng yêu nước – cách mạng ở Nam Bộ.
Vì thế, ta thấy trong thơ ca mang khuynh hướng yêu nước – cách mạng ở Nam Bộ, thể lục bát được sử dụng hữu hiệu trong những bài thơ có nội dung thể hiện những tình cảm mang đậm cảm hứng vĩ mô, hướng về lịch sử, hướng về dân tộc. Các bài lục bát trên thường hướng về chủ đề canh tân văn hóa xã hội như các bài: Danh dự và quê hương, Sự đoàn kết của Cao Hải Để, đăng trên báo Nông cổ mín đàm (NCMĐ) năm 1920; Huỳnh kim vấn đáp của Nguyễn Tư Thức, đăng trên báo Lục tỉnh tân văn (LTTV) năm 1907; Khuyến phu tấn bộ của Phạm Quang Nghiệp, đăng trên báo NCMĐ năm 1917; Vạn gia sanh phật của Phạm Ngọc Thùy, đăng trên báo LTTV năm 1908; Kêu nhau dậy cùng của Thái Minh Đạo, đăng trên báo Tân thế kỷ (TTK) năm 1927; Tế Nam không rõ tác giả, đăng trên báo LTTV năm 1908; Khóc tố đồng bào của Trần Ái Nam, đăng trên báo LTTV năm 1908. Hay các bài lục bát có chủ đề kêu gọi kêu gọi canh tân kinh tế như: Nam mô kinh tế của Nguyễn Giai và bài Chiêu hồn kinh tế Nam kỳ của Bùi Đình Khiêm, đều đăng trên báo Nữ giới chung (NGC) năm 1918; Cung tặng chư vị Nam trung của Nguyễn Khánh Tấn, Khuyến thương mãi ca của Huỳnh Công Thiệu, đăng trên báo LTTV năm 1908….
Thơ ca mang khuynh hướng yêu nước – cách mạng ở Nam Bộ chịu ảnh hưởng của tư tưởng cộng sản chủ nghĩa cũng không bỏ qua những thuận lợi lớn của thể thơ lục bát trong mục đích giác ngộ quần chúng công nông và tuyên truyền chủ nghĩa Mác Lê nin. Từ đó, mảng thơ này cũng đã có không ít các bài thơ lục bát như Trên bến Côn Lôn , Ra đi, Xuân tù của Đào Duy Kỳ, Giấc mơ của Nguyễn Văn Hoan [2; tr.281]….
Có thể xác định ngay rằng mục tiêu hướng về kêu gọi, thức tỉnh, tuyên truyền, cổ động đã chi phối rất mạnh diện mạo nghệ thuật chung của các tác phẩm lục bát trên.
Trước hết, đó là sự tận dụng lợi thế của tính chất “êm tai, thuận miệng” nhờ hệ thống âm luật đặc biệt của thể thơ lục bát dễ giúp người làm thơ có nhiều cơ hội bộc lộ những cảm xúc, nhận thức, dễ đạt được mục tiêu tuyên truyền, cổ động bằng khả năng kéo dài vô hạn nhưng không gây nhàm chán nhờ ở nhạc tính cao của thơ lục bát. Trong thơ ca mang khuynh hướng yêu nước – cách mạng ở Nam Bộ thời kỳ này, đa số các bài lục bát thường có dung lượng dài và lớn. Có như vậy mới đáp ứng được mục tiêu giáo dục, tuyên truyền, diễn giải. Và cũng với mục tiêu tuyên truyền, diễn giải, cổ động, nên âm điệu của nhiều bài thơ thường thuận theo tính chất tự nhiên của lời ăn tiếng nói hằng ngày, dễ tiếp nhận và dễ nhớ. Từ đó, hệ thống nhịp, vần của các bài lục bát kiểu này thường là hệ thống nhịp, vần căn bản. Chẳng hạn như:
“Cả kêu /phu tướng/ hỡi chàng
Ráng mà/ thức dậy /lo toan /việc nhà
Kìa chàng/ liếc mắt /xem qua
Trong trần/ thầy thợ/ người ta /dập dìu
Này buôn/ nọ bán /mọi điều
Tranh giành /mối lợi/ xem nhiều lắm tay
Nghĩ chàng/ là phận râu mày
Nỡ nào/ mà lại/ đem mài /thân danh….”
(Khuyến phu tấn bộ của Phạm Quang Nghiệp, NCMĐ, 1917)
Hay :
“Này đây /Hắc Hải/ năm xưa,
Gió reo /còn tưởng/ quân thù/ thở than!
Này đây /các nước/ liên bang,
Các dân tộc /sống ngang hàng/ anh em...”
(Giấc mơ, Nguyễn Văn Hoan) [2; tr.282]
Thơ lục bát còn có những hình thức phá cách hoặc phối hợp với các thể khác
để có thể đáp ứng yêu cầu cao về tính mục đích của thơ ca mang khuynh hướng yêu nước – cách mạng ở Nam Bộ thời kỳ này. Chẳng hạn như phá cách về số chữ, về vị trí của vần…để tăng thêm tính ấn tượng của vấn đề được nêu trong bài thơ. Chẳng hạn như:
“Rảnh việc nhà một lúc
Xem Nông cổ mấy phen
Khen ông Dũ Thúc tài hiền
Khuyên dân lạc nghiệp cần quyền nghề thương
Muốn cho quốc phú dân cường
Ra công dạy dỗ nghiệp trường nước ta…”
(Thể Nông cổ mín đàm ca, Nguyễn Chánh Sắt, NCMĐ, 1902)
Hoặc :
“Anh em ơi! Sở củi, nhà bò
Nó là cái ngục tam đồ ở xứ Côn Lôn
Nhác tai nghe tiếng đã kinh hồn
Làm thân trâu ngựa, biết còn chạy đâu?
Ôi, đành lòng ở đó ít lâu
Ngẫm xem cảnh vật cơ mầu ra sao ?”
(Thể Nông cổ mín đàm ca, Nguyễn Chánh Sắt, NCMĐ, 1902)
Tác phẩm được ghi chú là “viết theo điệu xẩm xoan”, nhưng thực chất đó cũng là những câu lục bát phá cách, có thể được viết lại thành lục bát đơn thuần rất dễ dàng bằng cách bỏ những chữ in nghiêng
Thể lục bát
Lục bát còn gọi là thể thơ sáu-tám hay thượng lục hạ bát. Điểm đặt biệt quan trọng nhất của thể thơ này chính là tính đại chúng và tính đa năng của nó với tính chất là một thể thơ phổ biến và tiêu biểu của người Việt Nam. Với khả năng phản ánh được những đặc trưng cơ bản của ngữ âm tiếng Việt, thể thơ này đã một có sức mạnh nghệ thuật vững bền và đầy sức thuyết phục, đã từng hiện diện cả trong hai dòng văn học cổ điển và bình dân trong suốt các chặng đường hình thành và phát triển của văn học dân tộc. Trong mảng thơ ca yêu nước Nam bộ nửa đầu thế kỷ XX, một lần nữa, thể thơ lục bát với tính chất là một thể thơ đa năng lại hiện diện trong thơ ca mang khuynh hướng yêu nước – cách mạng ở Nam Bộ trong gần nửa đầu của thế kỷ XX. Và đây là một lựa chọn của thơ ca mang khuynh hướng yêu nước – cách mạng với có đầy đủ cơ sở lý giải động cơ của sự lựa chọn đó.
Trong quá trình hình thành và phát triển của mình, thơ lục bát đã đạt được khả năng thể hiện những tinh hoa của ngôn ngữ dân tộc. “Lục bát thể hiện cảm thức cộng đồng ở mọi thời đại…Mỗi con chữ hằn rõ những dấu ấn của những trạng thái tâm lý tinh tế phức tạp của cá nhân trong cộng đồng xã hội”. [4; tr.26]. Người Việt Nam đã sử dụng lục bát trước hết vào mục đích thể hiện tình cảm, thể hiện tấm lòng trong các mối quan hệ, từ quan hệ cộng đồng như:
“Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng”
(Ca dao)
Hay trong quan hệ tình cảm gắn bó:
“Sông dài cá lội biệt tăm
Phải duyên chồng vợ trăm năm cũng chờ”
(Ca dao)
Lục bát gắn bó sâu xa với tâm thức cộng đồng bằng cả hai yếu tố ngôn từ và nhạc tính đặc biệt của thể thơ này. Ưu điểm của thể thơ lục bát nằm ở mô hình âm luật hoàn chỉnh của nó khiến thể thơ này đã dễ dàng biến lời nói tự nhiên chuyển thành thơ, nên bất kỳ một cặp câu lục bát hoàn chỉnh nào cũng chứa đựng những nét đặc trưng về ngữ âm, từ vựng và cú pháp của tiếng Việt, và từ đó nó dễ dàng giúp cho “tao nhân mặc khách mở miệng thành câu, khuê phụ, điền phu buông lời đúng điệu, cho đến ngạn ngữ ca dao các câu trẻ con đùa hát mà cũng đều tự nhiên đúng thể” [4; tr.26].
Những đặc điểm trên đã lý giải được vị trí vững vàng của thể thơ lục bát trong ca quá trình phát triển của văn học dân tộc. Từ văn học dân gian đến văn học bác học, với nhiều mục đích trữ tình hay chính trị xã hội, người ta đều có thể tiếp cận thể thơ này.
Sự xuất hiện của thể thơ lục bát trong thơ ca mang khuynh hướng yêu nước – cách mạng ở Nam Bộ từ 1900 – 1945 cũng không ra ngoài những ảnh hưởng từ tâm lý, tình cảm và lợi thế âm luật của thể thơ lục bát như đã nêu trên.
Điều ghi nhận đầu tiên từ ý nghĩa của số lượng khá nhiều các bài thơ lục bát từ Tổng thư mục thơ ca mang khuynh hướng yêu nước – cách mạng ở Nam Bộ đã cho thấy sự quán xuyến của cảm hứng vĩ mô trong hầu hết các bài lục bát trong thơ ca mang khuynh hướng yêu nước – cách mạng ở Nam Bộ thời kỳ này, thể hiện qua những phạm vi rộng lớn nhưng thống nhất của các trạng thái tinh thần, tình cảm của toàn xã hội khi đứng trước những đòi hỏi bức xúc của lịch sử, mà quan trọng nhất là yêu cầu độc lập tự do và canh tân đất nước. Nhiều tác giả của các bài lục bát đã thể hiện những trạng thái tâm hồn, tình cảm cũng như thái độ của mình trước thiên nhiên, đất nước, con người, xã hội.
Tuy nhiên, với sự thắng thế của cảm hứng vĩ mô, nên tính trữ tình trong thơ lục bát trong mảng thơ ca mang khuynh hướng yêu nước – cách mạng ở Nam Bộ cũng được định hướng rõ rệt.
Cách mạng ở Nam Bộ đã có một số bài thơ lục bát đã được dùng để biểu hiện những tình cảm với đất nước, làng quê, với dân tộc, với cộng đồng. Chẳng hạn như các bài Làng tôi tôi nhớ của Yến Lan, Sông Đồng Nai của Huỳnh Văn Nghệ…Trong các bài thơ này, có bài đã tận dụng được khá thành công tính chất uyển chuyển trong cơ chế nhịp điệu của thơ Lục bát để thể hiện nỗi niềm thương nhớ quê hương xa xôi hiện đã rời khỏi tầm tay mình bằng sự đan xen giữa cơ chế nhịp truyền thống 2/2 với những ngắt nhịp sáng tạo thể hiện rất rõ những cung bậc của tình cảm thương nhớ về cảnh vật và con người của làng xóm quê hương:
Mưa / đưa /thương nhớ về làng
Mưa /làm xa/ những dặm đàng bến sông
Chiều nay/ mở cửa ra trông
Thấy làng, đâu? /Chỉ thấy lòng/ mà thôi
Mưa ơi/ thương nhớ /bời bời
Bời bời/ thương nhớ/ mưa ơi, /khuất làng…
Ở đây /nắng mới/ ố vàng
Dừa cao lểnh khểnh, /cành xoan ngòng ngoèo…”
(Làng tôi tôi nhớ, Yến Lan, Gió mùa, 1941)
Hay trong bài Sông Đồng Nai của Huỳnh Văn Nghệ, ta cũng gặp hiện tượng ngắt nhịp rất sáng tạo làm cho sự thể hiện tình cảm trong bài thơ có một sắc thái rõ rệt hơn ở ý chí cương quyết tìm đến với những khoảng trời tự do rộng lớn bao la. Ý chí tự do ấy không chỉ là của hình tượng dòng sông hùng vĩ luôn hướng về đại dương mênh mông như một tất yếu, mà với cách ngắt nhịp sáng tạo và táo bạo, đã cho thấy đó còn là ý chí tự do của một dân tộc quyết không chịu khuất phục trước mọi ràng buộc tù hãm, mà luôn nuôi giữ, thực hiện khát vọng hoà nhập vào cộng đồng rộng lớn của thế giới:
“Dặm xa…/vượt núi băng ngàn
Gặp Là Ngà,/ nghĩa bạn vàng/ kết đôi
Thề:/ “Dù trắc trở núi đồi
Cũng liều /sống thác /tìm trời /tự do
Lệ trời/ tràn ngập /hồn thơ
Bao phen lỡ hận /chở bờ đau thương…
Gió ngang,/ thuyền ngược xuôi dòng
Đồng Nai/ hoà Thái Bình Dương/ dâng trào…”
(Sông Đồng Nai, Huỳnh Văn Nghệ) [6; tr.23]
Tuy nhiên, con số những bài thơ lục bát đạt được những thành tựu về nhịp điệu như trên trong thơ ca yêu nước nói chung là ít. Trong thơ ca mang khuynh hướng yêu nước – cách mạng ở Nam Bộ, câu thơ lục bát chủ yếu được sử dụng vào mục đích biểu hiện những trạng thái tình cảm mang tính chất hướng ngoại của con người. Và câu thơ lục bát với tính chất dân gian và tính chất mở rộng vô hạn của vần điệu đã tỏ ra có khả năng hài hòa tình cảm riêng tư với những tình cảm rộng lớn và mới mẻ như tình giai cấp, tình nhân loại, với lý tưởng cách mạng…Chẳng hạn như:
“Thân này giữa đảo chơi vơi
Âm thầm mơ đón cơ trời chuyển xoay
Thân kia dong ruổi đường mây
Việc đời một gánh đôi vai chưa sờn…”
(Đó đây, Đào Duy Kỳ) [2; tr. 447]
Đây là một hiện tượng có thể giải thích được từ sự ưu tiên mà xã hội lúc bấy giờ dành cho nhưng vấn đề cấp bách hơn, nóng bỏng hơn và thời sự hơn của dân tộc và đất nước.
Ghi nhận tiếp theo chính là khả năng chuyển tải rất đáng kể của thơ lục bát trên các bình diện khác nhau, với những sắc thái, cung bậc khác nhau của tâm tư con người trong sự chuyển biến từ tình cảm sang nhận thức trong mảng thơ mang khuynh hướng yêu nước – cách mạng ở Nam Bộ.
Vì thế, ta thấy trong thơ ca mang khuynh hướng yêu nước – cách mạng ở Nam Bộ, thể lục bát được sử dụng hữu hiệu trong những bài thơ có nội dung thể hiện những tình cảm mang đậm cảm hứng vĩ mô, hướng về lịch sử, hướng về dân tộc. Các bài lục bát trên thường hướng về chủ đề canh tân văn hóa xã hội như các bài: Danh dự và quê hương, Sự đoàn kết của Cao Hải Để, đăng trên báo Nông cổ mín đàm (NCMĐ) năm 1920; Huỳnh kim vấn đáp của Nguyễn Tư Thức, đăng trên báo Lục tỉnh tân văn (LTTV) năm 1907; Khuyến phu tấn bộ của Phạm Quang Nghiệp, đăng trên báo NCMĐ năm 1917; Vạn gia sanh phật của Phạm Ngọc Thùy, đăng trên báo LTTV năm 1908; Kêu nhau dậy cùng của Thái Minh Đạo, đăng trên báo Tân thế kỷ (TTK) năm 1927; Tế Nam không rõ tác giả, đăng trên báo LTTV năm 1908; Khóc tố đồng bào của Trần Ái Nam, đăng trên báo LTTV năm 1908. Hay các bài lục bát có chủ đề kêu gọi kêu gọi canh tân kinh tế như: Nam mô kinh tế của Nguyễn Giai và bài Chiêu hồn kinh tế Nam kỳ của Bùi Đình Khiêm, đều đăng trên báo Nữ giới chung (NGC) năm 1918; Cung tặng chư vị Nam trung của Nguyễn Khánh Tấn, Khuyến thương mãi ca của Huỳnh Công Thiệu, đăng trên báo LTTV năm 1908….
Thơ ca mang khuynh hướng yêu nước – cách mạng ở Nam Bộ chịu ảnh hưởng của tư tưởng cộng sản chủ nghĩa cũng không bỏ qua những thuận lợi lớn của thể thơ lục bát trong mục đích giác ngộ quần chúng công nông và tuyên truyền chủ nghĩa Mác Lê nin. Từ đó, mảng thơ này cũng đã có không ít các bài thơ lục bát như Trên bến Côn Lôn , Ra đi, Xuân tù của Đào Duy Kỳ, Giấc mơ của Nguyễn Văn Hoan [2; tr.281]….
Có thể xác định ngay rằng mục tiêu hướng về kêu gọi, thức tỉnh, tuyên truyền, cổ động đã chi phối rất mạnh diện mạo nghệ thuật chung của các tác phẩm lục bát trên.
Trước hết, đó là sự tận dụng lợi thế của tính chất “êm tai, thuận miệng” nhờ hệ thống âm luật đặc biệt của thể thơ lục bát dễ giúp người làm thơ có nhiều cơ hội bộc lộ những cảm xúc, nhận thức, dễ đạt được mục tiêu tuyên truyền, cổ động bằng khả năng kéo dài vô hạn nhưng không gây nhàm chán nhờ ở nhạc tính cao của thơ lục bát. Trong thơ ca mang khuynh hướng yêu nước – cách mạng ở Nam Bộ thời kỳ này, đa số các bài lục bát thường có dung lượng dài và lớn. Có như vậy mới đáp ứng được mục tiêu giáo dục, tuyên truyền, diễn giải. Và cũng với mục tiêu tuyên truyền, diễn giải, cổ động, nên âm điệu của nhiều bài thơ thường thuận theo tính chất tự nhiên của lời ăn tiếng nói hằng ngày, dễ tiếp nhận và dễ nhớ. Từ đó, hệ thống nhịp, vần của các bài lục bát kiểu này thường là hệ thống nhịp, vần căn bản. Chẳng hạn như:
“Cả kêu /phu tướng/ hỡi chàng
Ráng mà/ thức dậy /lo toan /việc nhà
Kìa chàng/ liếc mắt /xem qua
Trong trần/ thầy thợ/ người ta /dập dìu
Này buôn/ nọ bán /mọi điều
Tranh giành /mối lợi/ xem nhiều lắm tay
Nghĩ chàng/ là phận râu mày
Nỡ nào/ mà lại/ đem mài /thân danh….”
(Khuyến phu tấn bộ của Phạm Quang Nghiệp, NCMĐ, 1917)
Hay :
“Này đây /Hắc Hải/ năm xưa,
Gió reo /còn tưởng/ quân thù/ thở than!
Này đây /các nước/ liên bang,
Các dân tộc /sống ngang hàng/ anh em...”
(Giấc mơ, Nguyễn Văn Hoan) [2; tr.282]
Thơ lục bát còn có những hình thức phá cách hoặc phối hợp với các thể khác
để có thể đáp ứng yêu cầu cao về tính mục đích của thơ ca mang khuynh hướng yêu nước – cách mạng ở Nam Bộ thời kỳ này. Chẳng hạn như phá cách về số chữ, về vị trí của vần…để tăng thêm tính ấn tượng của vấn đề được nêu trong bài thơ. Chẳng hạn như:
“Rảnh việc nhà một lúc
Xem Nông cổ mấy phen
Khen ông Dũ Thúc tài hiền
Khuyên dân lạc nghiệp cần quyền nghề thương
Muốn cho quốc phú dân cường
Ra công dạy dỗ nghiệp trường nước ta…”
(Thể Nông cổ mín đàm ca, Nguyễn Chánh Sắt, NCMĐ, 1902)
Hoặc :
“Anh em ơi! Sở củi, nhà bò
Nó là cái ngục tam đồ ở xứ Côn Lôn
Nhác tai nghe tiếng đã kinh hồn
Làm thân trâu ngựa, biết còn chạy đâu?
Ôi, đành lòng ở đó ít lâu
Ngẫm xem cảnh vật cơ mầu ra sao ?”
(Thể Nông cổ mín đàm ca, Nguyễn Chánh Sắt, NCMĐ, 1902)
Tác phẩm được ghi chú là “viết theo điệu xẩm xoan”, nhưng thực chất đó cũng là những câu lục bát phá cách, có thể được viết lại thành lục bát đơn thuần rất dễ dàng bằng cách bỏ những chữ in nghiêng
Sửa lần cuối bởi điều hành viên: