Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Nhân Vật Lịch Sử
Các nhân vật trong Tam quốc diễn nghĩa
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="khánh ngân" data-source="post: 101667" data-attributes="member: 118553"><p><strong>Gia Cát Lượng</strong></p><p></p><p><span style="font-family: 'Times New Roman'"> <span style="font-size: 15px"><span style="color: black"><strong>Gia Cát Lượng</strong> (tiếng Hán: 诸葛亮; Phiên âm: Zhūge Liàng) (181–234) là vị quân sư và đại thần của nước Thục thời hậu Hán. Ông là một chính trị gia, nhà quân sự, học giả. Trong quân sự, ông đã tạo ra các chiến thuật như: Bát trận đồ (Hình vẽ tám trận), Liên nỏ (Nỏ Liên Châu, tên bắn ra liên tục), Mộc ngưu lưu mã (trâu gỗ ngựa máy ). Tương truyền ông còn là người chế ra đèn trời (Khổng Minh đăng) và món bánh bao. Gia Cát Lượng được biết tới nhiều qua tác phẩm Tam Quốc Diễn Nghĩa.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Times New Roman'"> <span style="font-size: 15px"><span style="color: black">Gia Cát Lượng là người đất Dương Đô (nay thuộc tỉnh Sơn Đông) quận Lang Nha đời Thục Hán, sinh vào mùa Thu năm Tân Dậu (Tam Quốc), tự <strong>Khổng Minh</strong>, Gia Cát (諸葛) là một họ kép ít gặp. Ông mồ côi từ bé, thuở trẻ thường tự ví tài mình như Quản Trọng, Nhạc Nghị. Sau tị nạn sang Kinh Châu rồi đến ở đất Nam Dương thuộc vùng Long Trung, chỗ ở có trái núi Ngọa Long cương, nhân thế tự gọi là <strong>Ngọa Long tiên sinh</strong>, tự mình cày ruộng, thích làm ca từ theo khúc "Lương Phủ Ngâm".</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Times New Roman'"> <span style="font-size: 15px"><span style="color: black">Ông có 3 anh em, anh cả Gia Cát Cẩn làm quan bên Đông Ngô, em thứ là Gia Cát Quân không làm quan. Ông là người tài giỏi nhất nên người đời sau ví Lưu Bị được rồng trong số 3 người (Lưu, Tào, Tôn).</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Times New Roman'"> <span style="font-size: 15px"><span style="color: black">Tương truyền ông học giỏi một phần nhờ vợ là Hoàng Nguyệt Anh, một người rất xấu nhưng có tài năng, </span></span></span><a href="https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Con_g%C3%A1i&action=edit&redlink=1" target="_blank"><span style="font-family: 'Times New Roman'"> <span style="font-size: 15px"><span style="color: black">con gi</span></span></span></a><span style="font-family: 'Times New Roman'"> <span style="font-size: 15px"><span style="color: black"> của danh sĩ Hoàng Thừa Ngạn ở Nhữ Nam. Người đời mới có câu thơ:</span></span></span></p><p><em><span style="font-family: 'Times New Roman'"> <span style="font-size: 15px"><span style="color: black">Mạc học Khổng Minh trạch phụ</span></span></span></em><em><span style="font-family: 'Times New Roman'"> <span style="font-size: 15px"><span style="color: black">Chi đắc A Thừa xú nữ</span></span></span></em><span style="font-family: 'Times New Roman'"> <span style="font-size: 15px"><span style="color: black">Theo sách <em>"Khổng Minh Gia Cát Lượng"</em>, chữ "Cát" trong họ Gia Cát của ông có nguồn gốc từ việc ông là dòng dõi của Cát Anh, một tướng theo Trần Thắng khởi nghĩa chống Tần. Cát Anh có công, bị Trần Thắng giết oan. Khi Hán Văn Đế lên ngôi đã sai người tìm dòng dõi Cát Anh và cấp đất Gia làm nơi ăn lộc. Một chi sau này lấy sang họ Gia Cát - ghép chữ "Cát" cũ và đất "Gia".</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Times New Roman'"> <span style="font-size: 15px"><span style="color: black">.[ATTACH]6501[/ATTACH]</span></span></span></p><p> </p><p><span style="font-family: 'Times New Roman'"> <span style="font-size: 15px"><span style="color: black">Khi Lưu Bị ở Tân Dã, có đến Tư Mã Đức Tháo bàn việc thiên hạ. Tư Mã Đức Tháo có nói: "<em>Bọn nho sinh đời nay chỉ là một phường tục sĩ, hạng tuấn kiệt chỉ có hai người, đó là Ngoạ Long và Phượng Sồ. Ngoạ Long tức Gia Cát Khổng Minh, Phượng Sồ tức Bàng Thống tự Sỹ Nguyên.</em>" Lưu Bị 3 lần thân đến Long Trung mời Khổng Minh ra giúp, tôn ông làm quân sư. Lúc bấy giờ là năm 208, Lưu Bị 47 tuổi, Gia Cát Lượng chỉ mới 27 tuổi.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Times New Roman'"> <span style="font-size: 15px"><span style="color: black">Khổng Minh đã giúp Lưu Bị cùng với Tôn Quyền đánh bại Tào Tháo ở Xích Bích, lấy Kinh Châu, định hai Xuyên, dựng nước ở đất Thục, cùng với Ngụy ở phía bắc, Ngô ở phía đông làm thành thế chân vạc. Lưu Bị lên ngôi hoàng đế, Khổng Minh giữ chức Thừa tướng, một lòng khôi phục lại cơ nghiệp nhà Hán, phía đông hòa Tôn Quyền, phía nam bình </span></span></span><a href="https://vi.wikipedia.org/wiki/M%E1%BA%A1nh_Ho%E1%BA%A1ch" target="_blank"><span style="font-family: 'Times New Roman'"> <span style="font-size: 15px"><span style="color: black">Mạnh Hoạch</span></span></span></a></p><p><a href="https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BA%ADp_tin:Zhugeliang_Temple.jpg" target="_blank"><span style="font-family: 'Times New Roman'"> <span style="font-size: 15px"><span style="color: black"><img src="https://bits.wikimedia.org/skins-1.17/common/images/magnify-clip.png" alt="" class="fr-fic fr-dii fr-draggable " data-size="" style="" /></span></span></span></a></p><p><span style="font-family: 'Times New Roman'"> <span style="font-size: 15px"><span style="color: black">Đền thờ Gia Cát Lượng</span></span></span></p><p> </p><p><a href="https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BA%ADp_tin:Zhugeliang_Temple.jpg" target="_blank"><span style="font-family: 'Times New Roman'"> <span style="font-size: 15px"><span style="color: black"><img src="https://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/4/44/Zhugeliang_Temple.jpg/250px-Zhugeliang_Temple.jpg" alt="" class="fr-fic fr-dii fr-draggable " data-size="" style="" /></span></span></span></a></p><p><span style="font-family: 'Times New Roman'"> <span style="font-size: 15px"><span style="color: black">Mùa hạ năm 221, vừa lên ngôi, Lưu Bị đã muốn lấy lại Kinh Châu và tháng 7 năm đó, để trả thù cho Quan Vũ nên Lưu Bị đã tuyến bố tuyệt giao với Đông Ngô, đem đại quân tiến đánh Tôn Quyền. Lưu Bị đánh Đông Ngô là vi phạm sách lược "liên Ngô chống Tào" của Gia Cát Lượng. Gia Cát Lượng biết đánh Ngô hại nhiều hơn lợi nhưng không can ngăn nổi Lưu Bị nên dẫn đến bi thảm Hào Đình, thất bại ở Tỷ Quy.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Times New Roman'"> <span style="font-size: 15px"><span style="color: black">Lưu Bị trước khi chết đã uỷ thác việc nước cho Gia Cát Lượng, nói rằng: "Tài năng của ông cao hơn Tào Phi (con trai Tào Tháo, lúc này là vua nước Ngụy) gấp 10 lần, nhất định có thể làm cho nước nhà ổn định, hoàn thành sự nghiệp thống nhất đất nước. Nếu như Lưu Thiện con tôi không làm được gì, mong ông giúp đỡ còn như nó bất tài thực sự, ông có thể thay nó". Lưu Bị còn để lại di chúc bắt Lưu Thiện phải kính nể Gia Cát Lượng như cha đẻ.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Times New Roman'"> <span style="font-size: 15px"><span style="color: black">Nhà vua Lưu Thiện mới 17 tuổi không có tài, Gia Cát Lượng phải lo lắng toàn cục, chỉnh đốn nội bộ và chấn chỉnh lực lượng. Dưới sự cai trị của ông, nước Thục dần dần mạnh lên. Sau khi trừ bỏ được những lo lắng trong nước, Gia Cát Lượng đã đem quân xuống phía nam để bình định bọn nổi loạn. Gia Cát Lượng ra quân không lâu đã bắt sống được Mạnh Hoạch. Ví dụ nổi tiếng về việc Gia Cát Lượng "chiếm lòng người" chính là việc 7 lần bắt, 7 lần tha Mạnh Hoạch, cho đến khi Mạnh Hoạch thực sự chịu phục.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Times New Roman'"> <span style="font-size: 15px"><span style="color: black">Gia Cát Lượng Bắc phạt cả thảy là 7 năm, phát động 4 lần đánh nhau. Mấy lần xuất quân đều chưa giành được thắng lợi hoàn toàn do Lý Nghiêm trễ nải cấp lương nên giả truyền thánh chỉ, 2 lần khác do Lưu Thiện nghe lời gièm pha mà nửa chừng hạ chiếu lui quân.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Times New Roman'"> <span style="font-size: 15px"><span style="color: black">Tháng 8 năm 234, do khó nhọc mà Gia Cát Lượng sinh bệnh rồi mất, lúc bấy giờ ông mới 54 tuổi, được phong tặng là <strong>Trung Vũ Hầu</strong> người đời thường gọi là <strong>Gia Cát Vũ Hầu</strong>. Ông được chôn tại ngọn núi Định Quân ở vùng Hán Trung. Ông mất mà vẫn không trung hương được nhà Hán, nước vẫn ở thế chân vạc chia ba. Ba mươi năm sau khi ông mất, Lưu Thiện đầu hàng nước Ngụy, nước Thục bị diệt vong.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Times New Roman'"> <span style="font-size: 15px"><span style="color: black">Suốt hai đời vua là Lưu Bị và Lưu Thiện, mọi việc </span></span></span><a href="https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%C3%ADnh_tr%E1%BB%8B" target="_blank"><span style="font-family: 'Times New Roman'"> <span style="font-size: 15px"><span style="color: black">chính trị</span></span></span></a><span style="font-family: 'Times New Roman'"> <span style="font-size: 15px"><span style="color: black">, </span></span></span><a href="https://vi.wikipedia.org/wiki/Qu%C3%A2n_s%E1%BB%B1" target="_blank"><span style="font-family: 'Times New Roman'"> <span style="font-size: 15px"><span style="color: black">quân sự</span></span></span></a><span style="font-family: 'Times New Roman'"> <span style="font-size: 15px"><span style="color: black"> và </span></span></span><a href="https://vi.wikipedia.org/wiki/Kinh_t%E1%BA%BF" target="_blank"><span style="font-family: 'Times New Roman'"> <span style="font-size: 15px"><span style="color: black">kinh tế</span></span></span></a><span style="font-family: 'Times New Roman'"> <span style="font-size: 15px"><span style="color: black"> ở Thục đều do một tay Khổng Minh chủ trương và thi hành. Ông giỏi về binh thư binh pháp, có tài về nội trị, ngoại giao, được xem là văn võ kiêm toàn, tài đức lưỡng bị... nên được hậu thế gọi là "vạn đại quân sư", coi là một tấm gương sáng cho muôn thuở.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'Times New Roman'"> <span style="font-size: 15px">(ST)</span></span></p></blockquote><p></p>
[QUOTE="khánh ngân, post: 101667, member: 118553"] [b]Gia Cát Lượng[/b] [FONT=Times New Roman] [SIZE=4][COLOR=black][B]Gia Cát Lượng[/B] (tiếng Hán: 诸葛亮; Phiên âm: Zhūge Liàng) (181–234) là vị quân sư và đại thần của nước Thục thời hậu Hán. Ông là một chính trị gia, nhà quân sự, học giả. Trong quân sự, ông đã tạo ra các chiến thuật như: Bát trận đồ (Hình vẽ tám trận), Liên nỏ (Nỏ Liên Châu, tên bắn ra liên tục), Mộc ngưu lưu mã (trâu gỗ ngựa máy ). Tương truyền ông còn là người chế ra đèn trời (Khổng Minh đăng) và món bánh bao. Gia Cát Lượng được biết tới nhiều qua tác phẩm Tam Quốc Diễn Nghĩa.[/COLOR][/SIZE][/FONT] [FONT=Times New Roman] [SIZE=4][COLOR=black]Gia Cát Lượng là người đất Dương Đô (nay thuộc tỉnh Sơn Đông) quận Lang Nha đời Thục Hán, sinh vào mùa Thu năm Tân Dậu (Tam Quốc), tự [B]Khổng Minh[/B], Gia Cát (諸葛) là một họ kép ít gặp. Ông mồ côi từ bé, thuở trẻ thường tự ví tài mình như Quản Trọng, Nhạc Nghị. Sau tị nạn sang Kinh Châu rồi đến ở đất Nam Dương thuộc vùng Long Trung, chỗ ở có trái núi Ngọa Long cương, nhân thế tự gọi là [B]Ngọa Long tiên sinh[/B], tự mình cày ruộng, thích làm ca từ theo khúc "Lương Phủ Ngâm".[/COLOR][/SIZE][/FONT] [FONT=Times New Roman] [SIZE=4][COLOR=black]Ông có 3 anh em, anh cả Gia Cát Cẩn làm quan bên Đông Ngô, em thứ là Gia Cát Quân không làm quan. Ông là người tài giỏi nhất nên người đời sau ví Lưu Bị được rồng trong số 3 người (Lưu, Tào, Tôn).[/COLOR][/SIZE][/FONT] [FONT=Times New Roman] [SIZE=4][COLOR=black]Tương truyền ông học giỏi một phần nhờ vợ là Hoàng Nguyệt Anh, một người rất xấu nhưng có tài năng, [/COLOR][/SIZE][/FONT][URL="https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Con_g%C3%A1i&action=edit&redlink=1"][FONT=Times New Roman] [SIZE=4][COLOR=black]con gi[/COLOR][/SIZE][/FONT][/URL][FONT=Times New Roman] [SIZE=4][COLOR=black] của danh sĩ Hoàng Thừa Ngạn ở Nhữ Nam. Người đời mới có câu thơ:[/COLOR][/SIZE][/FONT] [I][FONT=Times New Roman] [SIZE=4][COLOR=black]Mạc học Khổng Minh trạch phụ[/COLOR][/SIZE][/FONT][/I][I][FONT=Times New Roman] [SIZE=4][COLOR=black]Chi đắc A Thừa xú nữ[/COLOR][/SIZE][/FONT][/I][FONT=Times New Roman] [SIZE=4][COLOR=black]Theo sách [I]"Khổng Minh Gia Cát Lượng"[/I], chữ "Cát" trong họ Gia Cát của ông có nguồn gốc từ việc ông là dòng dõi của Cát Anh, một tướng theo Trần Thắng khởi nghĩa chống Tần. Cát Anh có công, bị Trần Thắng giết oan. Khi Hán Văn Đế lên ngôi đã sai người tìm dòng dõi Cát Anh và cấp đất Gia làm nơi ăn lộc. Một chi sau này lấy sang họ Gia Cát - ghép chữ "Cát" cũ và đất "Gia".[/COLOR][/SIZE][/FONT] [FONT=Times New Roman] [SIZE=4][COLOR=black].[ATTACH=CONFIG]6501[/ATTACH][/COLOR][/SIZE][/FONT] [FONT=Times New Roman] [SIZE=4][COLOR=black]Khi Lưu Bị ở Tân Dã, có đến Tư Mã Đức Tháo bàn việc thiên hạ. Tư Mã Đức Tháo có nói: "[I]Bọn nho sinh đời nay chỉ là một phường tục sĩ, hạng tuấn kiệt chỉ có hai người, đó là Ngoạ Long và Phượng Sồ. Ngoạ Long tức Gia Cát Khổng Minh, Phượng Sồ tức Bàng Thống tự Sỹ Nguyên.[/I]" Lưu Bị 3 lần thân đến Long Trung mời Khổng Minh ra giúp, tôn ông làm quân sư. Lúc bấy giờ là năm 208, Lưu Bị 47 tuổi, Gia Cát Lượng chỉ mới 27 tuổi.[/COLOR][/SIZE][/FONT] [FONT=Times New Roman] [SIZE=4][COLOR=black]Khổng Minh đã giúp Lưu Bị cùng với Tôn Quyền đánh bại Tào Tháo ở Xích Bích, lấy Kinh Châu, định hai Xuyên, dựng nước ở đất Thục, cùng với Ngụy ở phía bắc, Ngô ở phía đông làm thành thế chân vạc. Lưu Bị lên ngôi hoàng đế, Khổng Minh giữ chức Thừa tướng, một lòng khôi phục lại cơ nghiệp nhà Hán, phía đông hòa Tôn Quyền, phía nam bình [/COLOR][/SIZE][/FONT][URL="https://vi.wikipedia.org/wiki/M%E1%BA%A1nh_Ho%E1%BA%A1ch"][FONT=Times New Roman] [SIZE=4][COLOR=black]Mạnh Hoạch[/COLOR][/SIZE][/FONT][/URL] [URL="https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BA%ADp_tin:Zhugeliang_Temple.jpg"][FONT=Times New Roman] [SIZE=4][COLOR=black][IMG]https://bits.wikimedia.org/skins-1.17/common/images/magnify-clip.png[/IMG][/COLOR][/SIZE][/FONT][/URL] [FONT=Times New Roman] [SIZE=4][COLOR=black]Đền thờ Gia Cát Lượng[/COLOR][/SIZE][/FONT] [URL="https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BA%ADp_tin:Zhugeliang_Temple.jpg"][FONT=Times New Roman] [SIZE=4][COLOR=black][IMG]https://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/4/44/Zhugeliang_Temple.jpg/250px-Zhugeliang_Temple.jpg[/IMG][/COLOR][/SIZE][/FONT][/URL] [FONT=Times New Roman] [SIZE=4][COLOR=black]Mùa hạ năm 221, vừa lên ngôi, Lưu Bị đã muốn lấy lại Kinh Châu và tháng 7 năm đó, để trả thù cho Quan Vũ nên Lưu Bị đã tuyến bố tuyệt giao với Đông Ngô, đem đại quân tiến đánh Tôn Quyền. Lưu Bị đánh Đông Ngô là vi phạm sách lược "liên Ngô chống Tào" của Gia Cát Lượng. Gia Cát Lượng biết đánh Ngô hại nhiều hơn lợi nhưng không can ngăn nổi Lưu Bị nên dẫn đến bi thảm Hào Đình, thất bại ở Tỷ Quy.[/COLOR][/SIZE][/FONT] [FONT=Times New Roman] [SIZE=4][COLOR=black]Lưu Bị trước khi chết đã uỷ thác việc nước cho Gia Cát Lượng, nói rằng: "Tài năng của ông cao hơn Tào Phi (con trai Tào Tháo, lúc này là vua nước Ngụy) gấp 10 lần, nhất định có thể làm cho nước nhà ổn định, hoàn thành sự nghiệp thống nhất đất nước. Nếu như Lưu Thiện con tôi không làm được gì, mong ông giúp đỡ còn như nó bất tài thực sự, ông có thể thay nó". Lưu Bị còn để lại di chúc bắt Lưu Thiện phải kính nể Gia Cát Lượng như cha đẻ.[/COLOR][/SIZE][/FONT] [FONT=Times New Roman] [SIZE=4][COLOR=black]Nhà vua Lưu Thiện mới 17 tuổi không có tài, Gia Cát Lượng phải lo lắng toàn cục, chỉnh đốn nội bộ và chấn chỉnh lực lượng. Dưới sự cai trị của ông, nước Thục dần dần mạnh lên. Sau khi trừ bỏ được những lo lắng trong nước, Gia Cát Lượng đã đem quân xuống phía nam để bình định bọn nổi loạn. Gia Cát Lượng ra quân không lâu đã bắt sống được Mạnh Hoạch. Ví dụ nổi tiếng về việc Gia Cát Lượng "chiếm lòng người" chính là việc 7 lần bắt, 7 lần tha Mạnh Hoạch, cho đến khi Mạnh Hoạch thực sự chịu phục.[/COLOR][/SIZE][/FONT] [FONT=Times New Roman] [SIZE=4][COLOR=black]Gia Cát Lượng Bắc phạt cả thảy là 7 năm, phát động 4 lần đánh nhau. Mấy lần xuất quân đều chưa giành được thắng lợi hoàn toàn do Lý Nghiêm trễ nải cấp lương nên giả truyền thánh chỉ, 2 lần khác do Lưu Thiện nghe lời gièm pha mà nửa chừng hạ chiếu lui quân.[/COLOR][/SIZE][/FONT] [FONT=Times New Roman] [SIZE=4][COLOR=black]Tháng 8 năm 234, do khó nhọc mà Gia Cát Lượng sinh bệnh rồi mất, lúc bấy giờ ông mới 54 tuổi, được phong tặng là [B]Trung Vũ Hầu[/B] người đời thường gọi là [B]Gia Cát Vũ Hầu[/B]. Ông được chôn tại ngọn núi Định Quân ở vùng Hán Trung. Ông mất mà vẫn không trung hương được nhà Hán, nước vẫn ở thế chân vạc chia ba. Ba mươi năm sau khi ông mất, Lưu Thiện đầu hàng nước Ngụy, nước Thục bị diệt vong.[/COLOR][/SIZE][/FONT] [FONT=Times New Roman] [SIZE=4][COLOR=black]Suốt hai đời vua là Lưu Bị và Lưu Thiện, mọi việc [/COLOR][/SIZE][/FONT][URL="https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%C3%ADnh_tr%E1%BB%8B"][FONT=Times New Roman] [SIZE=4][COLOR=black]chính trị[/COLOR][/SIZE][/FONT][/URL][FONT=Times New Roman] [SIZE=4][COLOR=black], [/COLOR][/SIZE][/FONT][URL="https://vi.wikipedia.org/wiki/Qu%C3%A2n_s%E1%BB%B1"][FONT=Times New Roman] [SIZE=4][COLOR=black]quân sự[/COLOR][/SIZE][/FONT][/URL][FONT=Times New Roman] [SIZE=4][COLOR=black] và [/COLOR][/SIZE][/FONT][URL="https://vi.wikipedia.org/wiki/Kinh_t%E1%BA%BF"][FONT=Times New Roman] [SIZE=4][COLOR=black]kinh tế[/COLOR][/SIZE][/FONT][/URL][FONT=Times New Roman] [SIZE=4][COLOR=black] ở Thục đều do một tay Khổng Minh chủ trương và thi hành. Ông giỏi về binh thư binh pháp, có tài về nội trị, ngoại giao, được xem là văn võ kiêm toàn, tài đức lưỡng bị... nên được hậu thế gọi là "vạn đại quân sư", coi là một tấm gương sáng cho muôn thuở.[/COLOR][/SIZE][/FONT] [FONT=Times New Roman] [SIZE=4](ST)[/SIZE][/FONT] [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Nhân Vật Lịch Sử
Các nhân vật trong Tam quốc diễn nghĩa
Top