Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KIẾN THỨC PHỔ THÔNG
Trung Học Phổ Thông
Ngữ văn THPT
Hỏi Đáp ngữ văn THPT
Các loại hình văn học Việt Nam
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="liti" data-source="post: 32222" data-attributes="member: 2098"><p><strong>9 - Điển cố</strong></p><p></p><p>Thuật ngữ của giới nghiên cứu nhằm mô tả một trong những đặc điểm nổi bật của văn học trung đại Việt Nam, vốn chịu ảnh hưởng văn học cổ và trung đại Trung Hoa.</p><p></p><p>Do những nguyên nhân khác nhau, đã hình thành một tâm thế, một phong cách của những người làm văn: trong hành văn thường hay nhắc đến một sự tích xưa hoặc một vài câu thơ, câu văn cổ để diễn tả ý mình, nhưng đây không phải là lối trích dẫn nguyên văn, mà là lối dùng lại vài chữ cốt gợi nhớ được đến tích cũ ấy, câu văn cổ ấy. Lối này được gọi chung là dùng điển cố, bao gồm phép dùng điển và phép lấy chữ.</p><p></p><p>"Dùng điển" (chữ Hán: dụng điển - dụng: vận dụng; điển: việc cũ; hoặc sử sự - khiến việc) ý nói "sai khiến" các tích cũ chuyện xưa cho thích dụng vào văn mạch của mình. Các "điển" gồm các tình tiết đã được chép trong sử sách, kinh truyện, kể cả các tình tiết hoang đường, hư cấu đã được viết ra trong những tác phẩm nổi tiếng thời trước. Ví dụ ở hai câu " Truyện Kiều": " Nghìn vàng gọi chút lễ thường - Mà lòng Xiếu Mẫu mấy vàng cho cân", các từ "nghìn vàng" và "Xiếu Mẫu" là nhắc đến một sự việc đã chép trong "sử kí"(của sử gia Trung Quốc Tư Mã Thiên: 145 - 86 trước Công nguyên): Hàn Tín thuở hàn vi có lần được bà Xiêu Mẫu cho bát cơm, sau Tín trở nên phú quý trả ơn bà một nghìn lạng vàng. Hoặc những câu "Truyện Kiều": "Dù khi lá thắm chỉ hồng", "Nàng rằng hồng điệp xích thằng" là nhắc đến một điển trong "Tình sử" (một pho sách chép các truyện tình duyên) hàm ý nói việc hôn nhân.</p><p></p><p>"Lấy chữ" là mượn dùng lại một vài chữ trong các áng văn thơ cổ vào câu văn của mình, gợi cho người đọc phải nhớ đến câu thơ, câu văn ở tác phẩm của người xưa. Ví dụ ở "Khóa hư lục" (chữ Hán) có câu : " Nữ tử sính khuynh thành chi diễm" (gái thích khoe sắc đẹp khuynh thành); ở "Cung oán ngâm khúc"(chữ Nôm) có câu "Khóe thu ba gợn sóng khuynh thành"; ở "Truyện Kiều" có câu "Một hai nghiêng nước nghiêng thành"; các trường hợp này đều lấy hai chữ "khuynh thành" ở thơ Lý Diên Niên (nhà thơ Trung Quốc, thời Hán) tả sắc đẹp thiếu nữ "Nhất tố khuynh thành, tái cố khuynh nhân quốc" (ngoảnh lại một lần làm nghiêng thành, ngoảnh lại lần nữa làm nghiêng nước).</p><p></p><p>Lối dùng điển cố tạo cho câu văn, câu thơ cô đúc, hàm súc, gây thú vị cho người đọc vốn sành văn thơ cổ, lai cũng tránh nói thẳng các điều thô tục, sỗ sàng, khiến cho văn chương giữ được vẻ trang nhã (ví dụ trong "Truyện Kiều", những cách nói "trên bộc trong dâu", "nguyệt nọ hoa kia"," mây mưa", v.v...đều dùng điển cố để ám chỉ các truyện trai gái, dâm bôn); lối dùng điển cố có khi tựa như dẫn chứng tích cũ lời xưa, tạo thêm lí lẽ trong văn mạch.</p><p></p><p>Dùng điển cố là một tâm thế sáng tác phổ biến, một thứ "mốt" kéo dài suốt thời cổ và trung đại của các nền văn học chịu ảnh hưởng của trung tâm văn hóa Trung Hoa; do vậy hàng loạt những sự tích trong sử sách, kinh truyện, hàng loạt ý tứ và câu chữ trong văn thơ cổ điển Trung Quốc được các văn nhân, thi sĩ sử dụng như những môtip hoặc câu chữ tách rời nguyên bản, trở thành "những lời có cánh", trở thành một kho thi liệu và văn liệu dùng chung. Lối dùng điển cố, do vậy, là một lối vay mượn mang tính từ chương thuần túy. Nó là cách làm đẹp, làm sang cho văn chương, tạo cho văn chương những nét quý phái, uyên bác.</p><p></p><p>Tuy nhiên, do xu hướng tùy chương thuần túy, lối dùng điển cố cũng tạo cho các thế hệ hậu sinh thói quen dẫm theo đường mòn, nhất là ở thời kì cuối của văn học thuộc phạm trù trung đại, khi cái kho thi liệu, văn liệu này trở nên những khuôn khổ sáo mòn.</p><p></p><p>Do cơ sở bề sâu là quan niệm noi theo cổ nhân, "thuật nhi bất tác", lối dùng điển cố đã bị từ bỏ (hoặc bị sử dụng lai theo lối nhại) trong các sáng tác văn học thuộc phạm trù hiện đại (mà cơ sở là quan niệm về tính "bản quyền", tính độc đáo nguyên bản của tác giả như một chủ thể duy nhất của những tác phẩm do mình sáng tác, in dấu cá tính sáng tạo của riêng mình). Tuy vậy, dấu vết của lối dùng điển cố vẫn còn thấy rõ trong các phong trào văn học ở thời hiện đại và đương đại, khi các tìm tòi sáng tạo mới ( về đề tài, bút pháp, câu tứ, v.v...) của những người mở đầu phong trào trở thành những khuôn hình có sẵn để những cây bút ở cuối phong trào ấy lặp lại.</p><p>---------------------</p><p></p><p><strong>10 - Đường luật</strong></p><p></p><p>Một thể thơ tiếng Việt mà cách luật mô phỏng thi luật Trung Hoa.</p><p>Luật thơ này áp dụng cho các thể ngũ ngôn và thất ngôn (câu thơ 5 âm tiết, câu thơ 7 âm tiết), được đặt ra từ đời Đường (618 - 907) nên gọi là thơ Đường luật (ở Trung Hoa khi đặt ra thể này, người ta gọi nó là cận thể - thể gần đây - để phân biệt với cổ thể - thể xưa, tức là thể cổ phong vốn có từ trước thời Đường).</p><p></p><p>Cách luật của thể thơ này rất chặt chẽ, gồm các yêu cầu về:</p><p></p><p>1.Vần</p><p>2.Đối</p><p>3.Luật</p><p>4.Niêm</p><p>5.Cách bố cục</p><p></p><p>Về vần (chữ Hán: vận, trỏ những âm tiết có chung phần vần hoặc phần vần tương đối gần nhau), thơ Đường luật thường dùng vần bằng, ít dùng vần trắc; mỗi loại thơ chỉ dùng một vần (độc vận); một bài thơ Đường luật bát cú (ngũ ngôn hoặc thất ngôn) có cả thảy 5 chỗ hiệp vần, giao ở cuối câu đầu và cuối câu chẵn; như vậy ở đây chỉ dùng vần chân (cước vận). trường hợp gieo vần sai lạc (lạc vận) hoặc gượng ép (cưỡng áp) đều là sai phạm.</p><p></p><p>Về đối (đối: dặt sóng đôi sao cho ý và chữ đối xứng nhau) gồm: đối ý - hai ý tưởng cân xứng với nhau, và đối chữ - những chữ đêm đối phải đối nhau về thanh (bằng đối với trắc và ngược lại) và tương xứng về từ loại (phải cùng một từ loại, tức cùng là danh từ hoặc cùng là động từ, v.v...); một bài thơ Đường luật bát cú (thất ngôn, ngũ ngôn)phải có đối ở 4 câu giữa bài: câu 3 đối với câu 4, câu 5 đối với câu 6.</p><p></p><p>Về luật, đây chủ yếu nói về luật bằng trắc, tức là sự quy định về cách phân bố các âm tiết mang thanh bằng và các âm tiết mang thanh trắc. nếu âm tiết (chữ, tiếng) thứ 2 của câu thơ thứ nhất là vần bằng thì bài thơ thuộc luật bằng, nếu vần trắc thì bài thơ thuộc luật trắc. Sự sắp xếp theo luật này tạo cho ở mỗi câu, các cặp bằng trắc lần lượt thay nhau; ở mỗi cặp câu (còn gọi là "liên"), các âm tiết tương ứng ở các câu số lẻ và số chẵn phải mang thanh điệu ngược nhau (trừ các âm tiết thứ 5 và thứ 7 ở liên đầu)...</p><p></p><p>Việc theo đúng luật bằng trắc như quy định là việc rất khó nên cũng có lệ "bất luận" (không kể) tức là có một số vị trí không cần giữ đúng luật; lệ này là "nhất tam bất luận" (các âm tiết thứ nhất và thứ 3) cho thể ngũ ngôn, và "nhất tam ngũ bất luận" (các âm tiết thứ nhất, thứ 3 và thứ 5)cho thể thất ngôn; các vị trí này có thể là bằng hay trắc đều được. Tuy vậy nếu theo lệ bất luận này mà chỗ đáng trắc lại đổi ra bằng hoặc ngược lại, thì sẽ khiến câu thơ thành ra khổ độc (khó đọc), đó là các trường hợp: ở thể ngũ ngôn, âm tiết thứ nhất các câu chẵm và âm tiết thứ 3 của tất cả các câu đáng bằng lai đổi ra trắc; ở thể thất ngốn, âm tiết thứ 3 của câu chẵn và âm tiết thứ 5 các câu lẻ đáng bằng lại đổi ra trắc; các trường hợp " khổ độc" đều là sai phạm. Mọi trường hợp đáng bằng mà lại đổi ra trắc hoặc ngược lại đều gọi là "thất luật" (sai luật), không được phạm.</p><p></p><p>Về niêm (niêm: nghĩa đenlà dính) tức là sự gắn bó về âm luật giữa 2 câu thơ: chúng là niêm với nhau khi âm tiết thứ 2 của chúng theo cùng một luật (bằng cùng bằng, trắc cùng trắc). ở một bài Đường luật bát cú, những câu phải niêm với nhau là : 1 và 8; 2 với 3; 4 với 5 ; 6 với 7; 8 với 1. khi bị đặt sai, không niêm với nhau theo lệ trên, thì gọi là thất niêm (mất sự dính liền), coi như một sai phạm không được mắc.</p><p></p><p>Về bố cục, một bài bát cú (ngũ ngôn, thất ngôn) có 4 phần: đề, thực, luận, kết:</p><p></p><p>1. Đề gồm phá đề (câu 1) là mở bài và thừa đề (câu 2) là nói với câu phá mà vào bài.</p><p></p><p>2. Thực (hoặc trạng) (hai câu 3 và 4) là giải thích rõ ý của đầu bài.</p><p></p><p>3. Luận (hai câu 5 và 6) là bàn rộng về nghĩa của đầu bài.</p><p></p><p>4. Kết (hai câu 7 và 8) là tóm tắt ý nghĩa toàn bài mà thắt lại.</p><p></p><p>Về nhịp, câu thơ Đường luật ngắt theo nhịp 4/3 (thất ngôn) hoặc 2/3 (ngũ ngôn); nói chung các thể thơ mô phỏng thi luật trung Hoa đều ngắt nhịp "chẵn trước lẻ sau", khác với các thể thơ tiếng Việt thuần túy vốn ngắt nhịp "lẻ trước chẵn sau".</p><p></p><p>Đường luật là thể chặt chẽ nên dễ thành gò bó, vì vậy ngoài biệt lệ về "bất luận" người ta còn thêm biệt lệ về "chiết vận" tức là bớt vần (bài 8 câu đáng 5 chỉ còn 4 vần, bài 4 câu dáng 3 chỉ còn 2 vần, bài 16 câu chỉ còn 8 vần nhưng 2 câu trốn vần đó phải đối nhau, gọi là song phong). Người ta cũng đặt tên cho những "bệnh" thường hay mắc trong thể này như "khổ độc", "phong yêu" (từ thứ tư hiệp vần với từ thứ bảy), "hạc tất" (một câu thơ bị cắt là ba nhịp). Trong khi đó, các thi gia thành thạo lại có lối chơi cố ý đặt sai một số vần, tạo ra các dạng gọi là "cô nhạn xuất quần" (nhạn lẻ ra bầy), "cô nhạn nhập quần" (nhạn lẻ vào bầy), v.v...</p><p></p><p>Thơ Đường luật được biết đến và sử dụng vào sáng tác văn học ở Việt Nam từ khá sớm. Cùng với việc làm thơ phú bằng chữ Hán, từ thời Trần, với Hàn Thuyên, Chu An, Nguyễn Sĩ Cố, v.v... luật thơ Đường bắt đầu được áp dụng vào sáng tác bằng tiếng Việt (ghi bằng chữ Nôm). Ở cả sáng tác bằng chữ Hán và chữ Nôm theo Đường luật, các thi gia Việt Nam từ thế kỉ XIII đến thế kỉ XIX đã đạt tới những mẫu mực ở đỉnh cao, với nhiều sáng tác độc đáo của những tài năng lớn như Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Hồ Xuân Hương, Bà Huyện Thanh Quan, Cao Bá Quát, Nguyễn Khuyến, Tú Xương, Tản Đà, v.v... Ngoài những thể tài học theo Trung Hoa như bát cú, tứ tuyệt, thủ vĩ ngâm, liên hoàn, thuật nghiạch độc, yết hậu, lục ngôn thể, hoa vận, liên ngâm, v.v...các thi gia Việt Nam còn tạo ra các lối vĩ tam thanh, song điệp, tiết hạ (triệt hạ), hoặc dùng các thể bát cú, tứ tuyệt theo lối liên hoàn dể viết các truyện thơ như "Tô Công phụng sứ", "Vương Tường", "Lâm tuyền kì ngộ"...</p><p></p><p>Thơ đường luật dựa vào thi cử theo học chế Hán Nho nên nó cũng trở thành một loại văn cử nghiệp, rất phổ biến trong giới nho sĩ, từ các nho sinh đến hàng quan lại, vua chúa, dù tài thơ cao thấp khác nhau xa. Đến đầu thế kỉ XX, loại thơ này bộc lộ những sự bất cập và bất lực trong khả năng thể hiện những xúc cảm mới của con người ở thời buổi mới, và đã trở thành một trong những đối tượng công kích và từ bỏ của Phong trào thơ mới. Tuy vậy thể thơ này vẫn còn được dùng, nhất là trong những người từng tiếp xúc với văn hóa Hán Nho; dấu vết của câu thơ Đường luật vẫn còn thấy rõ ngay trong sáng tác của nhiều nhà thơ đương đại.</p><p></p><p>-------------------</p><p></p><p><strong>11 - Giai thoại</strong></p><p></p><p>Một thể loại truyện kể truyền miệng, lưu hành chủ yếu trong giới nhà văn và lớp công chúng yêu thích thơ văn, nhất là những người có hiểu biết Hán học và văn chương chữ Hán.</p><p></p><p>Thuật ngữ "giai thoại" được mượn từ Trung Hoa (thoại: truyện kể; giai: hay, đẹp, thú vị).</p><p></p><p>Mỗi giai thoại là một truyện kể ngắn gọn, lí thú, xoay quanh những nhân vật có thực, thường là những danh nhân. "Giai thoại văn học" là giai thoại nói riêng về các nhà văn, nhà thơ, các nhà khoa bảng, về những người sáng tác thơ văn và thưởng thức thơ văn.</p><p></p><p>Giai thoại văn học Việt Nam xuất hiện khá sớm, ít nhất là từ khi chữ Hán được thông dụng trong việc học hành, thi cử, trong việc sáng tác và trước thuật. Các giai thoại sớm nhất hay còn được biết đến là giai thoại về các danh nhân thời Lý; tức là chúng được sáng tác muộn hơn một ít như là một loại tiểu dẫn độc đấo về xuật xứ một số sáng tác và hoạt động văn học của các nhân vật ấy. Giai thoại văn học phát triển mạnh mẽ từ giữa thế kỉ XV ( thời vua Lê Thánh Tông) đến nửa đầu thế kỉ XIX, gắn với các giai thoại thịnh vượng của văn học chữ Hán và văn học chữ Nôm.</p><p></p><p>Các giai thoại ở giới văn nhân nho sĩ Việt Nam - Giống như ở Trung Hoa - phần lớn đều nhằm đề cao tài năng của các danh nhân theo những chuẩn mực của nho học ( thông tỏ và vận dụng giòi chữ nghĩa thánh hiền, tài đối đáp bằng câu đối, thơ, phú, tài chơi chữ, dùng chữ, v.v...), ngoài ra, cũng chú ý phác họa cốt cách tài tử, đa tình của họ. Những giai thoại xuất hiện ở thời kì cuối chú ý nhiều hơn đến bản lĩnh, tính cách của danh nhân, đến quan hệ của danh nhân với giai nhân (tài tử - giai nhân), thái độ chính trị của các danh nhân, v.v...</p><p></p><p>Trong những ghi chép sớm nhất, giai thoại văn học thường không phân giới rõ rệt với truyền thuyết, truyền kì, có những mảng giai thoại xuất hiện thời kì sau lại gần với tiếu lâm. Tuy vậy giai thoại vẫn mang tính độc lấp như một thể lại độc đáo: nó thuộc về văn chương bác học, gắn với sinh hoạt văn học thành văn, nhưng lại tồn tại dưới dạng truyền miệng, tức là dạng thức tồn tại của các truyện kể dân gian.</p><p></p><p>-----------------------</p><p></p><p><strong>12 - Hịch</strong></p><p></p><p></p><p>Một thể loại văn bản, thường dùng cho tướng lĩnh, vua chúa, thủ lĩnh, nhằm kêu gọi, cổ động, thuyết phục dân chúng hưởng ứng một phong trào xã hội chính trị nào đó ở một thời điểm hệ trọng có liên quan đến đời sống của dân tộc, đất nước. Hịch có nguồn gốc từ Trung Quốc từ đời Chiến quốc. Ở Việt Nam, thể loại này được dùng khá sớm, tiêu biểu là "Hịch tướng sĩ" (khoảng trước năm 1258) của Trần Quốc Tuấn.</p><p></p><p>Hịch trong chữ Hán có nghĩa là bài văn công khai (minh bạch chi văn) khắc vào gỗ để tuyên bố cùng mọi người, do vậy có tên là "lộ bố"(nói công khai). Hịch có thể được viết bằng văn xuôi, văn vần, văn biền ngẫu. Nhiều bài hịch ở Việt nam thế kỉ XVIII - XIX được viết bằng chữ Nôm, như các bài hịch của vua Quang Trung (1753 - 1792), các bài hịch chống Pháp ("Hịch đánh Tây" của Lãnh Cồ, "Hịch đánh chuột" của Nguyễn Đình Chiểu, "Hịch cần vương" ,v.v...)</p><p></p><p>-----------------------</p><p></p><p></p><p><strong>13 - Khan</strong></p><p></p><p>Loại hình sử thi dân gian của các dân tộc Tây Nguyên và vùng ven biển Nam Trung Bộ. Tạm gọi ước lệ chung là "khan". Thật ra người Êđê gọilà khan (có nới gọi là knăk, chnăk); người Giarai gọi là akhan hay hri; người Chăm và Raglai ở Bình Thuận gọi là akhan; người Bana gọi là h'mon; người Kazong gọi là h'mon hay amon, v.v...</p><p></p><p>Khan vốn được kể trong các dịp cầu cúng, lễ hội, dần dần trở thành một hình thức kể chuyện, một sinh hoạt văn nghệ bỉnh thường của cư dân buôn làng. người kể khan là những nghệ nhân thông thuộc. Lời khan là những bài kể chuyện dài, có những đoạn có vần, có những đoạn là "văn xuôi"; có đoạn là lời kể, có đoạn là các đối đáp. Giọng kể khan có khi là giọng kể thường, có khi là giọng ngâm, có lúc lại kèm thêm điệu bộ...</p><p></p><p>Tác phẩm được sưu tầm sớm nhất của loại hình này là "ĐamSăn (Klei khan y ĐamSăn) do công sứ Pháp L. Sabatier phát hiện năm 1924 ở vùng gần Buôn Ma Thuột. Từ những năm 60 - 70 của thế kỉ XX, giới nghiên cứu dân tọcc học Việt Nam phát hiện thêm các dị bản của "Đam Săn" và nhiều tác phẩm khac như "Xinh Nhã" (do Song Hing, Bơ Lêu và Ngọc Anh sưu tầm năm 1960 ở vùng người Êđê ở Krông Hinh), "Đăm Di" (do Ngọc Anh, Y Điêng... sưu tầm trước năm 1960 ở vùng người Êđê ở Krông Hinh), "Đăm Di đi săn" (do Y Đưp sưu tầm và dịch ra tiếng Việt năm 1977), "H'mon Đam Noi (do ông Đing Văn Mơi hát kể "h'mon" này, ghi băng tháng 7 năm 1980, nhóm nghiêm cứu Phạm Thị Hà, Tô Ngọc Thanh cùng các cộng tác viên người Bana biên dịch), "Đam Kteh Mlan" (Bài ca Trăng Quầng, do Y Yung, người Êđê sưu tầm khoảng 1965- 1967 ở vùng Buôn Hồ rồi cộng tác với Nguyễn Hữu Thấu dịch ra tiếng Việt), "Xing Chơ Niêp (do Kpa Y Meo và Hà Nam Tiến sưu tầm năm 1980 ở vùng Krông Pa), "Chi Lơ Kok" (do Ka So Liễng, người Chăm, phát hiện ở vùng người Êđê huyện Tây Sơn, Phú Yên, dịch ra tiếng Việt và cho in 1987).</p><p></p><p>Trong số các tác phẩm kể trên, khan "Đam Săn" vẫn là phổ biến hơn cả. Đây là bài ca về những chiến công và những khát vọng phi thường của một tù trưởng trẻ tuồi tên Đam Săn. lời khan kể rằng chàng Đam Săn tuấn tú, tài ba buộc phải kết hôn - theo tục "nối dây" truyền kiếp - với hai chị em H'nhi và H'bni giàu có và xinh đẹp. Dù chàng cố sức chống lại tập tục nhưng vẫn phải chấp nhận. Các tù trưởng láng giềng hùng mạnh là M'tao Grư và M'tao Mxây kế tiếp nhau cưỡng đoạt người đẹp H'nhi khiến Đam Săn phải ra tay cứu vợ và đã chiến thắng, trở thành tù trưởng hùng mạnh đến chuyển đất động trời. Khát vọng thể hiện sức mạnh thúc đẩy Đam Săn cưỡi ngựa lên trời định bắt Nữ Thần Mặt Trời về làm vợ lẽ, nhưng đẫ bị chết ngập trong rừng sáp đen. Hồn Đam Săn đầu thai vào người chị ruột để được sinh ra tiếp tục làm chồng dòng họ H'nhi.</p><p></p><p>Đam Săn là kiểu nhân vật anh hùng thời thị tộc - bộ lạc. Các tác phẩm khan, h'mon, amon... đều là kiểu sử thi anh hùng, ngợi ca những người có công trong các cuộc chiến tranh giữa các bộ lạc, duy trì và khuếch trương thế lực của bộ lạc mình. Giới nghiên cứu dân tộc học cũng muốn tìm thấy ở đây sự phản ánh các chuyển biến xã hội thị tộc, nhất là qua các dấu hiệu về chế độ hôn nhân (từ mẫu quyền sang phụ quyền, v.v...). Về mặt tiến hóa của ý thức văn hóa nghệ thuật, các sử thi này có thể là dạng bảo lưu của các thần thoại và truyền thuyết đã bị mai một, ở đó bộc lộ những dạng "vũ trụ luận", "sáng thế luận" của các cộng đồng nguyên thủy (ý niệm về nguồn gốc trời đất và muôn loài ở mỗi tộc người). Ngoài ra, sự thân thuộc giữa các sử thi loại này với các loại hình tương tự của các dân tộc vùng Nam Á vẫn còn chưa được nghiên cứu phân tích.</p><p></p><p>--------------------</p><p>[URL unfurl="true"]https://vnkienthuc.com/categories/kien-thuc-pho-thong.920/[/URL]</p></blockquote><p></p>
[QUOTE="liti, post: 32222, member: 2098"] [B]9 - Điển cố[/B] Thuật ngữ của giới nghiên cứu nhằm mô tả một trong những đặc điểm nổi bật của văn học trung đại Việt Nam, vốn chịu ảnh hưởng văn học cổ và trung đại Trung Hoa. Do những nguyên nhân khác nhau, đã hình thành một tâm thế, một phong cách của những người làm văn: trong hành văn thường hay nhắc đến một sự tích xưa hoặc một vài câu thơ, câu văn cổ để diễn tả ý mình, nhưng đây không phải là lối trích dẫn nguyên văn, mà là lối dùng lại vài chữ cốt gợi nhớ được đến tích cũ ấy, câu văn cổ ấy. Lối này được gọi chung là dùng điển cố, bao gồm phép dùng điển và phép lấy chữ. "Dùng điển" (chữ Hán: dụng điển - dụng: vận dụng; điển: việc cũ; hoặc sử sự - khiến việc) ý nói "sai khiến" các tích cũ chuyện xưa cho thích dụng vào văn mạch của mình. Các "điển" gồm các tình tiết đã được chép trong sử sách, kinh truyện, kể cả các tình tiết hoang đường, hư cấu đã được viết ra trong những tác phẩm nổi tiếng thời trước. Ví dụ ở hai câu " Truyện Kiều": " Nghìn vàng gọi chút lễ thường - Mà lòng Xiếu Mẫu mấy vàng cho cân", các từ "nghìn vàng" và "Xiếu Mẫu" là nhắc đến một sự việc đã chép trong "sử kí"(của sử gia Trung Quốc Tư Mã Thiên: 145 - 86 trước Công nguyên): Hàn Tín thuở hàn vi có lần được bà Xiêu Mẫu cho bát cơm, sau Tín trở nên phú quý trả ơn bà một nghìn lạng vàng. Hoặc những câu "Truyện Kiều": "Dù khi lá thắm chỉ hồng", "Nàng rằng hồng điệp xích thằng" là nhắc đến một điển trong "Tình sử" (một pho sách chép các truyện tình duyên) hàm ý nói việc hôn nhân. "Lấy chữ" là mượn dùng lại một vài chữ trong các áng văn thơ cổ vào câu văn của mình, gợi cho người đọc phải nhớ đến câu thơ, câu văn ở tác phẩm của người xưa. Ví dụ ở "Khóa hư lục" (chữ Hán) có câu : " Nữ tử sính khuynh thành chi diễm" (gái thích khoe sắc đẹp khuynh thành); ở "Cung oán ngâm khúc"(chữ Nôm) có câu "Khóe thu ba gợn sóng khuynh thành"; ở "Truyện Kiều" có câu "Một hai nghiêng nước nghiêng thành"; các trường hợp này đều lấy hai chữ "khuynh thành" ở thơ Lý Diên Niên (nhà thơ Trung Quốc, thời Hán) tả sắc đẹp thiếu nữ "Nhất tố khuynh thành, tái cố khuynh nhân quốc" (ngoảnh lại một lần làm nghiêng thành, ngoảnh lại lần nữa làm nghiêng nước). Lối dùng điển cố tạo cho câu văn, câu thơ cô đúc, hàm súc, gây thú vị cho người đọc vốn sành văn thơ cổ, lai cũng tránh nói thẳng các điều thô tục, sỗ sàng, khiến cho văn chương giữ được vẻ trang nhã (ví dụ trong "Truyện Kiều", những cách nói "trên bộc trong dâu", "nguyệt nọ hoa kia"," mây mưa", v.v...đều dùng điển cố để ám chỉ các truyện trai gái, dâm bôn); lối dùng điển cố có khi tựa như dẫn chứng tích cũ lời xưa, tạo thêm lí lẽ trong văn mạch. Dùng điển cố là một tâm thế sáng tác phổ biến, một thứ "mốt" kéo dài suốt thời cổ và trung đại của các nền văn học chịu ảnh hưởng của trung tâm văn hóa Trung Hoa; do vậy hàng loạt những sự tích trong sử sách, kinh truyện, hàng loạt ý tứ và câu chữ trong văn thơ cổ điển Trung Quốc được các văn nhân, thi sĩ sử dụng như những môtip hoặc câu chữ tách rời nguyên bản, trở thành "những lời có cánh", trở thành một kho thi liệu và văn liệu dùng chung. Lối dùng điển cố, do vậy, là một lối vay mượn mang tính từ chương thuần túy. Nó là cách làm đẹp, làm sang cho văn chương, tạo cho văn chương những nét quý phái, uyên bác. Tuy nhiên, do xu hướng tùy chương thuần túy, lối dùng điển cố cũng tạo cho các thế hệ hậu sinh thói quen dẫm theo đường mòn, nhất là ở thời kì cuối của văn học thuộc phạm trù trung đại, khi cái kho thi liệu, văn liệu này trở nên những khuôn khổ sáo mòn. Do cơ sở bề sâu là quan niệm noi theo cổ nhân, "thuật nhi bất tác", lối dùng điển cố đã bị từ bỏ (hoặc bị sử dụng lai theo lối nhại) trong các sáng tác văn học thuộc phạm trù hiện đại (mà cơ sở là quan niệm về tính "bản quyền", tính độc đáo nguyên bản của tác giả như một chủ thể duy nhất của những tác phẩm do mình sáng tác, in dấu cá tính sáng tạo của riêng mình). Tuy vậy, dấu vết của lối dùng điển cố vẫn còn thấy rõ trong các phong trào văn học ở thời hiện đại và đương đại, khi các tìm tòi sáng tạo mới ( về đề tài, bút pháp, câu tứ, v.v...) của những người mở đầu phong trào trở thành những khuôn hình có sẵn để những cây bút ở cuối phong trào ấy lặp lại. --------------------- [B]10 - Đường luật[/B] Một thể thơ tiếng Việt mà cách luật mô phỏng thi luật Trung Hoa. Luật thơ này áp dụng cho các thể ngũ ngôn và thất ngôn (câu thơ 5 âm tiết, câu thơ 7 âm tiết), được đặt ra từ đời Đường (618 - 907) nên gọi là thơ Đường luật (ở Trung Hoa khi đặt ra thể này, người ta gọi nó là cận thể - thể gần đây - để phân biệt với cổ thể - thể xưa, tức là thể cổ phong vốn có từ trước thời Đường). Cách luật của thể thơ này rất chặt chẽ, gồm các yêu cầu về: 1.Vần 2.Đối 3.Luật 4.Niêm 5.Cách bố cục Về vần (chữ Hán: vận, trỏ những âm tiết có chung phần vần hoặc phần vần tương đối gần nhau), thơ Đường luật thường dùng vần bằng, ít dùng vần trắc; mỗi loại thơ chỉ dùng một vần (độc vận); một bài thơ Đường luật bát cú (ngũ ngôn hoặc thất ngôn) có cả thảy 5 chỗ hiệp vần, giao ở cuối câu đầu và cuối câu chẵn; như vậy ở đây chỉ dùng vần chân (cước vận). trường hợp gieo vần sai lạc (lạc vận) hoặc gượng ép (cưỡng áp) đều là sai phạm. Về đối (đối: dặt sóng đôi sao cho ý và chữ đối xứng nhau) gồm: đối ý - hai ý tưởng cân xứng với nhau, và đối chữ - những chữ đêm đối phải đối nhau về thanh (bằng đối với trắc và ngược lại) và tương xứng về từ loại (phải cùng một từ loại, tức cùng là danh từ hoặc cùng là động từ, v.v...); một bài thơ Đường luật bát cú (thất ngôn, ngũ ngôn)phải có đối ở 4 câu giữa bài: câu 3 đối với câu 4, câu 5 đối với câu 6. Về luật, đây chủ yếu nói về luật bằng trắc, tức là sự quy định về cách phân bố các âm tiết mang thanh bằng và các âm tiết mang thanh trắc. nếu âm tiết (chữ, tiếng) thứ 2 của câu thơ thứ nhất là vần bằng thì bài thơ thuộc luật bằng, nếu vần trắc thì bài thơ thuộc luật trắc. Sự sắp xếp theo luật này tạo cho ở mỗi câu, các cặp bằng trắc lần lượt thay nhau; ở mỗi cặp câu (còn gọi là "liên"), các âm tiết tương ứng ở các câu số lẻ và số chẵn phải mang thanh điệu ngược nhau (trừ các âm tiết thứ 5 và thứ 7 ở liên đầu)... Việc theo đúng luật bằng trắc như quy định là việc rất khó nên cũng có lệ "bất luận" (không kể) tức là có một số vị trí không cần giữ đúng luật; lệ này là "nhất tam bất luận" (các âm tiết thứ nhất và thứ 3) cho thể ngũ ngôn, và "nhất tam ngũ bất luận" (các âm tiết thứ nhất, thứ 3 và thứ 5)cho thể thất ngôn; các vị trí này có thể là bằng hay trắc đều được. Tuy vậy nếu theo lệ bất luận này mà chỗ đáng trắc lại đổi ra bằng hoặc ngược lại, thì sẽ khiến câu thơ thành ra khổ độc (khó đọc), đó là các trường hợp: ở thể ngũ ngôn, âm tiết thứ nhất các câu chẵm và âm tiết thứ 3 của tất cả các câu đáng bằng lai đổi ra trắc; ở thể thất ngốn, âm tiết thứ 3 của câu chẵn và âm tiết thứ 5 các câu lẻ đáng bằng lại đổi ra trắc; các trường hợp " khổ độc" đều là sai phạm. Mọi trường hợp đáng bằng mà lại đổi ra trắc hoặc ngược lại đều gọi là "thất luật" (sai luật), không được phạm. Về niêm (niêm: nghĩa đenlà dính) tức là sự gắn bó về âm luật giữa 2 câu thơ: chúng là niêm với nhau khi âm tiết thứ 2 của chúng theo cùng một luật (bằng cùng bằng, trắc cùng trắc). ở một bài Đường luật bát cú, những câu phải niêm với nhau là : 1 và 8; 2 với 3; 4 với 5 ; 6 với 7; 8 với 1. khi bị đặt sai, không niêm với nhau theo lệ trên, thì gọi là thất niêm (mất sự dính liền), coi như một sai phạm không được mắc. Về bố cục, một bài bát cú (ngũ ngôn, thất ngôn) có 4 phần: đề, thực, luận, kết: 1. Đề gồm phá đề (câu 1) là mở bài và thừa đề (câu 2) là nói với câu phá mà vào bài. 2. Thực (hoặc trạng) (hai câu 3 và 4) là giải thích rõ ý của đầu bài. 3. Luận (hai câu 5 và 6) là bàn rộng về nghĩa của đầu bài. 4. Kết (hai câu 7 và 8) là tóm tắt ý nghĩa toàn bài mà thắt lại. Về nhịp, câu thơ Đường luật ngắt theo nhịp 4/3 (thất ngôn) hoặc 2/3 (ngũ ngôn); nói chung các thể thơ mô phỏng thi luật trung Hoa đều ngắt nhịp "chẵn trước lẻ sau", khác với các thể thơ tiếng Việt thuần túy vốn ngắt nhịp "lẻ trước chẵn sau". Đường luật là thể chặt chẽ nên dễ thành gò bó, vì vậy ngoài biệt lệ về "bất luận" người ta còn thêm biệt lệ về "chiết vận" tức là bớt vần (bài 8 câu đáng 5 chỉ còn 4 vần, bài 4 câu dáng 3 chỉ còn 2 vần, bài 16 câu chỉ còn 8 vần nhưng 2 câu trốn vần đó phải đối nhau, gọi là song phong). Người ta cũng đặt tên cho những "bệnh" thường hay mắc trong thể này như "khổ độc", "phong yêu" (từ thứ tư hiệp vần với từ thứ bảy), "hạc tất" (một câu thơ bị cắt là ba nhịp). Trong khi đó, các thi gia thành thạo lại có lối chơi cố ý đặt sai một số vần, tạo ra các dạng gọi là "cô nhạn xuất quần" (nhạn lẻ ra bầy), "cô nhạn nhập quần" (nhạn lẻ vào bầy), v.v... Thơ Đường luật được biết đến và sử dụng vào sáng tác văn học ở Việt Nam từ khá sớm. Cùng với việc làm thơ phú bằng chữ Hán, từ thời Trần, với Hàn Thuyên, Chu An, Nguyễn Sĩ Cố, v.v... luật thơ Đường bắt đầu được áp dụng vào sáng tác bằng tiếng Việt (ghi bằng chữ Nôm). Ở cả sáng tác bằng chữ Hán và chữ Nôm theo Đường luật, các thi gia Việt Nam từ thế kỉ XIII đến thế kỉ XIX đã đạt tới những mẫu mực ở đỉnh cao, với nhiều sáng tác độc đáo của những tài năng lớn như Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Hồ Xuân Hương, Bà Huyện Thanh Quan, Cao Bá Quát, Nguyễn Khuyến, Tú Xương, Tản Đà, v.v... Ngoài những thể tài học theo Trung Hoa như bát cú, tứ tuyệt, thủ vĩ ngâm, liên hoàn, thuật nghiạch độc, yết hậu, lục ngôn thể, hoa vận, liên ngâm, v.v...các thi gia Việt Nam còn tạo ra các lối vĩ tam thanh, song điệp, tiết hạ (triệt hạ), hoặc dùng các thể bát cú, tứ tuyệt theo lối liên hoàn dể viết các truyện thơ như "Tô Công phụng sứ", "Vương Tường", "Lâm tuyền kì ngộ"... Thơ đường luật dựa vào thi cử theo học chế Hán Nho nên nó cũng trở thành một loại văn cử nghiệp, rất phổ biến trong giới nho sĩ, từ các nho sinh đến hàng quan lại, vua chúa, dù tài thơ cao thấp khác nhau xa. Đến đầu thế kỉ XX, loại thơ này bộc lộ những sự bất cập và bất lực trong khả năng thể hiện những xúc cảm mới của con người ở thời buổi mới, và đã trở thành một trong những đối tượng công kích và từ bỏ của Phong trào thơ mới. Tuy vậy thể thơ này vẫn còn được dùng, nhất là trong những người từng tiếp xúc với văn hóa Hán Nho; dấu vết của câu thơ Đường luật vẫn còn thấy rõ ngay trong sáng tác của nhiều nhà thơ đương đại. ------------------- [B]11 - Giai thoại[/B] Một thể loại truyện kể truyền miệng, lưu hành chủ yếu trong giới nhà văn và lớp công chúng yêu thích thơ văn, nhất là những người có hiểu biết Hán học và văn chương chữ Hán. Thuật ngữ "giai thoại" được mượn từ Trung Hoa (thoại: truyện kể; giai: hay, đẹp, thú vị). Mỗi giai thoại là một truyện kể ngắn gọn, lí thú, xoay quanh những nhân vật có thực, thường là những danh nhân. "Giai thoại văn học" là giai thoại nói riêng về các nhà văn, nhà thơ, các nhà khoa bảng, về những người sáng tác thơ văn và thưởng thức thơ văn. Giai thoại văn học Việt Nam xuất hiện khá sớm, ít nhất là từ khi chữ Hán được thông dụng trong việc học hành, thi cử, trong việc sáng tác và trước thuật. Các giai thoại sớm nhất hay còn được biết đến là giai thoại về các danh nhân thời Lý; tức là chúng được sáng tác muộn hơn một ít như là một loại tiểu dẫn độc đấo về xuật xứ một số sáng tác và hoạt động văn học của các nhân vật ấy. Giai thoại văn học phát triển mạnh mẽ từ giữa thế kỉ XV ( thời vua Lê Thánh Tông) đến nửa đầu thế kỉ XIX, gắn với các giai thoại thịnh vượng của văn học chữ Hán và văn học chữ Nôm. Các giai thoại ở giới văn nhân nho sĩ Việt Nam - Giống như ở Trung Hoa - phần lớn đều nhằm đề cao tài năng của các danh nhân theo những chuẩn mực của nho học ( thông tỏ và vận dụng giòi chữ nghĩa thánh hiền, tài đối đáp bằng câu đối, thơ, phú, tài chơi chữ, dùng chữ, v.v...), ngoài ra, cũng chú ý phác họa cốt cách tài tử, đa tình của họ. Những giai thoại xuất hiện ở thời kì cuối chú ý nhiều hơn đến bản lĩnh, tính cách của danh nhân, đến quan hệ của danh nhân với giai nhân (tài tử - giai nhân), thái độ chính trị của các danh nhân, v.v... Trong những ghi chép sớm nhất, giai thoại văn học thường không phân giới rõ rệt với truyền thuyết, truyền kì, có những mảng giai thoại xuất hiện thời kì sau lại gần với tiếu lâm. Tuy vậy giai thoại vẫn mang tính độc lấp như một thể lại độc đáo: nó thuộc về văn chương bác học, gắn với sinh hoạt văn học thành văn, nhưng lại tồn tại dưới dạng truyền miệng, tức là dạng thức tồn tại của các truyện kể dân gian. ----------------------- [B]12 - Hịch[/B] Một thể loại văn bản, thường dùng cho tướng lĩnh, vua chúa, thủ lĩnh, nhằm kêu gọi, cổ động, thuyết phục dân chúng hưởng ứng một phong trào xã hội chính trị nào đó ở một thời điểm hệ trọng có liên quan đến đời sống của dân tộc, đất nước. Hịch có nguồn gốc từ Trung Quốc từ đời Chiến quốc. Ở Việt Nam, thể loại này được dùng khá sớm, tiêu biểu là "Hịch tướng sĩ" (khoảng trước năm 1258) của Trần Quốc Tuấn. Hịch trong chữ Hán có nghĩa là bài văn công khai (minh bạch chi văn) khắc vào gỗ để tuyên bố cùng mọi người, do vậy có tên là "lộ bố"(nói công khai). Hịch có thể được viết bằng văn xuôi, văn vần, văn biền ngẫu. Nhiều bài hịch ở Việt nam thế kỉ XVIII - XIX được viết bằng chữ Nôm, như các bài hịch của vua Quang Trung (1753 - 1792), các bài hịch chống Pháp ("Hịch đánh Tây" của Lãnh Cồ, "Hịch đánh chuột" của Nguyễn Đình Chiểu, "Hịch cần vương" ,v.v...) ----------------------- [B]13 - Khan[/B] Loại hình sử thi dân gian của các dân tộc Tây Nguyên và vùng ven biển Nam Trung Bộ. Tạm gọi ước lệ chung là "khan". Thật ra người Êđê gọilà khan (có nới gọi là knăk, chnăk); người Giarai gọi là akhan hay hri; người Chăm và Raglai ở Bình Thuận gọi là akhan; người Bana gọi là h'mon; người Kazong gọi là h'mon hay amon, v.v... Khan vốn được kể trong các dịp cầu cúng, lễ hội, dần dần trở thành một hình thức kể chuyện, một sinh hoạt văn nghệ bỉnh thường của cư dân buôn làng. người kể khan là những nghệ nhân thông thuộc. Lời khan là những bài kể chuyện dài, có những đoạn có vần, có những đoạn là "văn xuôi"; có đoạn là lời kể, có đoạn là các đối đáp. Giọng kể khan có khi là giọng kể thường, có khi là giọng ngâm, có lúc lại kèm thêm điệu bộ... Tác phẩm được sưu tầm sớm nhất của loại hình này là "ĐamSăn (Klei khan y ĐamSăn) do công sứ Pháp L. Sabatier phát hiện năm 1924 ở vùng gần Buôn Ma Thuột. Từ những năm 60 - 70 của thế kỉ XX, giới nghiên cứu dân tọcc học Việt Nam phát hiện thêm các dị bản của "Đam Săn" và nhiều tác phẩm khac như "Xinh Nhã" (do Song Hing, Bơ Lêu và Ngọc Anh sưu tầm năm 1960 ở vùng người Êđê ở Krông Hinh), "Đăm Di" (do Ngọc Anh, Y Điêng... sưu tầm trước năm 1960 ở vùng người Êđê ở Krông Hinh), "Đăm Di đi săn" (do Y Đưp sưu tầm và dịch ra tiếng Việt năm 1977), "H'mon Đam Noi (do ông Đing Văn Mơi hát kể "h'mon" này, ghi băng tháng 7 năm 1980, nhóm nghiêm cứu Phạm Thị Hà, Tô Ngọc Thanh cùng các cộng tác viên người Bana biên dịch), "Đam Kteh Mlan" (Bài ca Trăng Quầng, do Y Yung, người Êđê sưu tầm khoảng 1965- 1967 ở vùng Buôn Hồ rồi cộng tác với Nguyễn Hữu Thấu dịch ra tiếng Việt), "Xing Chơ Niêp (do Kpa Y Meo và Hà Nam Tiến sưu tầm năm 1980 ở vùng Krông Pa), "Chi Lơ Kok" (do Ka So Liễng, người Chăm, phát hiện ở vùng người Êđê huyện Tây Sơn, Phú Yên, dịch ra tiếng Việt và cho in 1987). Trong số các tác phẩm kể trên, khan "Đam Săn" vẫn là phổ biến hơn cả. Đây là bài ca về những chiến công và những khát vọng phi thường của một tù trưởng trẻ tuồi tên Đam Săn. lời khan kể rằng chàng Đam Săn tuấn tú, tài ba buộc phải kết hôn - theo tục "nối dây" truyền kiếp - với hai chị em H'nhi và H'bni giàu có và xinh đẹp. Dù chàng cố sức chống lại tập tục nhưng vẫn phải chấp nhận. Các tù trưởng láng giềng hùng mạnh là M'tao Grư và M'tao Mxây kế tiếp nhau cưỡng đoạt người đẹp H'nhi khiến Đam Săn phải ra tay cứu vợ và đã chiến thắng, trở thành tù trưởng hùng mạnh đến chuyển đất động trời. Khát vọng thể hiện sức mạnh thúc đẩy Đam Săn cưỡi ngựa lên trời định bắt Nữ Thần Mặt Trời về làm vợ lẽ, nhưng đẫ bị chết ngập trong rừng sáp đen. Hồn Đam Săn đầu thai vào người chị ruột để được sinh ra tiếp tục làm chồng dòng họ H'nhi. Đam Săn là kiểu nhân vật anh hùng thời thị tộc - bộ lạc. Các tác phẩm khan, h'mon, amon... đều là kiểu sử thi anh hùng, ngợi ca những người có công trong các cuộc chiến tranh giữa các bộ lạc, duy trì và khuếch trương thế lực của bộ lạc mình. Giới nghiên cứu dân tộc học cũng muốn tìm thấy ở đây sự phản ánh các chuyển biến xã hội thị tộc, nhất là qua các dấu hiệu về chế độ hôn nhân (từ mẫu quyền sang phụ quyền, v.v...). Về mặt tiến hóa của ý thức văn hóa nghệ thuật, các sử thi này có thể là dạng bảo lưu của các thần thoại và truyền thuyết đã bị mai một, ở đó bộc lộ những dạng "vũ trụ luận", "sáng thế luận" của các cộng đồng nguyên thủy (ý niệm về nguồn gốc trời đất và muôn loài ở mỗi tộc người). Ngoài ra, sự thân thuộc giữa các sử thi loại này với các loại hình tương tự của các dân tộc vùng Nam Á vẫn còn chưa được nghiên cứu phân tích. -------------------- [URL unfurl="true"]https://vnkienthuc.com/categories/kien-thuc-pho-thong.920/[/URL] [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KIẾN THỨC PHỔ THÔNG
Trung Học Phổ Thông
Ngữ văn THPT
Hỏi Đáp ngữ văn THPT
Các loại hình văn học Việt Nam
Top