A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Được thử thách qua không gian, thời gian và lòng người, được gọt giũa bởi hàng vạn nhà thơ dân gian vô danh. Ca dao Việt Nam đã trở thành viên ngọc quý óng ánh trong kho tàng văn học dân gian dân tộc. Có thể nói hang ngàn thế hệ người Việt Nam không ai không thuộc ít hơn một câu ca dao. Điều đó cũng đủ cho ta thấy ca dao Việt Nam đi sâu vào đời sống tinh thần, tâm hồn mọi người dân đất Việt.
Ca dao là khúc hát tâm tình của người dân quê Việt Nam được lưu truyền qua bao năm tháng. Nó bồi đắp tâm hồn ta từ những ngày thơ bé qua lời ru êm đềm của bà và mẹ, nó rực rỡ thêm ngát như những bông sen trong đầm, gần gũi quen thuộc như lũy tre bao bọc xóm làng, như cánh cò bay lả trên đồng ruộng, nó giúp ta cảm nhận sâu sắc về vẻ đẹp bình yên nơi thôn quê, nơi nhọc nhằn cũng như vẻ đẹp khỏe khoắn của người lao động, tình cảm gia đình thắm thiết, nghĩa vợ chồng tao khang của những con người quê chân chất, mộc mạc. Ca dao được coi như là một kho tài liệu phong phú về phong tục, tập quán trong các lĩnh vực sinh hoạt vật chất và tinh thần của nhân dân lao động. đó là tiếng hát trữ tình của con người, là tiếng hát của tình yêu trong mọi khó khăn vui buồn của cuộc sống.
Dù theo nhịp điệu cuộc sống theo hướng phát triển của nhân loại nhưng những câu ca dao xưa vẫn là những lời hát ru dành cho thế hệ trẻ hôm nay, càng ngày con người càng nghiên cứu và tìm ra được nhiều vẻ đẹp, nét đặc trưng độc đáo của nó. Đó là tất cả những lý do tôi chon nghiên cứu đề tài này.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Những công trình nghiên cứu về ca dao trong mấy thập kỷ qua là vô cùng phong phú và đa dạng với số lượng ngày càng tăng. Phải chăng vì muốn thưởng thức cái đẹp, cái hay của những bài ca dao trữ tình nên đã có rất nhiều nhà nghiên cứu về ca dao Việt Nam với quy mô lớn như: Kho tang ca dao người Việt do Nguyễn Xuân Kính và Phan Đăng Nhật( chủ biên), Ca dao Việt Nam và những lời bình của tác giả Vũ Thị Thu Hương, Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam của Vũ Ngọc Phan, Thi pháp ca dao của Nguyễn Xuân Kính
…Và một số công trình nghiên cứu liên quan đến các nhân vật trong ca dao: Cấu trúc ca dao trữ tình người Việt (Lê Đức Luận), thử đề xuất một số cấu trúc lời ca trữ tình người Việt (Lê Đức Luận), lối đối đáp trong ca dao trữ tình (Cao Huy Đỉnh)…
Việc đi sâu khám phá các kiểu nhân vật trong ca dao dường như vẫn chưa kết thúc. Nhiều nhà nghiên cứu về đề tài này vẫn còn tiếp tục. Điều đó cho thấy ca dao có tầm quan trọng rất lớn trong cuộc sống nhân dân ta. Tuy nhiên việc việc đi sâu tìm hiểu vấn đề này dù đã được nhiều nhà phê bình, nghiên cứu quan tâm nhưng do nhiều điều kiện nên câu trả lời đầy đủ vẫn còn nằm ở phía trước. Vì vậy cần có một cái nhìn khái quát chúng ta mới thấy hết những cái hay trong ca dao trữ tình. Trên cơ sở tiếp thu ý kiến của những người đi trước và theo yêu cầu của đề tài, chúng tôi đã và đang cố gắng thực hiện những điều trong bài tiểu luận này.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là: Nhân vật nam và nữ trên các phương diện trong ca dao Việt Nam
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là: Tập trung đi sâu nghiên cứu các kiểu
nhân vật trong ca dao. Phạm vi khảo sát là ca dao trữ tình người Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết vấn đề trên chúng tôi đã vận dụng các phương pháp nghiên cứu các bài ca dao, ngoài ra còn có các phương pháp hổ trợ như phương pháp thống kê, so sánh, đối chiếu, phương pháp tổng – phân – hợp.
5. Mục đích nghiên cứu
Qua đề tài này không những giúp chúng ta thưởng thức được cái đẹp, cái hay trong ca dao, đặc biệt là ca dao trữ tình. Mà còn cho chúng ta thấy được biểu hiện của các vai giao tiếp nam nữ, đồng thời giúp chúng tôi hiểu biết được thế giới chủ quan, đời sống tinh thần, ước mơ tình cảm và nguyện vọng của nhân dân lao động ngày xưa, phát hiện những cái mới mẻ của nhân vật trữ tình trong ca dao người Việt.
6. Cấu trúc đề tài
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và tài liệu tham khảo. Đề tài gồm có hai chương chính.
Chương I : Khái quát chung
Chương II : Các kiểu nhân vật trong ca dao
B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG
1.1. Vài nét về ca dao
Theo cách hiểu thông thường thì “ ca dao là lời của bài hát dân ca đã tước bỏ đi tiếng đệm, tiếng láy. Khái niệm ca dao đã được quy định dùng để chỉ bộ phận cốt lõi nhất, tiêu biểu nhất: đó là những câu hát đã trở thành cổ truyền của nhân dân.
Ca dao là lời ca dân gian. Lời ca là lời của những làn điệu dân ca và các sáng tác ngâm vịnh của các nà Nho được hòa vào dòng chảy dân gian. Khái niệm Ca dao được xem là phần lời của những câu hát trữ tình truyền thống.
Có nhiều định nghĩa khác nhau. Nhưng quy chung lại ca dao là những lời thơ dân gian được truyền miệng từ đời này sang đời khác và đươc lưu truyềncho đến ngày nay.
1.2. Nhân vật và nhân vật trong ca dao
1.2.1. Khái niệm nhân vật
Nhân vật là khái niệm dùng để chỉ hiện tượng các cá thể con người. Trong tác phẩm văn học, cái đã được nhà văn nhận thức tái tạo, thể hiện bằng các phương tiện riêng của nghệ thuật ngôn từ.
Đọc bất cứ văn bản văn học nào, trước hết người đọc đều bắt gặp những con người được miêu tả, trần thuật cụ thể. Đó chính là những nhân vật văn học. Như vậy nhân vật là khái niệm có nội hàm phong phú, định danh một hiện tượng phổ quát của thế giới tác phẩm văn học bao gồm nhiều bình diện và cấp độ như thế, các nhà nghiên cứu có một thuật ngữ để chỉ định, và giữa các thuật ngữ có mối liên hệ qua lại khá phức tạp.
1.2.2. Nhân vật trong ca dao
Nhân vật trong ca dao là nhân vật trữ tình – tâm trạng. Đây là nhân vật giao tiếp nên có nhân vật là chủ thể trữ tình và nhân vật là đối tượng trữ tình. Nhân vật trung tâm của ca dao là nhân vật Nam – Nữ làm song hành với nhau theo từng cặp giao tiếp đối đáp hay từng phe đối đáp. Hai vai nam – nữ là hai vai vừa tương hợp vừa đối kháng, vừa cân bằng vừa đối trọng.
CHƯƠNG 2 : CÁC KIỂU NHÂN VẬT TRONG CA DAO
2.1. Nhân vật nữ trên các phương diện
2.1.1 Trên phương diện người yêu
Cái đẹp của ca dao giống như cái đẹp của cô thôn nữ, ẩn tàng sức sống. Hình ảnh trong ca dao rất sắc nét, mạnh mẽ, có khí lực, trong trẻo như không khí đồng quê buổi sáng. Một trong những hình ảnh mà ca dao thường đề cập đến là hình tượng của người phụ nữ. Họ có nhiều đức tính tốt, nhưng họ là người phải chịu nhiều khổ cực, cay đắng nhất, họ thường không có quyền như nam giới. Được thể hiện qua các mối quan hệ, nhưng đặc sắc nhất vẫn là tình yêu đôi lứa.
Ca dao phác họa những người đẹp đồng quê có dáng đứng không phải liễu rũ, mềm mại, yếu đuối như tiểu thư khuê các mà là:
Trúc xinh trúc mọc đầu đình,
Em xinh em đứng một mình cũng xinh.
Trúc xinh trúc mọc bờ ao
Em xinh em đứng chỗ nào cũng xinh.
Thân trúc thẳng, suông, mảnh mai, láng, dùng để so sánh với dáng thon cao, mạnh khỏe của cô gái nông thôn, thật thích hợp. Có dáng thon thả của thân trúc cộng thêm mái tóc dài thì tuyệt hảo.
Tóc em dài em cài hoa lý
Miệng em cười có ý anh thương.
Chân mày vòng nguyệt có duyên
Tóc mây dợn sóng tợ tiên non Bồng.
Đôi mắt là cửa sổ tâm hồn, đôi mắt đẹp “lúng liếng”(liếc qua liếc lại) đó ở dưới đôi lông mày lá liễu thanh tú thì các chàng trai không uống rượu cũng “say lừ đừ”.
Hoa thơm hoa ở trên cây
Đôi mắt em lúng liếng, dạ anh say lừ đừ.
Những người con mắt lá răm
Đôi mày lá liễu đáng trăm quan tiền.
Nhan sắc, nét đẹp trên người cô gái được các chàng trai cụ thể hóa qua hình ảnh các vật dụng hằng ngày như dao, hoặc bông hoa:
Cổ tay em trắng như ngà
Con mắt em liếc như là dao cau
Miệng cười như thể hoa ngâu
Cái khăn đội đầu như thể hoa sen.
Hay:
Hai má có hai đồng tiền
Càng nom càng đẹp càng nhìn càng ưa
Ba thương má lún đồng tiền,
Bốn thương răng lánh hạt huyền kém thua.
Vừa có khuôn mặt đẹp, vừa có thân mình “ngực nở eo thon”, đẹp cả phương diện thẩm mỹ lẫn phương diện tướng số.
Những người thắt đáy lưng ong
Vừa khéo chiều chồng, lại khéo nuôi con.
Cách ăn mặc, trang phục của cô gái nông thôn cũng được miêu tả tỉ mỉ, gợi hình và rất hấp dẫn:
Đàn ông đóng khố đuôi lương
Đàn bà mặc yếm hở lườn mới xinh.
Còn gì thích mắt cho bằng nhìn cô con gái tuổi xuân hơ hớ mặc yếm đào để lộ hông, eo và lưng trông thật nõn nà bắt mắt, cho nên nhiều anh chàng chịu hết nỗi mới:
Vì cam cho quít đèo bồng
Vì em nhan sắc cho lòng nhớ thương.
Vì vậy, chàng xin kết hôn cùng người đẹp:
Vào vườn trẩy quả cau non,
Thấy em đẹp dòm muốn kết nhân duyên.
Nhưng các cô thôn nữ sợ nhiều khi mình yêu mà chưa chắc đã được yêu, hay sợ tình yêu của mình đến chậm chăng, nên đôi lúc các cô cũng quanh co rào trước đón sau:
Anh đà có vợ con chưa
Mà anh ăn nói ngọt ngào có duyên
Mẹ già anh ở nơi nao
Để em tìm vào hầu hạ thay anh.
Những câu tỏ tình như đã kể ở trên thường là những câu mà trong lúc vắng vẻ, hai người đã hỏi ý cùng nhau. tất cả đều là những câu mộc mạc chân thành, nhưng không kém vẻ lãng mạn trữ tình.
Khi yêu, họ làm tất cả cho người yêu, một khát khao dâng hiến cho người mình yêu những gì đẹp nhất. Đó là tình yêu vô tư, trong sáng, không bị ảnh hưởng bởi tiền tài, địa vị, bất chấp mọi khó khăn miễn là họ ở bên nhau.
- Thương nhau bất luận giàu nghèo
Dù cho lên ải, xuống đèo cũng cam
- Yêu nhau chẳng quản chi nhà
Lều tre quét sạch hơn tòa ngói cao
Tình yêu gắn với sự thủy chung, son sắt, yêu đến sức tàn lực kiệt, yêu đến chết vẫn còn yêu:
Yêu anh tâm trí hao mòn
Yêu anh đến thác vẫn còn yêu anh
Tình yêu tạo nên nghị lực, ý chí phi thường, bất chấp mọi ngăn cấm, rào cản của cha mẹ, tự do quyết định tình yêu:
Từ ngày gặp mặt giữa đàng
Thiếp quyết thương chàng cha mẹ nào hay
Có hay thì nhất đánh, nhì đày
Hay lẽ mà thôi
Thủy chung em giữ trọn mấy lời
Chết thời chịu hết, lìa đôi em không lìa.
Yêu nhau để rồi thương, rồi nhớ, khi sợi tơ hồng đã buộc hai người xa lạ lại với nhau, trái tim thổn thức ngân rung nhịp đập của trái tim.
Nhớ ai con mắt lim dim
Chân đi thấp thểu như chim tha mồi.
Nhớ ai hết đứng lại ngồi
Ngày đêm tơ tưởng một người tình nhân.
Nỗi nhớ mong đợi, khao khát, trăn trở khi họ xa cách
Nhớ ai em những khóc thầm
Hai hàng nước mắt đầm đầm như mưa
Nhớ ai ngơ ngẩn ngẩn ngơ
Nhớ ai, ai nhớ, bây giờ nhớ ai?
Nhớ ai bổi hổi bồi hồi,
Như ngồi đống lửa như ngồi đống than
Nhưng yêu nhiều, nhớ nhiều để rồi, người con gái phải chịu đau đớn khi bị phụ tình
Nào khi mô anh nói với em
Không cạn và tình không cạn
Vàng mòn mà nghĩa không mòn
Bây giờ nước lại xa non
Đêm nằm tơ tưởng héo hon ruột tằm
Ới chi hai dạ ba lòng
Dạ cam thì ngọt, dạ bòng thì chua
Xã hội phong kiến phụ quyền tồn tại hàng nghìn năm với những quan niệm bất công, khe khắt “tại gia tong phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tong tử”, quan niệm trọng nam khinh nữ “Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”, đã dành mọi ưu tiên, ưu đãi cho người đàn ông và đẩy người phụ nữ xuống địa vị thấp kém nhất trong gia đình cũng như xã hội. Nỗi niềm ấy được họ gửi gắm vào những câu ca dao than thân:
- “Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai”
- “Thân em như hạt mưa sa
Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày”
- “Thân em như chổi đầu hè
Phòng khi mưa gió đi về chùi chân
Chùi rồi lại vứt ra sân
Gọi người hàng xóm có chân thì chùi”
Có biết bao nhiêu nỗi khổ mà người phụ nữ phải chịu đựng, nỗi khổ vật chất “ngày ngày hai buổi trèo non”, “ngày thì dãi nắng đêm thì dầm sương”. Nhưng nỗi khổ lớn nhất, xuất hiện với tần số cao nhất vẫn là nỗi khổ về tinh thần, nỗi khổ của thân phận mong manh, bị động, ít giá trị. Những người phụ nữ ở đây bị “đồ vật hoá”, được định giá theo giá trị sử dụng. Thân phận họ chỉ được ví với “hạy mưa sa”, “chổi đầu hè”...Ta có thể cảm nhận được bao nỗi xót xa của người phụ nữ khi cất lên những lời ca ấy. Không phải người phụ nữ không ý thức được vẻ đẹp và phẩm giá đáng quý của mình. Họ luôn ví mình với “tấm lụa đào”, “giếng nước trong”...nhưng những phẩm chất ấy đâu có được xã hội , người đời biết đến và coi trọng. Cả đời họ chỉ lầm lũi, cam chịu trong sự đau khổ, nhọc nhằn. Và dường như sự bất hạnh ấy của người phụ nữ trong xã hội xưa là một hằng số chung, ở tất cả các vùng miền. Người phụ nữ dân tộc Thái cũng từng đau đớn thốt lên: “Thân em chỉ bằng thân con bọ ngựa, con chão chuộc thôi”.
Có ai đó đã nói, nếu dùng một từ để nói về số phận của những người phụ nữ trong xã hội phong kiến thì đó là “tủi nhục”. Quãng thời gian họ sống trên đời được đong đếm bằng những nỗi đau khổ mà họ phải gánh chịu. Khi còn nhỏ, sống trong gia đình, người thiếu nữ đã phải chịu sự bất công của quan niệm “trọng nam khinh nữ”:
- “Cô kia cắt cỏ đồng màu
Chăn trâu cho béo làm giàu cho cha
Giàu thì chia bày chia ba
Phận cô là gái được là bao nhiêu”
- “Em như quả bí trên cây
Dang tay mẹ bứt những ngày còn non”
2.1.2 Trên phương diện người con, người con có hiếu
Trên phương diện người con, người con có hiếu, dành tình cảm yêu thương đối với cha mẹ, nhưng có khi than thân trách phận khi bị ép duyên, có cả sự tủi hờn, nhớ nhung gia đình.
Đó là tình cảm yêu thương, biết ơn kính trọng của con cái đối với cha mẹ, người đã sinh thành nuôi dưỡng, giáo dục mình nên người:
Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con
Công cha “núi Thái Sơn” thể hiện một sự cao cả, vững chãi, sừng sững làm điểm tựa cho con cái, gợi lên vẻ gần gũi thân thương. Ví mẹ như “nước biển đông” là hình ảnh chỉ sự mênh mông vô tận tình cảm của mẹ lớn lao là không thể nói hết được.
Hay trong bài ca dao này
Chim trời ai dễ đếm lông
Nuôi con, ai dễ kể công tháng ngày.
Nhờ công cha ơn mẹ nuôi dưỡng, chúng con mới khôn lớn và trưởng thành, công lao đó chúng con suốt đời không quên.
Ngày nào em bé cỏn con,
Bây giờ em đã lớn khôn thế này
Cơm cha, áo mẹ, công thầy
Nghĩ sao cho bõ những ngày ước ao.
Tình thương, ơn nghĩa của cha mẹ, luôn ở sâu trong trái tim của mỗi người con, bởi thế con cái phải biết nâng niu, trân trọng những tình cảm mà cha mẹ dành hết cho mình, phải làm trọn đạo hiếu của người con, phải chăm sóc phụng dưỡng cha mẹ đó vừa là nghĩa vụ vừa là trách nhiệm của chúng ta
Nuôi con khó nhọc đến giờ,
Trưởng thành con phải biết thờ hai thân,
Thức khuya dậy sớm chuyên cần,
Quạt nồng ấp lạnh giữ phần đạo con.
Biểu hiện của tình yêu con cái đối với cha mẹ là nỗi nhớ thương:
Chiều chiều ra đứng ngõ sau
Ngó về quê mẹ ruột đau chín chiều.
Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa
Miệng nhai cơm búng lưỡi lừa lá xương
Mẹ già như chuối ba hương
Như xôi nếp một như đường mía lau.
Nhưng ẩn sâu trong tình yêu cha mẹ là có sự than thân trách phận khi bị ép duyên, có cả sự tủi hờn.
Mẹ em thấy của thời tham
Hang hùm cứ tưởng hang vàng ép con
Nói ra thẹn với nước non
Ngậm vào cay đắng lòng con đêm ngày.
2.1.3 Trên phương diện con dâu, đối xử với mẹ chồng
Trên phương diện con dâu, đối xử với mẹ chồng là yêu thương là trân trọng như mẹ đẻ, nhưng cũng có sự đối nghịch với mẹ chồng trong gia đình.
Trong ca dao của ta, chúng ta thấy có những câu, những bày tỏ ý oán giận cha mẹ chồng, thứ nhất là mẹ chồng có khi oán trách cả cha mẹ đẻ và cả chồng nữa, ca dao có những câu:
Hai ta là bạn thong dong
Như đôi đĩa ngọc nằm trong mâm vàng
Bởi chung thầy mẹ nói ngang
Cho nên đũa ngọc, mâm vàng xa nhau.
Trong thời phong kiến, chúng ta biết giữa mẹ chồng và nàng dâu thường có mâu thuẫn sâu sắc.
Khi đi lấy chồng, họ còn chịu thêm trăm điều cay cực. Quan niệm “xuất giá tòng phu”, “lấy chồng làm ma nhà chồng” đã khiến bao người phụ nữ xa quê phải ngậm ngùi nuốt đắng cay, thấm thía nỗi buồn, nhớ khi nghĩ về quê mẹ:
- “Chiều chiều ra đứng bờ sông
Muốn về với mẹ mà không có đò”
- “Chiều chiều ra đứng ngõ sau
trông về quê mẹ ruột đau chín chiều”
- “Chiều chiều xách giỏ hái rau
Ngó lên mả mẹ ruột đau như dần”
Nhớ nhà, nhớ mẹ mà không được về, những người đi làm dâu còn phải chịu sự đày đọa của gia đình nhà chồng, đặc biệt là mẹ chồng. Trong chế độ cũ, những người mẹ chồng xưa kia thường là “nỗi kinh hoàng” của những nàng dâu vì xã hội phong kiến với quan niệm hôn nhân gả bán cho phép người ta “mua” vợ cho con khác nào mua người làm không công, trả cái nợ đồng lần mà chính người mẹ chồng trước đây phải gánh chịu:
- “Tiếng đồn cha mẹ anh hiền
Cắn cơm không vỡ cắn tiền vỡ tan”
- “Trách cha, trách mẹ nhà chàng
Cầm cân chẳng biết là vàng hay thau
Thực vàng chẳng phải thau đâu
Đừng đem thử lửa mà đau lòng vàng”
Trong hoàn cảnh ấy đại đa số những người phụ nữ phải cam chịu, nín nhịn nhưng cũng có trường hợp, người con dâu tỏ thái độ phản kháng có phần quyết liệt, cô “đội nón về nhà mình” dẫu biết hành động ấy sẽ bị lên án, bị không ít tiếng thị phi, cay độc vì trong xã hội xưa còn gì đáng sợ hơn bằng tội “trốn chúa, lộn chồng”:
“Cô kia đội nón đi đâu
Tôi là phận gái làm dâu mới về
Mẹ chồng ác nghiệt đã ghê
Tôi ở chẳng được, tôi về nhà tôi”
Sở dĩ họ phải phản kháng là do không còn nơi để bấu víu, tựa nương. Mẹ chồng đã vậy, lại còn chịu thêm nỗi khổ của “cảnh chồng chung”. Xã hội phong kiến cho phép “trai quân tử năm thê bảy thiếp, gái chính chuyên chỉ có một chồng” đã gây ra bao cảnh đau lòng.
2.1.4 Trên phương diện người vợ
Một khi đã chọn được ý trung nhân rồi, phận gái chữ tòng. Bổn phận của người phụ nữ là “xuất giá tòng phu”, sau khi dâng ly rượu tiễn biệt, từ giã cha mẹ đi theo chồng:
Rượu lưu ly chân quỳ tay rót
Cha mẹ uống rồi dời gót theo anh.
Chữ Tòng được tôn trọng triệt để, không chỉ người phụ nữ bình dân, ngay cả gia cấp quý tộc, con gái vua lấy chồng cũng phải giữ phận chữ tòng:
Con vua lấy thằng bán than
Nó dắt lên ngàn cũng phải đi theo.
Hay:
Ghe bầu trở lái về đông
Làm thân con gái thờ chồng nuôi con.
Nho giáo dạy người phụ nữ có bổn phận phải nghe lời chồng:
Con quốc kêu khắc khoải mùa hè
Làm thân con gái phải nghe lời chồng
Người phụ nữ sẵn sàng chấp nhận những thiếu xót của người đàn ông được cô gọi là chồng. Không vì người đó xấu mà buồn. Không vì người đó nghèo mà xấu hổ. Cho dù có xấu, có nghèo hơn những người khác nhưng người đàn ông đó là của riêng cô. Chồng là người cô nương tựa suốt đời. Không so sánh chồng mình với chồng người khác. Thật đáng khen. Thời nay, số phụ nữ bỏ chồng vì hoàn cảnh kinh tế eo hẹp không phải là ít. Hiếm có người thốt lên câu:
Xấu xa cũng thể chồng ta,
Dù cho tốt đẹp cũng ra chồng người.
Nhất là khách lại là bạn của chồng, dù cực nhọc đến mấy, người phụ nữ lúc nào cũng đơn độc, lủi thủi, cố gắng cơm nước phục vụ khách đầy đủ, tươm tất, cho vui lòng lang quân.
Cái bống là cái bống bình,
Thổi cơm nấu nước một mình mồ côi.
Rạng ngày có khách đến chơi
Cơm ăn rượu uống cho vui lòng chồng.
Đối tượng cũng lại là chồng, con cùng gia đình chồng. Không quản nắng mưa, cực khổ, trèo đèo, lặn suối. Chữ “khổ” (có vị đắng, lo lắng), “gánh”(cho cảm giác nặng nề), “lụy”(trói buộc, sự gì phiền đến thân), ‘đắng cay”, “mặn nồng”, “gắng công” (cố sức) dồn dập tuôn ra. Toàn là những từ chỉ sự khổ sở, nhọc nhằn. Không thấy có vị ngọt.
Hoặc:
Thương chồng nên phải gắng công
Nào ai xương sắt da đồng chi đây
Xem gia đình chồng là gia đình mình. Chu toàn bổn phận làm dâu, giữ gìn danh tiếng cho gia đình chồng. Nuôi mẹ chồng và con cái khi người chồng đi xa.
Anh về hái đậu chày cà
Để em đi chợ kẻo mà lỡ phiên,
Chợ lỡ phiên tốn công thiệt của,
Miệng tiếng người cười rõ sao nên,
Lấy chồng phải gánh giang sơn,
Chợ phiên còn lỡ, giang sơn còn gì.
Hay:
Con cò lặn lội bờ sông
Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non.
Nàng về nuôi cái cùng con
Để anh đi trẩy nước non Cao Bằng
Bản thân và nhan sắc không còn gì cả. Úa tàn. Ủ rũ. Cực khổ. Thật là tội nghiệp. Còn đâu “yếm thắm hở lườn”, hấp dẫn như lúc chưa chồng. Người vợ trèo đèo, lặn suối, mò cua bắt ốc suốt ngày để mưu sinh. Cụm từ “vú xếch lưng eo” dễ cho người ta liên tưởng đến hình ảnh “vú thỏng dưa gang”. Chữ “vì” được lập đi lập lại nhiều lần nhấn mạnh “thủ phạm” làm nhan sắc tàn phai chính là người chồng.
Một ngày ba bận trèo đèo
Vì ai vú xếch lưng eo hỡi chàng.
Vì chàng thiếp phải mò cua,
Những như thân thiếp thì mua mấy đồng.
Vì chàng thiếp phải long đong
Những như thân thiếp cũng xong một bề.
Khuyến khích chồng lên đường đánh giặc, bảo vệ đất nước, giúp chồng yên tâm lên đường bằng cách chăm sóc gia đình chu đáo.
Chàng ơi phải lính thì đi,
Cửa nhà đơn chiếc đã thì có tôi.
Anh đi em ở lại nhà
Hai vai gánh vác mẹ già con thơ.
Hình tượng phụ nữ Việt Nam ngày xưa thật tuyệt vời. Vừa đẹp người ,vừa đẹp nết. Họ là những người vợ đảm, mẹ hiền, lại có tinh thần yêu nước. Hoàn hảo quá! Không chỗ nào chê được.Và cũng thật đáng thương.
Nếu vô phước gặp một người chồng không ra gì, bài bạc, ăn chơi phá của, công nợ ngập đầu, người vợ âm thầm gánh chịu, trang trải nợ nần, “ngậm bồ hòn” không dám than van vì sợ xấu hổ.
Chồng em nó chẳng ra gì
Tổ tôm xóc dĩa nó thì chơi hoang.
Nói ra xấu thiếp hổ chàng,
Nó giận nó phá tan hoang cửa nhà.
Nói đây thời có chị em nhà,
Còn năm ba thúng thóc với một vài cân bông
Em bán đi trả nợ cho chồng.
Còn ăn hết nhịn cho hả lòng chồng con.
Đắng cay ngậm quả bồ hòn…
Chế độ phong kiến đã bóp nghẹt tư tưởng nhân dân lao động, nên phần đông họ chỉ hờn duyên tủi phận, oán giận âm thầm. Ở đây người người thôn nữ căm thù sâu sắc mụ vợ cả, nhưng không có cách nào chống đối ngoài những lời than thở.Khao khát của người phụ nữ ở đây không phải là cái khao khát mang tính chất bản năng thuần tuý mà là những khát khao hạnh phúc chính đáng nhất của một con người. Vì thế họ đã nhắn nhủ nhau:
- “Đói lòng ăn nắm lá sung
Chồng một thì lấy, chồng chung thì đừng”
- “Chồng con là cái nợ nần
Thà rằng ở vậy nuôi thân béo mầm”.
Nhưng dù sống trong bất hạnh, tâm hồn người phụ nữ vẫn sáng lên lấp lánh ánh sáng của trái tim đôn hậu, cao thượng, vị tha. Từ trong khổ đau, bất hạnh, từ trong tiếng hát than thân đầy tủi cực, tâm hồn trung hậu, đẹp đẽ, thuỷ chung của người phụ nữ vẫn vươn lên, toả sáng khiến cho tiếng hát than thân kia không mang vẻ bi luỵ mà vẫn toả sáng, ấm áp tình đời, tình người. Ca dao đã phản ánh đầy đủ những vẻ đẹp đó của họ - những con người thuỷ chung son sắt, giàu nghĩa tình. Quên đi những nhọc nhằn, vất vả của cuộc sống lao động, những người phụ nữ bình dân ấy cũng có những phút giây sống cho cảm xúc riêng tư, cũng trải qua các cung bậc nhớ nhung của một trái tim mới yêu:
- “Gió sao gió mát sau lưng
Dạ sao dạ nhớ người dưng thế này”
- “Nhớ ai bổi hổi bồi hồi
Như đứng đống lửa như ngồi đống than”
Có cô gái thì hồn nhiên, tinh nghịch. Họ không quá câu nệ như các cô gái khuê phòng:
Ước gì sông rộng một gang
Bắc cầu dải yếm cho chàng sang chơi”
Cũng có khi thật tế nhị, ý ứ, nết na:
“Sáng ngày tôi đi hái dâu
Gặp hai anh ấy ngồi câu thạch bàn
Hai anh đứng dậy hỏi han
Hỏi rằng cô ấy vội vàng đi đâu
Thưa rằng tôi đi hái dâu
Hai anh mở túi đưa trầu mời ăn
Thưa rằng bác mẹ tôi răn
Làm thân con gái chớ ăn trầungười”
Họ biết đề cao tình yêu thương, lòng chung thuỷ:
- “Trăng tròn chỉ một đêm rằm
Tình duyên chỉ hẹn một lần mà thôi”
- “Muối ba năm muối đang còn mặn
Gừng chín tháng gừng hãy còn cay
Đạo cương thường chớ đổi đừng thay
Dẫu có làm nên danh vọng hay rủi có ăn mày ta cũng theo nhau”
Người phụ nữ đảm đang, vị tha, chung thuỷ đã thể hiện cảm nghĩ của một cách giản dị mà vẫn có sức cuốn hút lạ thường. Cả khi khó khăn họ vẫn nhẫn nại:
- “Chồng em áo rách em thương
Chồng người áo gấm , sông hương mặc người”
- “Râu tôm nấu với ruột bầu
Chồng chan vợ húp gật đầu khen ngon”
Chỉ những lời ca ngắn ngủi mà chất chứa trong đó bao ý tình sâu xa. Đó là lời nhắn nhủ của những người phụ nữ trọn nghĩa vẹn tình. Dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, họ vẫn đồng cam cộng khổ cùng chồng, xây dựng một gia đình đầm ấm yên vui.
Ở thời nào cũng vậy, vẻ đẹp của người phụ nữ như một hằng số, bất biến ngàn đời. Đó là sự nhẫn nại, cam chịu, là sự thuỷ chung son sắt. Dù bao khổ đau, bất hạnh vẫn không thể vùi lấp được những vẻ đẹp đó. Nó như những viên ngọc thô mà thời gian, những bất hạnh khổ đau là chất xúc tác mài giũa, càng ngày càng toả sáng lấp lánh.
2.1.5 Trên phương diện người mẹ
Trong các hình ảnh về gia đình mà mỗi người chúng ta còn giữ lại, có lẽ hình ảnh về mẹ là sâu dậm và rõ rệt hơn cả. Nó rõ rệt đến nỗi không chỉ được gợi lại qua các kỷ niệm của cuộc sống thường ngày, mà còn được viết ra cả trong thơ văn. Không cần nhìn đâu xa, chỉ cần rở bất cứ một cuốn tục ngữ ca dao nào ra, thì ta cũng đọc được nhan nhản những câu ca phác họa hình ảnh mẹ.
Bức tranh thứ nhất mà ca dao Việt Nam vẽ về mẹ là bức tranh bà mẹ nghĩa đức đầy công lao sinh đẻ, nuôi nấng và vun trồng gầy dựng cho con cái. Công lao này có thể được tóm gồm qua chữ ‘nghĩa‘ :
Công cha như núi Thái Sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Có khi công lao ấy lại được tổng hợp trong chữ ‘đức‘ :
Công cha đức mẹ cao dầy,
Cưu mang trứng nước những ngày thơ ngây.
Hạnh phúc lớn nhất của mỗi người làm mẹ là được thầy tiếng cười của con mình, chính con cái là động lực để mỗi người mẹ duy trì sự sống, là nguồn động viên an ủi mỗi lúc khó khăn, vất vả. Chính vì vậy mà mỗi đứa con là sản phẩm cao quý mà ông trời đem lại cho những người làm mẹ. Con cái là những gì cao quý nhất không gì sánh bằng.
Có vàng, vàng chẳng hay phô
Có con con nói trầm trồ mẹ nghe.
Mẹ dành tất cả tình thương cho con, luôn mong cho con được vui sướng, hạnh phúc.
Sinh con ai nỡ sinh lòng
Sinh con ai chẳng vun trồng cho con
Mẹ chăm sóc con từng li, từng tí một.
Đã bao đêm, mẹ thức trắng để canh cho con canh cho con một giấc ngủ ngon lành.
Gió mùa thu mẹ ru con ngủ
Năm canh chầy, mẹ thức đủ năm canh.
Người mẹ luôn dạy bảo, khuyên răn con phải sống thế nào cho tốt. Mẹ uốn nắn cho con từ những ngày thơ dại.
Uốn cây từ thủa còn non
Dạy con từ thủa con còn ngây thơ
Và mẹ không quên nhắc nhở con cái về cái gia nghiệp, về đức cần kiệm, về cách làm ăn :
Trăm năm như cõi trời chung,
Trăm nghề cũng phải có công mới thành.
Cứ trong gia nghiệp nhà mình,
Ngày đêm xem sóc giữ gìn làm ăn.
Chữ rằng ‘Tiểu phú do cấn’,
Còn như ‘Đại phú‘ là phần ‘do thiên’.
Đừng trễ nải, chớ ghét ghen,
Còn như lộc nước, có phen dồi dào.
Bà cũng không quên rắng xã hội không chỉ có ‘sĩ‘, mà còn có ‘nông’, ‘công’ và ‘thương’. Và chịu ảnh hưởng sâu đậm văn hóa Khổng nho, bà vẫn tâm niệm rằng :
Trời thu vừa gặp tiết lành,
Muôn dân yên khỏe thái bình âu ca.
Muốn cho yên nước, yên nhà,
Một là đắc hiếu, hai là đắc trung.
Trong bốn nghiệp ra công gắng sức,
Đường nghĩa phương ta phải khuyên con.
Đặc biệt, người mẹ dạy con phải biết phụng thờ, hiếu kính với tổ tiên, ông bà
Khôn ngoan nhờ ấm cha ông
Làm nên phải đoái tổ tông phụng thờ
Đạo làm con chớ hửng hờ
Phải đem hiếu kính mà thờ từ nghiêm.
Hình ảnh đảm đang của mẹ đã được họa trong khung cảnh của một gia đình đầy đủ. Nhưng cuộc sống không phải lúc nào cũng hoàn hảo như thế. Có những lúc người cha đi vắng. Sự can đảm của người mẹ thực là cao cả.
Anh đi, em ở lại nhà,
Hai vai gánh vác mẹ già con thơ.
Lầm than bao quản muối dưa,
Anh đi, anh liệu chen đua với đới.
Hoặc thì nét nhớ nhung, nét cô đơn phảng phất khắp bức tranh.
Bác mẹ già lơ phơ đầu bạc,
Con chàng còn trứng nước thơ ngây.
Có hay chàng ở đâu đây,
Thiếp xin mượn cánh chắp bay theo chàng.
Bức tranh này thành ra thống thiết, nếu sự vắng bóng của người cha là vĩnh viễn. Hình ảnh mẹ góa nuôi con côi thực là chơi vơi.
Thiệt hại thay cho thằng bé nên ba,
Nó lăn, nó khóc giữa nhà năm gian,
Khóc than giữa chốn linh sàng,
Ba vuông nhiễu tím đôi hàng chữ vôi.
Chớ thiệt hại thay, người khác thì đã yên rồi,
Để cho người sống ở đời trơ vơ.
Ba bốn năm nhang khói thiếp tôi phụng thờ,
Đầu đội chữ hiếu, tay xe chữ tình.
Chữ Hiếu Trung, tôi gánh vác một mình,
Chẳng hay chàng có thấu tình thiếp hăng ?
Đường đi Khuất nẻo khói chùng.
Chỉ những lời ca ngắn ngủi mà chất chứa trong đó bao ý tình sâu xa. Đó là lời nhắn nhủ của những người phụ nữ trọn nghĩa vẹn tình. Dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, họ vẫn đồng cam cộng khổ cùng chồng, xây dựng một gia đình đầm ấm yên vui.
2.2. Nhân vật nam trên các phương diện
2.2.1 Trên phương diện người yêu
Vai giao tiếp là nam cũng biểu hiện trên nhiều phương diện, đặc sắc nhất vẫn là tình yêu đôi lứa.
Trên phương diện người yêu, được thể hiện qua nhiều cung bậc và sắc thái tình cảm. khi tình yêu bắt đầu nảy nở là sự tỏ tình khéo léo, kín đáo, có khi táo bạo, suồng sã chất phác, mảnh liệt. tình yêu nồng nàn, thắm đượm con tim yêu thương, là sự nhớ nhung vô bờ bến, là khát khao dâng hiến cho người mình yêu những gì tốt đẹp nhất. tình yêu của chàng chân thành, nhưng cũng có sự trách móc, phân vân khi phụ tình.
Hãy nghe chàng trai mở đầu, hỏi người thôn nữ bằng một câu hỏi ỡm ờ, gợi ý xa xôi:
Hôm qua tát nước đầu đình
Bỏ quên chiếc áo trên cành hoa sen
Em được thì cho anh xin
Hay là em để làm tin trong nhà.
Cái áo chàng bỏ quên có thể vô tình nhưng rất có thể là cố ý. Cũng có thể chỉ là sự bịa đặt khéo léo để tạo nên cái cửa sổ đầu tiên để chàng trai hé mở lòng mình với cô gái. Người con trai chưa thật sự chưa chắc để quên cái áo, nhưng chàng cố ý gài người thôn nữ vào thế phải trả lời khi tỏ ý ngờ rằng nàng đã giữ cái áo của mình để làm tin.
Cũng có khi chỉ là một câu hỏi bâng quơ nhưng diễn đạt bằng những câu thơ thật trữ tình của một đêm trăng sáng, chàng trai có nhiều hi vọng để được cô gái trả lời:
Hỡi cô tát nước đầu làng
Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi
Nhiều khi chàng mạnh dạn hơn:
Cô kia cắt cỏ một mình
Cho tôi cắt với chung tình làm đôi
Cô còn cắt nữa hay thôi
Cho tôi cắt với làm đôi vợ chồng.
Nhưng thường thì các chàng trai làng hỏi dọ ý một cách nhẹ nhàng hơn, không dung hai chữ “vợ chồng” nghe có vẻ suồng sã, mà dùng hai chữ “ kết duyên”, có vẻ thơ mộng hơn.
Hỏi xa anh lại hỏi gần
Hỏi em phỏng độ đương xuân thế nào
Thấy em là gái má đào
Lòng anh chỉ muốn ra vào kết duyên
Có kiểu suồng sã, chất phát:
Gặp em anh nắm cổ tay
Nhờ vá cái áo mượn may cái quần.
Khi đã yêu người con trai muốn làm tất cả cho người mình yêu, một khát khao hiến dâng cho người mình yêu những gì tốt đẹp nhất:
Ước gì anh hóa ra hoa
Để em nâng lấy rồi mà cài khăn
Ước gì anh hóa ra chăn
Để cho em đắp, em lăn, em nằm
Ước gì anh hóa ra gương
Để cho em cứ ngày thường em soi
Ước gì anh hóa ra cơi
Để cho em đựng cau tươi, trầu vàng.
Ở đây sử dụng điệp ngữ “ước gì” hai lần một cách dứt khoát, thể hiện ước nguyện chính đáng và trong sáng của chàng trai đó, về sự chung đôi của với cô gái qua các từ “gương” “cơi”. “Gương” là vật dụng hằng ngày các cô gái thường dùng để làm đẹp cho chính bản thân, ở thì đây, chàng trai cũng muốn được bên người con gái đó mỗi ngày. “Cơi” và “ cau tươi trầu vàng” là những thứ luôn gặp trong đám cưới. Ước nguyện được cưới cô gái, được cùng ăn đời ở kiếp với cô cho đến cuối đời mình, vì lẽ “Cơi” luôn đồng hành với “cau”, “trầu”. “Cau tươi trẩu vàng” còn thể hiện sự thiêng liêng, bất tử của tình yêu. Chàng đã dùng những hình ảnh đó như là lời cầu hôn của mình. Điệp từ “ước gì” là những mong muốn, ước vọng của chàng trai với cô gái, đến những điều tốt đẹp. Bài ca dao đã cho ta thấy một cách tỏ tình hết sức giản dị mà sâu sắc. Khát vọng yêu và được yêu của nhân vật trữ tình.
Sau gian đoạn tỏ tình là đến giai đoạn yêu đương và đây là thời gian thơ mộng nhất cũng như đầy thử thách nhất. Nào yêu thương, nào nhớ nhung, nào giận hờn, nào xa cách, nào đợi chờ…
Chàng trai thủ thỉ bên nàng:
Thương anh em để ở đâu
Để trong cuốn sách để đầu trang thơ
Thương em anh để ở đâu
Để trong tay áo lâu lâu lại dòm.
Khi phải tạm xa nhau, chàng trai luyến tiếc những giây phút cận kề:
Còn đêm nay nữa mai đi
Lạng vàng không tiếc, tiếc khi ngồi kề.
Trời đã sáng, những gặp gỡ hàn huyên đêm qua giờ chỉ còn là kỉ niệm mong mênh để làm hành trang cho cuộc đăng trình.
Trạng thái tình cảm của phái nam lại chủ yếu là thương yêu “thương em”, “anh thương”, “yêu em”, nhưng lại ít “nhớ em”, “thương vợ” “thương em” cũng không kém phần mãnh liệt sâu sắc, đắm say:
Thương em vô giá quá chừng
Trèo non quên mệt, ngậm gừng quên cay
Thương em nỏ biết mần răng
Mười đêm ra đứng trông trăng cả mười
Những nhớ nhung đó đã đong đầy thêm tình yêu, để khi gặp lại thì hai người vội vã ước hẹn cho những mộng ước mai sau:
Ước gì ta lấy được nàng
Để ta mua gạch Bát Tràng về xây
Xây dọc rổi lại xây ngang
Xây hồ bán nguyệt cho nàng rửa chân.
Tình yêu của chàng chân thành, nhưng cũng có sự trách móc, phân vân khi bị phụ tình.
Ngày nào em nói em thương
Như trầm mà để trong rương chắc rồi
Bây giờ khóa rớt chìa rơi
Rương long, nắp vỡ bay hơi mùi trầm
2.2.2 Trên phương diện người con, người con trai hiếu thảo
Trên phương diện người con, người con hiếu thảo, biết ơn thể hiện chí nam nhi, là sự nhớ thương khi xa gia đình, mẹ già.
Trong ca dao, người con trai hiếu thảo luôn luôn dành tình cảm yêu thương cho cha mẹ, luôn cầu mong cho cha mẹ mạnh khỏe, sống lâu.
Mỗi đêm mỗi thắp đèn trời
Cầu cho cha mẹ sống đời với con.
Người con trai luôn biết ơn công lao cha mẹ, cho nên giờ đây, chàng trai ra sức chăm sóc, nuôi dưỡng mẹ già.
Tôm rằn lột vỏ bỏ đuôi
Gạo lúa nhe An Cựu mà nuôi mẹ già
Mẹ già là mẹ nhà anh
Em vô bảo dưỡng cá canh cho thường
Mẹ già như chuối ba hương
Như xôi nếp một, như đường mía lau
Hay trong câu ca dao.
Làm trai nết đủ trăm đường
Trước tiên điều hiếu đạo thường ngày xưa
Công cha đức mẹ cao dày
Cưu mang trứng nước những ngày ngày thơ
Nuôi con khó nhọc đến giờ
Trưởng thành con phải biết thờ hai thân
Thức khuya dậy sớm chuyên cần
Quạt nồng ấp lạnh giữ phần đạo con.
Người con trai có hiếu, luôn muốn phụng dưỡng mẹ cha, thể hiện ý chí nam nhi.
Em thời đi cấy ruộng bông
Anh đi cắt lúa để chung một nhà
Đem về phụng dưỡng mẹ cha
Muôn đời tiềng hiếu người ta còn truyền.
Như vậy người con trai trong gia đình được ca dao thể hiện đó là người con hiếu thảo, biết ơn thể hiện chí nam nhi. Đồng thời thể hiện sự nhớ nhung da diết khi xa nhà, xa quê hương.
2.2.3 Trên phương diện người cha
Trên phương diện người cha, ngoài việc sinh thành ra con cái, còn là tình yêu thương tha thiết, là trụ cột gia đình, chỉ bảo nuôi dạy con trưởng thành. Người cha là trụ cột trong gia đình, có trách nhiện quan trọng là chỉ dạy nuôi dạy con nên người.
Trước hết người cha dạy con phải giữ trọn làm con.
Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con
Mặt khác cha dạy con đã là anh em thì phải yêu thương lẫn nhau.
Khôn ngoan đối đáp người ngoài
Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau
Cha còn dạy con, phải biết kính trên, nhường dưới.
Chữ nghĩa là chử nhường
Nhường anh, nhường chị là nhường người trên
Ghi lòng tạc dạ chớ quên
Con em phải giữ lấy nền con em.
Như vậy vai trò của người cha là rất quan trọng. Cha dành tất cả tình thương yêu tốt đẹp nhất cho những người con của mình.
2.3. Sự hòa hợp và đối trọng trong quan hệ nam nữ
2.3.1 Sự hòa hợp trong quan hệ nam nữ
Bước đầu của tình cảm hoà hợp là sự gần gũi, tìm cách giao tiếp nhẹ nhàng, hữu tình, hữu ý. Đôi lứa cùng chung lý tưởng tình yêu và xây dựng hạnh phúc gia đình. Sự hòa hợp là sự đối đáp qua lại có sự gợi mở cho tâm hồn.
Đêm khuya thiếp mới hỏi chàng
Cau xanh ăn với trầu vàng xứng chăng?
Cau xanh nhá lẫn trầu vàng
Duyên em sánh với tình anh tuyệt vời
Hay
Đêm trăng thanh anh mới hỏi nàng,
Tre non đổ lá đan sàng nên chăng?
Đan sàng thiếp cũng xin vâng,
Tre vừa đủ lá, non chăng hỡi chàng?
Ca dao dân ca Việt Nam có khá nhiều bài ca đối đáp rất hay, rất đẹp như một bài thơ tình tuyệt tác. Hát đối đáp để giao duyên, để tỏ tình là một hình thức sinh hoạt của trai gái làng quê ngày xưa rất trong sáng lành mạnh, là một nét đẹp văn hóa truyền thống mang tính nhân văn của xã hội, của nền văn minh sông Hồng trồng lúa nước mấy nghìn năm.
Những đêm hè, những đêm th gió mát trăng thanh, trong dịp nông nhàn, trên sân nhà, sân đình, trai gái trong xóm ngoài làng, tụ họp đông vui để hát đúng, hát giặm, hát đối đáp giao duyên. Từ những câu hát đối đáp ấy mà có biết bao anh Mận cô Đào, cậu Điền cô Tấm kết thành bạn trăm năm.
Đan sàng thiếp cững xin vâng
Câu hỏi của chàng trai thì mặn mà. Câu trả lời của cô thôn nữ thì vừa thông minh sắc sảo, vừa có duyên. Một nửa câu xác nhận, một nửa câu hỏi lại.
Tre vừa đủ lá non chăng hỡi chàng?
Cô gái nhắc lại hai lần ẩn dụ. “Đan sàng” và “tre vừa đủ lá’. Bốn chữ “thiếp cũng xin vâng” có ngữ điệu nhẹ nhàng, lễ phép, biểu lộ sự hài lòng, đồng ý, chấp nhận lời tỏ tình của chàng trai. Bài ca giao duyên “Đêm trăng thanh, anh mới hỏi nàng…” có lời đẹp, tình đẹp. Thấm đượm chất phong tình. Một cách tỏ tình trang nhã, duyên dáng rất xứng đôi. Bóng trăng thanh đã làm cho cuộc giao duyên của lứa đôi thêm phần thơ mộng.
Cặp xưng hô “mình- ta” mang sắc thái biểu cảm, là từ xưng gọi ân tình, trìu mến thường thể hiện trong giao tiếp của những đôi lứa yêu nhau mà tình cảm đã đến độ chín muồi.
Mình về có nhớ ta chăng?
Ta như lạc buộc khăng khăng nhớ mình
Ta về ta cũng nhớ mình
Nhớ yếm mình mặc, nhớ tình mình trao.
2.3.2 Sự đối trọng trong quan hệ nam nữ
Đối trọng giữa hai vai giao tiếp có điểm giống nhau về thân phận con người, nhưng khác nhau do phân cách trọng khinh: trọng nam, kinh nữ và giới tính. Đối trọng do quan niệm phong kiến, địa vị, phân chia giàu nghèo.
Chiếu hoa mà trải sập vàng
Điếu ngô xe trúc sao chàng chẳng say
Nhưng nơi chiếu cói võng đay
Điếu sần xe sậy chàng say la đà
Hay trong câu ca dao thể hiện sự than trách của người con gái đối với người con trai.
Chàng ơi phụ thiếp làm chi
Thiếp như cơm nguội đỡ khi đói lòng
C. KẾT LUẬN
Tôi vẫn thích ca dao hơn bất cứ bộ phận văn học nào khác của Việt Nam bởi ca dao chính là tiếng nói của đồng nội, là âm vang của làng quê tổ truyền, phản ảnh sinh hoạt nông thôn, chứa chan tình cảm dân tộc và màu sắc xứ sở. Ca dao là tiếng vọng ngàn năm của cha ông, là nhịp cầu nối giữa quá khứ và hiện tại, giúp chúng ta hiểu thêm về dân tộc mình, về đất nước mình, hiểu hơn về chúng ta. Chúng ta hãy cùng chiêm ngưỡng những viên ngọc quý và hãy cùng trân trọng, nâng niu, góp phần làm cho ngọc càng ngày tỏa sáng hơn.
Ca dao là tấm gương trung thực về cuộc sống muôn màu muôn vẻ của nhân dân lao động, trong đó ca dao trữ tình là một thiên tình ca muôn điệu. Qua thế giới nhân vật trữ tình chúng ta đã khám phá ra được tình yêu, tình cảm, cảm xúc của con người. Sau lũy tre làng, những cánh đồng bát ngát, những dòng suối mát, cả những chẽn lúa đồng, con đê là hiện hữu của tình yêu lành mạnh, đằm thắm, hồn nhiên vượt ngoài lễ giáo phong kiến. Bên cạnh đó là những tình cảm của người cha, người mẹ, những đứa con, anh em, bạn bè,…họ đều dành cho nhau những tình cảm chân thành và sâu sắc.
1. Lý do chọn đề tài
Được thử thách qua không gian, thời gian và lòng người, được gọt giũa bởi hàng vạn nhà thơ dân gian vô danh. Ca dao Việt Nam đã trở thành viên ngọc quý óng ánh trong kho tàng văn học dân gian dân tộc. Có thể nói hang ngàn thế hệ người Việt Nam không ai không thuộc ít hơn một câu ca dao. Điều đó cũng đủ cho ta thấy ca dao Việt Nam đi sâu vào đời sống tinh thần, tâm hồn mọi người dân đất Việt.
Ca dao là khúc hát tâm tình của người dân quê Việt Nam được lưu truyền qua bao năm tháng. Nó bồi đắp tâm hồn ta từ những ngày thơ bé qua lời ru êm đềm của bà và mẹ, nó rực rỡ thêm ngát như những bông sen trong đầm, gần gũi quen thuộc như lũy tre bao bọc xóm làng, như cánh cò bay lả trên đồng ruộng, nó giúp ta cảm nhận sâu sắc về vẻ đẹp bình yên nơi thôn quê, nơi nhọc nhằn cũng như vẻ đẹp khỏe khoắn của người lao động, tình cảm gia đình thắm thiết, nghĩa vợ chồng tao khang của những con người quê chân chất, mộc mạc. Ca dao được coi như là một kho tài liệu phong phú về phong tục, tập quán trong các lĩnh vực sinh hoạt vật chất và tinh thần của nhân dân lao động. đó là tiếng hát trữ tình của con người, là tiếng hát của tình yêu trong mọi khó khăn vui buồn của cuộc sống.
Dù theo nhịp điệu cuộc sống theo hướng phát triển của nhân loại nhưng những câu ca dao xưa vẫn là những lời hát ru dành cho thế hệ trẻ hôm nay, càng ngày con người càng nghiên cứu và tìm ra được nhiều vẻ đẹp, nét đặc trưng độc đáo của nó. Đó là tất cả những lý do tôi chon nghiên cứu đề tài này.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Những công trình nghiên cứu về ca dao trong mấy thập kỷ qua là vô cùng phong phú và đa dạng với số lượng ngày càng tăng. Phải chăng vì muốn thưởng thức cái đẹp, cái hay của những bài ca dao trữ tình nên đã có rất nhiều nhà nghiên cứu về ca dao Việt Nam với quy mô lớn như: Kho tang ca dao người Việt do Nguyễn Xuân Kính và Phan Đăng Nhật( chủ biên), Ca dao Việt Nam và những lời bình của tác giả Vũ Thị Thu Hương, Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam của Vũ Ngọc Phan, Thi pháp ca dao của Nguyễn Xuân Kính
…Và một số công trình nghiên cứu liên quan đến các nhân vật trong ca dao: Cấu trúc ca dao trữ tình người Việt (Lê Đức Luận), thử đề xuất một số cấu trúc lời ca trữ tình người Việt (Lê Đức Luận), lối đối đáp trong ca dao trữ tình (Cao Huy Đỉnh)…
Việc đi sâu khám phá các kiểu nhân vật trong ca dao dường như vẫn chưa kết thúc. Nhiều nhà nghiên cứu về đề tài này vẫn còn tiếp tục. Điều đó cho thấy ca dao có tầm quan trọng rất lớn trong cuộc sống nhân dân ta. Tuy nhiên việc việc đi sâu tìm hiểu vấn đề này dù đã được nhiều nhà phê bình, nghiên cứu quan tâm nhưng do nhiều điều kiện nên câu trả lời đầy đủ vẫn còn nằm ở phía trước. Vì vậy cần có một cái nhìn khái quát chúng ta mới thấy hết những cái hay trong ca dao trữ tình. Trên cơ sở tiếp thu ý kiến của những người đi trước và theo yêu cầu của đề tài, chúng tôi đã và đang cố gắng thực hiện những điều trong bài tiểu luận này.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là: Nhân vật nam và nữ trên các phương diện trong ca dao Việt Nam
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là: Tập trung đi sâu nghiên cứu các kiểu
nhân vật trong ca dao. Phạm vi khảo sát là ca dao trữ tình người Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết vấn đề trên chúng tôi đã vận dụng các phương pháp nghiên cứu các bài ca dao, ngoài ra còn có các phương pháp hổ trợ như phương pháp thống kê, so sánh, đối chiếu, phương pháp tổng – phân – hợp.
5. Mục đích nghiên cứu
Qua đề tài này không những giúp chúng ta thưởng thức được cái đẹp, cái hay trong ca dao, đặc biệt là ca dao trữ tình. Mà còn cho chúng ta thấy được biểu hiện của các vai giao tiếp nam nữ, đồng thời giúp chúng tôi hiểu biết được thế giới chủ quan, đời sống tinh thần, ước mơ tình cảm và nguyện vọng của nhân dân lao động ngày xưa, phát hiện những cái mới mẻ của nhân vật trữ tình trong ca dao người Việt.
6. Cấu trúc đề tài
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và tài liệu tham khảo. Đề tài gồm có hai chương chính.
Chương I : Khái quát chung
Chương II : Các kiểu nhân vật trong ca dao
B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG
1.1. Vài nét về ca dao
Theo cách hiểu thông thường thì “ ca dao là lời của bài hát dân ca đã tước bỏ đi tiếng đệm, tiếng láy. Khái niệm ca dao đã được quy định dùng để chỉ bộ phận cốt lõi nhất, tiêu biểu nhất: đó là những câu hát đã trở thành cổ truyền của nhân dân.
Ca dao là lời ca dân gian. Lời ca là lời của những làn điệu dân ca và các sáng tác ngâm vịnh của các nà Nho được hòa vào dòng chảy dân gian. Khái niệm Ca dao được xem là phần lời của những câu hát trữ tình truyền thống.
Có nhiều định nghĩa khác nhau. Nhưng quy chung lại ca dao là những lời thơ dân gian được truyền miệng từ đời này sang đời khác và đươc lưu truyềncho đến ngày nay.
1.2. Nhân vật và nhân vật trong ca dao
1.2.1. Khái niệm nhân vật
Nhân vật là khái niệm dùng để chỉ hiện tượng các cá thể con người. Trong tác phẩm văn học, cái đã được nhà văn nhận thức tái tạo, thể hiện bằng các phương tiện riêng của nghệ thuật ngôn từ.
Đọc bất cứ văn bản văn học nào, trước hết người đọc đều bắt gặp những con người được miêu tả, trần thuật cụ thể. Đó chính là những nhân vật văn học. Như vậy nhân vật là khái niệm có nội hàm phong phú, định danh một hiện tượng phổ quát của thế giới tác phẩm văn học bao gồm nhiều bình diện và cấp độ như thế, các nhà nghiên cứu có một thuật ngữ để chỉ định, và giữa các thuật ngữ có mối liên hệ qua lại khá phức tạp.
1.2.2. Nhân vật trong ca dao
Nhân vật trong ca dao là nhân vật trữ tình – tâm trạng. Đây là nhân vật giao tiếp nên có nhân vật là chủ thể trữ tình và nhân vật là đối tượng trữ tình. Nhân vật trung tâm của ca dao là nhân vật Nam – Nữ làm song hành với nhau theo từng cặp giao tiếp đối đáp hay từng phe đối đáp. Hai vai nam – nữ là hai vai vừa tương hợp vừa đối kháng, vừa cân bằng vừa đối trọng.
CHƯƠNG 2 : CÁC KIỂU NHÂN VẬT TRONG CA DAO
2.1. Nhân vật nữ trên các phương diện
2.1.1 Trên phương diện người yêu
Cái đẹp của ca dao giống như cái đẹp của cô thôn nữ, ẩn tàng sức sống. Hình ảnh trong ca dao rất sắc nét, mạnh mẽ, có khí lực, trong trẻo như không khí đồng quê buổi sáng. Một trong những hình ảnh mà ca dao thường đề cập đến là hình tượng của người phụ nữ. Họ có nhiều đức tính tốt, nhưng họ là người phải chịu nhiều khổ cực, cay đắng nhất, họ thường không có quyền như nam giới. Được thể hiện qua các mối quan hệ, nhưng đặc sắc nhất vẫn là tình yêu đôi lứa.
Ca dao phác họa những người đẹp đồng quê có dáng đứng không phải liễu rũ, mềm mại, yếu đuối như tiểu thư khuê các mà là:
Trúc xinh trúc mọc đầu đình,
Em xinh em đứng một mình cũng xinh.
Trúc xinh trúc mọc bờ ao
Em xinh em đứng chỗ nào cũng xinh.
Thân trúc thẳng, suông, mảnh mai, láng, dùng để so sánh với dáng thon cao, mạnh khỏe của cô gái nông thôn, thật thích hợp. Có dáng thon thả của thân trúc cộng thêm mái tóc dài thì tuyệt hảo.
Tóc em dài em cài hoa lý
Miệng em cười có ý anh thương.
Chân mày vòng nguyệt có duyên
Tóc mây dợn sóng tợ tiên non Bồng.
Đôi mắt là cửa sổ tâm hồn, đôi mắt đẹp “lúng liếng”(liếc qua liếc lại) đó ở dưới đôi lông mày lá liễu thanh tú thì các chàng trai không uống rượu cũng “say lừ đừ”.
Hoa thơm hoa ở trên cây
Đôi mắt em lúng liếng, dạ anh say lừ đừ.
Những người con mắt lá răm
Đôi mày lá liễu đáng trăm quan tiền.
Nhan sắc, nét đẹp trên người cô gái được các chàng trai cụ thể hóa qua hình ảnh các vật dụng hằng ngày như dao, hoặc bông hoa:
Cổ tay em trắng như ngà
Con mắt em liếc như là dao cau
Miệng cười như thể hoa ngâu
Cái khăn đội đầu như thể hoa sen.
Hay:
Hai má có hai đồng tiền
Càng nom càng đẹp càng nhìn càng ưa
Ba thương má lún đồng tiền,
Bốn thương răng lánh hạt huyền kém thua.
Vừa có khuôn mặt đẹp, vừa có thân mình “ngực nở eo thon”, đẹp cả phương diện thẩm mỹ lẫn phương diện tướng số.
Những người thắt đáy lưng ong
Vừa khéo chiều chồng, lại khéo nuôi con.
Cách ăn mặc, trang phục của cô gái nông thôn cũng được miêu tả tỉ mỉ, gợi hình và rất hấp dẫn:
Đàn ông đóng khố đuôi lương
Đàn bà mặc yếm hở lườn mới xinh.
Còn gì thích mắt cho bằng nhìn cô con gái tuổi xuân hơ hớ mặc yếm đào để lộ hông, eo và lưng trông thật nõn nà bắt mắt, cho nên nhiều anh chàng chịu hết nỗi mới:
Vì cam cho quít đèo bồng
Vì em nhan sắc cho lòng nhớ thương.
Vì vậy, chàng xin kết hôn cùng người đẹp:
Vào vườn trẩy quả cau non,
Thấy em đẹp dòm muốn kết nhân duyên.
Nhưng các cô thôn nữ sợ nhiều khi mình yêu mà chưa chắc đã được yêu, hay sợ tình yêu của mình đến chậm chăng, nên đôi lúc các cô cũng quanh co rào trước đón sau:
Anh đà có vợ con chưa
Mà anh ăn nói ngọt ngào có duyên
Mẹ già anh ở nơi nao
Để em tìm vào hầu hạ thay anh.
Những câu tỏ tình như đã kể ở trên thường là những câu mà trong lúc vắng vẻ, hai người đã hỏi ý cùng nhau. tất cả đều là những câu mộc mạc chân thành, nhưng không kém vẻ lãng mạn trữ tình.
Khi yêu, họ làm tất cả cho người yêu, một khát khao dâng hiến cho người mình yêu những gì đẹp nhất. Đó là tình yêu vô tư, trong sáng, không bị ảnh hưởng bởi tiền tài, địa vị, bất chấp mọi khó khăn miễn là họ ở bên nhau.
- Thương nhau bất luận giàu nghèo
Dù cho lên ải, xuống đèo cũng cam
- Yêu nhau chẳng quản chi nhà
Lều tre quét sạch hơn tòa ngói cao
Tình yêu gắn với sự thủy chung, son sắt, yêu đến sức tàn lực kiệt, yêu đến chết vẫn còn yêu:
Yêu anh tâm trí hao mòn
Yêu anh đến thác vẫn còn yêu anh
Tình yêu tạo nên nghị lực, ý chí phi thường, bất chấp mọi ngăn cấm, rào cản của cha mẹ, tự do quyết định tình yêu:
Từ ngày gặp mặt giữa đàng
Thiếp quyết thương chàng cha mẹ nào hay
Có hay thì nhất đánh, nhì đày
Hay lẽ mà thôi
Thủy chung em giữ trọn mấy lời
Chết thời chịu hết, lìa đôi em không lìa.
Yêu nhau để rồi thương, rồi nhớ, khi sợi tơ hồng đã buộc hai người xa lạ lại với nhau, trái tim thổn thức ngân rung nhịp đập của trái tim.
Nhớ ai con mắt lim dim
Chân đi thấp thểu như chim tha mồi.
Nhớ ai hết đứng lại ngồi
Ngày đêm tơ tưởng một người tình nhân.
Nỗi nhớ mong đợi, khao khát, trăn trở khi họ xa cách
Nhớ ai em những khóc thầm
Hai hàng nước mắt đầm đầm như mưa
Nhớ ai ngơ ngẩn ngẩn ngơ
Nhớ ai, ai nhớ, bây giờ nhớ ai?
Nhớ ai bổi hổi bồi hồi,
Như ngồi đống lửa như ngồi đống than
Nhưng yêu nhiều, nhớ nhiều để rồi, người con gái phải chịu đau đớn khi bị phụ tình
Nào khi mô anh nói với em
Không cạn và tình không cạn
Vàng mòn mà nghĩa không mòn
Bây giờ nước lại xa non
Đêm nằm tơ tưởng héo hon ruột tằm
Ới chi hai dạ ba lòng
Dạ cam thì ngọt, dạ bòng thì chua
Xã hội phong kiến phụ quyền tồn tại hàng nghìn năm với những quan niệm bất công, khe khắt “tại gia tong phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tong tử”, quan niệm trọng nam khinh nữ “Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”, đã dành mọi ưu tiên, ưu đãi cho người đàn ông và đẩy người phụ nữ xuống địa vị thấp kém nhất trong gia đình cũng như xã hội. Nỗi niềm ấy được họ gửi gắm vào những câu ca dao than thân:
- “Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai”
- “Thân em như hạt mưa sa
Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày”
- “Thân em như chổi đầu hè
Phòng khi mưa gió đi về chùi chân
Chùi rồi lại vứt ra sân
Gọi người hàng xóm có chân thì chùi”
Có biết bao nhiêu nỗi khổ mà người phụ nữ phải chịu đựng, nỗi khổ vật chất “ngày ngày hai buổi trèo non”, “ngày thì dãi nắng đêm thì dầm sương”. Nhưng nỗi khổ lớn nhất, xuất hiện với tần số cao nhất vẫn là nỗi khổ về tinh thần, nỗi khổ của thân phận mong manh, bị động, ít giá trị. Những người phụ nữ ở đây bị “đồ vật hoá”, được định giá theo giá trị sử dụng. Thân phận họ chỉ được ví với “hạy mưa sa”, “chổi đầu hè”...Ta có thể cảm nhận được bao nỗi xót xa của người phụ nữ khi cất lên những lời ca ấy. Không phải người phụ nữ không ý thức được vẻ đẹp và phẩm giá đáng quý của mình. Họ luôn ví mình với “tấm lụa đào”, “giếng nước trong”...nhưng những phẩm chất ấy đâu có được xã hội , người đời biết đến và coi trọng. Cả đời họ chỉ lầm lũi, cam chịu trong sự đau khổ, nhọc nhằn. Và dường như sự bất hạnh ấy của người phụ nữ trong xã hội xưa là một hằng số chung, ở tất cả các vùng miền. Người phụ nữ dân tộc Thái cũng từng đau đớn thốt lên: “Thân em chỉ bằng thân con bọ ngựa, con chão chuộc thôi”.
Có ai đó đã nói, nếu dùng một từ để nói về số phận của những người phụ nữ trong xã hội phong kiến thì đó là “tủi nhục”. Quãng thời gian họ sống trên đời được đong đếm bằng những nỗi đau khổ mà họ phải gánh chịu. Khi còn nhỏ, sống trong gia đình, người thiếu nữ đã phải chịu sự bất công của quan niệm “trọng nam khinh nữ”:
- “Cô kia cắt cỏ đồng màu
Chăn trâu cho béo làm giàu cho cha
Giàu thì chia bày chia ba
Phận cô là gái được là bao nhiêu”
- “Em như quả bí trên cây
Dang tay mẹ bứt những ngày còn non”
2.1.2 Trên phương diện người con, người con có hiếu
Trên phương diện người con, người con có hiếu, dành tình cảm yêu thương đối với cha mẹ, nhưng có khi than thân trách phận khi bị ép duyên, có cả sự tủi hờn, nhớ nhung gia đình.
Đó là tình cảm yêu thương, biết ơn kính trọng của con cái đối với cha mẹ, người đã sinh thành nuôi dưỡng, giáo dục mình nên người:
Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con
Công cha “núi Thái Sơn” thể hiện một sự cao cả, vững chãi, sừng sững làm điểm tựa cho con cái, gợi lên vẻ gần gũi thân thương. Ví mẹ như “nước biển đông” là hình ảnh chỉ sự mênh mông vô tận tình cảm của mẹ lớn lao là không thể nói hết được.
Hay trong bài ca dao này
Chim trời ai dễ đếm lông
Nuôi con, ai dễ kể công tháng ngày.
Nhờ công cha ơn mẹ nuôi dưỡng, chúng con mới khôn lớn và trưởng thành, công lao đó chúng con suốt đời không quên.
Ngày nào em bé cỏn con,
Bây giờ em đã lớn khôn thế này
Cơm cha, áo mẹ, công thầy
Nghĩ sao cho bõ những ngày ước ao.
Tình thương, ơn nghĩa của cha mẹ, luôn ở sâu trong trái tim của mỗi người con, bởi thế con cái phải biết nâng niu, trân trọng những tình cảm mà cha mẹ dành hết cho mình, phải làm trọn đạo hiếu của người con, phải chăm sóc phụng dưỡng cha mẹ đó vừa là nghĩa vụ vừa là trách nhiệm của chúng ta
Nuôi con khó nhọc đến giờ,
Trưởng thành con phải biết thờ hai thân,
Thức khuya dậy sớm chuyên cần,
Quạt nồng ấp lạnh giữ phần đạo con.
Biểu hiện của tình yêu con cái đối với cha mẹ là nỗi nhớ thương:
Chiều chiều ra đứng ngõ sau
Ngó về quê mẹ ruột đau chín chiều.
Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa
Miệng nhai cơm búng lưỡi lừa lá xương
Mẹ già như chuối ba hương
Như xôi nếp một như đường mía lau.
Nhưng ẩn sâu trong tình yêu cha mẹ là có sự than thân trách phận khi bị ép duyên, có cả sự tủi hờn.
Mẹ em thấy của thời tham
Hang hùm cứ tưởng hang vàng ép con
Nói ra thẹn với nước non
Ngậm vào cay đắng lòng con đêm ngày.
2.1.3 Trên phương diện con dâu, đối xử với mẹ chồng
Trên phương diện con dâu, đối xử với mẹ chồng là yêu thương là trân trọng như mẹ đẻ, nhưng cũng có sự đối nghịch với mẹ chồng trong gia đình.
Trong ca dao của ta, chúng ta thấy có những câu, những bày tỏ ý oán giận cha mẹ chồng, thứ nhất là mẹ chồng có khi oán trách cả cha mẹ đẻ và cả chồng nữa, ca dao có những câu:
Hai ta là bạn thong dong
Như đôi đĩa ngọc nằm trong mâm vàng
Bởi chung thầy mẹ nói ngang
Cho nên đũa ngọc, mâm vàng xa nhau.
Trong thời phong kiến, chúng ta biết giữa mẹ chồng và nàng dâu thường có mâu thuẫn sâu sắc.
Khi đi lấy chồng, họ còn chịu thêm trăm điều cay cực. Quan niệm “xuất giá tòng phu”, “lấy chồng làm ma nhà chồng” đã khiến bao người phụ nữ xa quê phải ngậm ngùi nuốt đắng cay, thấm thía nỗi buồn, nhớ khi nghĩ về quê mẹ:
- “Chiều chiều ra đứng bờ sông
Muốn về với mẹ mà không có đò”
- “Chiều chiều ra đứng ngõ sau
trông về quê mẹ ruột đau chín chiều”
- “Chiều chiều xách giỏ hái rau
Ngó lên mả mẹ ruột đau như dần”
Nhớ nhà, nhớ mẹ mà không được về, những người đi làm dâu còn phải chịu sự đày đọa của gia đình nhà chồng, đặc biệt là mẹ chồng. Trong chế độ cũ, những người mẹ chồng xưa kia thường là “nỗi kinh hoàng” của những nàng dâu vì xã hội phong kiến với quan niệm hôn nhân gả bán cho phép người ta “mua” vợ cho con khác nào mua người làm không công, trả cái nợ đồng lần mà chính người mẹ chồng trước đây phải gánh chịu:
- “Tiếng đồn cha mẹ anh hiền
Cắn cơm không vỡ cắn tiền vỡ tan”
- “Trách cha, trách mẹ nhà chàng
Cầm cân chẳng biết là vàng hay thau
Thực vàng chẳng phải thau đâu
Đừng đem thử lửa mà đau lòng vàng”
Trong hoàn cảnh ấy đại đa số những người phụ nữ phải cam chịu, nín nhịn nhưng cũng có trường hợp, người con dâu tỏ thái độ phản kháng có phần quyết liệt, cô “đội nón về nhà mình” dẫu biết hành động ấy sẽ bị lên án, bị không ít tiếng thị phi, cay độc vì trong xã hội xưa còn gì đáng sợ hơn bằng tội “trốn chúa, lộn chồng”:
“Cô kia đội nón đi đâu
Tôi là phận gái làm dâu mới về
Mẹ chồng ác nghiệt đã ghê
Tôi ở chẳng được, tôi về nhà tôi”
Sở dĩ họ phải phản kháng là do không còn nơi để bấu víu, tựa nương. Mẹ chồng đã vậy, lại còn chịu thêm nỗi khổ của “cảnh chồng chung”. Xã hội phong kiến cho phép “trai quân tử năm thê bảy thiếp, gái chính chuyên chỉ có một chồng” đã gây ra bao cảnh đau lòng.
2.1.4 Trên phương diện người vợ
Một khi đã chọn được ý trung nhân rồi, phận gái chữ tòng. Bổn phận của người phụ nữ là “xuất giá tòng phu”, sau khi dâng ly rượu tiễn biệt, từ giã cha mẹ đi theo chồng:
Rượu lưu ly chân quỳ tay rót
Cha mẹ uống rồi dời gót theo anh.
Chữ Tòng được tôn trọng triệt để, không chỉ người phụ nữ bình dân, ngay cả gia cấp quý tộc, con gái vua lấy chồng cũng phải giữ phận chữ tòng:
Con vua lấy thằng bán than
Nó dắt lên ngàn cũng phải đi theo.
Hay:
Ghe bầu trở lái về đông
Làm thân con gái thờ chồng nuôi con.
Nho giáo dạy người phụ nữ có bổn phận phải nghe lời chồng:
Con quốc kêu khắc khoải mùa hè
Làm thân con gái phải nghe lời chồng
Người phụ nữ sẵn sàng chấp nhận những thiếu xót của người đàn ông được cô gọi là chồng. Không vì người đó xấu mà buồn. Không vì người đó nghèo mà xấu hổ. Cho dù có xấu, có nghèo hơn những người khác nhưng người đàn ông đó là của riêng cô. Chồng là người cô nương tựa suốt đời. Không so sánh chồng mình với chồng người khác. Thật đáng khen. Thời nay, số phụ nữ bỏ chồng vì hoàn cảnh kinh tế eo hẹp không phải là ít. Hiếm có người thốt lên câu:
Xấu xa cũng thể chồng ta,
Dù cho tốt đẹp cũng ra chồng người.
Nhất là khách lại là bạn của chồng, dù cực nhọc đến mấy, người phụ nữ lúc nào cũng đơn độc, lủi thủi, cố gắng cơm nước phục vụ khách đầy đủ, tươm tất, cho vui lòng lang quân.
Cái bống là cái bống bình,
Thổi cơm nấu nước một mình mồ côi.
Rạng ngày có khách đến chơi
Cơm ăn rượu uống cho vui lòng chồng.
Đối tượng cũng lại là chồng, con cùng gia đình chồng. Không quản nắng mưa, cực khổ, trèo đèo, lặn suối. Chữ “khổ” (có vị đắng, lo lắng), “gánh”(cho cảm giác nặng nề), “lụy”(trói buộc, sự gì phiền đến thân), ‘đắng cay”, “mặn nồng”, “gắng công” (cố sức) dồn dập tuôn ra. Toàn là những từ chỉ sự khổ sở, nhọc nhằn. Không thấy có vị ngọt.
Hoặc:
Thương chồng nên phải gắng công
Nào ai xương sắt da đồng chi đây
Xem gia đình chồng là gia đình mình. Chu toàn bổn phận làm dâu, giữ gìn danh tiếng cho gia đình chồng. Nuôi mẹ chồng và con cái khi người chồng đi xa.
Anh về hái đậu chày cà
Để em đi chợ kẻo mà lỡ phiên,
Chợ lỡ phiên tốn công thiệt của,
Miệng tiếng người cười rõ sao nên,
Lấy chồng phải gánh giang sơn,
Chợ phiên còn lỡ, giang sơn còn gì.
Hay:
Con cò lặn lội bờ sông
Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non.
Nàng về nuôi cái cùng con
Để anh đi trẩy nước non Cao Bằng
Bản thân và nhan sắc không còn gì cả. Úa tàn. Ủ rũ. Cực khổ. Thật là tội nghiệp. Còn đâu “yếm thắm hở lườn”, hấp dẫn như lúc chưa chồng. Người vợ trèo đèo, lặn suối, mò cua bắt ốc suốt ngày để mưu sinh. Cụm từ “vú xếch lưng eo” dễ cho người ta liên tưởng đến hình ảnh “vú thỏng dưa gang”. Chữ “vì” được lập đi lập lại nhiều lần nhấn mạnh “thủ phạm” làm nhan sắc tàn phai chính là người chồng.
Một ngày ba bận trèo đèo
Vì ai vú xếch lưng eo hỡi chàng.
Vì chàng thiếp phải mò cua,
Những như thân thiếp thì mua mấy đồng.
Vì chàng thiếp phải long đong
Những như thân thiếp cũng xong một bề.
Khuyến khích chồng lên đường đánh giặc, bảo vệ đất nước, giúp chồng yên tâm lên đường bằng cách chăm sóc gia đình chu đáo.
Chàng ơi phải lính thì đi,
Cửa nhà đơn chiếc đã thì có tôi.
Anh đi em ở lại nhà
Hai vai gánh vác mẹ già con thơ.
Hình tượng phụ nữ Việt Nam ngày xưa thật tuyệt vời. Vừa đẹp người ,vừa đẹp nết. Họ là những người vợ đảm, mẹ hiền, lại có tinh thần yêu nước. Hoàn hảo quá! Không chỗ nào chê được.Và cũng thật đáng thương.
Nếu vô phước gặp một người chồng không ra gì, bài bạc, ăn chơi phá của, công nợ ngập đầu, người vợ âm thầm gánh chịu, trang trải nợ nần, “ngậm bồ hòn” không dám than van vì sợ xấu hổ.
Chồng em nó chẳng ra gì
Tổ tôm xóc dĩa nó thì chơi hoang.
Nói ra xấu thiếp hổ chàng,
Nó giận nó phá tan hoang cửa nhà.
Nói đây thời có chị em nhà,
Còn năm ba thúng thóc với một vài cân bông
Em bán đi trả nợ cho chồng.
Còn ăn hết nhịn cho hả lòng chồng con.
Đắng cay ngậm quả bồ hòn…
Chế độ phong kiến đã bóp nghẹt tư tưởng nhân dân lao động, nên phần đông họ chỉ hờn duyên tủi phận, oán giận âm thầm. Ở đây người người thôn nữ căm thù sâu sắc mụ vợ cả, nhưng không có cách nào chống đối ngoài những lời than thở.Khao khát của người phụ nữ ở đây không phải là cái khao khát mang tính chất bản năng thuần tuý mà là những khát khao hạnh phúc chính đáng nhất của một con người. Vì thế họ đã nhắn nhủ nhau:
- “Đói lòng ăn nắm lá sung
Chồng một thì lấy, chồng chung thì đừng”
- “Chồng con là cái nợ nần
Thà rằng ở vậy nuôi thân béo mầm”.
Nhưng dù sống trong bất hạnh, tâm hồn người phụ nữ vẫn sáng lên lấp lánh ánh sáng của trái tim đôn hậu, cao thượng, vị tha. Từ trong khổ đau, bất hạnh, từ trong tiếng hát than thân đầy tủi cực, tâm hồn trung hậu, đẹp đẽ, thuỷ chung của người phụ nữ vẫn vươn lên, toả sáng khiến cho tiếng hát than thân kia không mang vẻ bi luỵ mà vẫn toả sáng, ấm áp tình đời, tình người. Ca dao đã phản ánh đầy đủ những vẻ đẹp đó của họ - những con người thuỷ chung son sắt, giàu nghĩa tình. Quên đi những nhọc nhằn, vất vả của cuộc sống lao động, những người phụ nữ bình dân ấy cũng có những phút giây sống cho cảm xúc riêng tư, cũng trải qua các cung bậc nhớ nhung của một trái tim mới yêu:
- “Gió sao gió mát sau lưng
Dạ sao dạ nhớ người dưng thế này”
- “Nhớ ai bổi hổi bồi hồi
Như đứng đống lửa như ngồi đống than”
Có cô gái thì hồn nhiên, tinh nghịch. Họ không quá câu nệ như các cô gái khuê phòng:
Ước gì sông rộng một gang
Bắc cầu dải yếm cho chàng sang chơi”
Cũng có khi thật tế nhị, ý ứ, nết na:
“Sáng ngày tôi đi hái dâu
Gặp hai anh ấy ngồi câu thạch bàn
Hai anh đứng dậy hỏi han
Hỏi rằng cô ấy vội vàng đi đâu
Thưa rằng tôi đi hái dâu
Hai anh mở túi đưa trầu mời ăn
Thưa rằng bác mẹ tôi răn
Làm thân con gái chớ ăn trầungười”
Họ biết đề cao tình yêu thương, lòng chung thuỷ:
- “Trăng tròn chỉ một đêm rằm
Tình duyên chỉ hẹn một lần mà thôi”
- “Muối ba năm muối đang còn mặn
Gừng chín tháng gừng hãy còn cay
Đạo cương thường chớ đổi đừng thay
Dẫu có làm nên danh vọng hay rủi có ăn mày ta cũng theo nhau”
Người phụ nữ đảm đang, vị tha, chung thuỷ đã thể hiện cảm nghĩ của một cách giản dị mà vẫn có sức cuốn hút lạ thường. Cả khi khó khăn họ vẫn nhẫn nại:
- “Chồng em áo rách em thương
Chồng người áo gấm , sông hương mặc người”
- “Râu tôm nấu với ruột bầu
Chồng chan vợ húp gật đầu khen ngon”
Chỉ những lời ca ngắn ngủi mà chất chứa trong đó bao ý tình sâu xa. Đó là lời nhắn nhủ của những người phụ nữ trọn nghĩa vẹn tình. Dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, họ vẫn đồng cam cộng khổ cùng chồng, xây dựng một gia đình đầm ấm yên vui.
Ở thời nào cũng vậy, vẻ đẹp của người phụ nữ như một hằng số, bất biến ngàn đời. Đó là sự nhẫn nại, cam chịu, là sự thuỷ chung son sắt. Dù bao khổ đau, bất hạnh vẫn không thể vùi lấp được những vẻ đẹp đó. Nó như những viên ngọc thô mà thời gian, những bất hạnh khổ đau là chất xúc tác mài giũa, càng ngày càng toả sáng lấp lánh.
2.1.5 Trên phương diện người mẹ
Trong các hình ảnh về gia đình mà mỗi người chúng ta còn giữ lại, có lẽ hình ảnh về mẹ là sâu dậm và rõ rệt hơn cả. Nó rõ rệt đến nỗi không chỉ được gợi lại qua các kỷ niệm của cuộc sống thường ngày, mà còn được viết ra cả trong thơ văn. Không cần nhìn đâu xa, chỉ cần rở bất cứ một cuốn tục ngữ ca dao nào ra, thì ta cũng đọc được nhan nhản những câu ca phác họa hình ảnh mẹ.
Bức tranh thứ nhất mà ca dao Việt Nam vẽ về mẹ là bức tranh bà mẹ nghĩa đức đầy công lao sinh đẻ, nuôi nấng và vun trồng gầy dựng cho con cái. Công lao này có thể được tóm gồm qua chữ ‘nghĩa‘ :
Công cha như núi Thái Sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Có khi công lao ấy lại được tổng hợp trong chữ ‘đức‘ :
Công cha đức mẹ cao dầy,
Cưu mang trứng nước những ngày thơ ngây.
Hạnh phúc lớn nhất của mỗi người làm mẹ là được thầy tiếng cười của con mình, chính con cái là động lực để mỗi người mẹ duy trì sự sống, là nguồn động viên an ủi mỗi lúc khó khăn, vất vả. Chính vì vậy mà mỗi đứa con là sản phẩm cao quý mà ông trời đem lại cho những người làm mẹ. Con cái là những gì cao quý nhất không gì sánh bằng.
Có vàng, vàng chẳng hay phô
Có con con nói trầm trồ mẹ nghe.
Mẹ dành tất cả tình thương cho con, luôn mong cho con được vui sướng, hạnh phúc.
Sinh con ai nỡ sinh lòng
Sinh con ai chẳng vun trồng cho con
Mẹ chăm sóc con từng li, từng tí một.
Đã bao đêm, mẹ thức trắng để canh cho con canh cho con một giấc ngủ ngon lành.
Gió mùa thu mẹ ru con ngủ
Năm canh chầy, mẹ thức đủ năm canh.
Người mẹ luôn dạy bảo, khuyên răn con phải sống thế nào cho tốt. Mẹ uốn nắn cho con từ những ngày thơ dại.
Uốn cây từ thủa còn non
Dạy con từ thủa con còn ngây thơ
Và mẹ không quên nhắc nhở con cái về cái gia nghiệp, về đức cần kiệm, về cách làm ăn :
Trăm năm như cõi trời chung,
Trăm nghề cũng phải có công mới thành.
Cứ trong gia nghiệp nhà mình,
Ngày đêm xem sóc giữ gìn làm ăn.
Chữ rằng ‘Tiểu phú do cấn’,
Còn như ‘Đại phú‘ là phần ‘do thiên’.
Đừng trễ nải, chớ ghét ghen,
Còn như lộc nước, có phen dồi dào.
Bà cũng không quên rắng xã hội không chỉ có ‘sĩ‘, mà còn có ‘nông’, ‘công’ và ‘thương’. Và chịu ảnh hưởng sâu đậm văn hóa Khổng nho, bà vẫn tâm niệm rằng :
Trời thu vừa gặp tiết lành,
Muôn dân yên khỏe thái bình âu ca.
Muốn cho yên nước, yên nhà,
Một là đắc hiếu, hai là đắc trung.
Trong bốn nghiệp ra công gắng sức,
Đường nghĩa phương ta phải khuyên con.
Đặc biệt, người mẹ dạy con phải biết phụng thờ, hiếu kính với tổ tiên, ông bà
Khôn ngoan nhờ ấm cha ông
Làm nên phải đoái tổ tông phụng thờ
Đạo làm con chớ hửng hờ
Phải đem hiếu kính mà thờ từ nghiêm.
Hình ảnh đảm đang của mẹ đã được họa trong khung cảnh của một gia đình đầy đủ. Nhưng cuộc sống không phải lúc nào cũng hoàn hảo như thế. Có những lúc người cha đi vắng. Sự can đảm của người mẹ thực là cao cả.
Anh đi, em ở lại nhà,
Hai vai gánh vác mẹ già con thơ.
Lầm than bao quản muối dưa,
Anh đi, anh liệu chen đua với đới.
Hoặc thì nét nhớ nhung, nét cô đơn phảng phất khắp bức tranh.
Bác mẹ già lơ phơ đầu bạc,
Con chàng còn trứng nước thơ ngây.
Có hay chàng ở đâu đây,
Thiếp xin mượn cánh chắp bay theo chàng.
Bức tranh này thành ra thống thiết, nếu sự vắng bóng của người cha là vĩnh viễn. Hình ảnh mẹ góa nuôi con côi thực là chơi vơi.
Thiệt hại thay cho thằng bé nên ba,
Nó lăn, nó khóc giữa nhà năm gian,
Khóc than giữa chốn linh sàng,
Ba vuông nhiễu tím đôi hàng chữ vôi.
Chớ thiệt hại thay, người khác thì đã yên rồi,
Để cho người sống ở đời trơ vơ.
Ba bốn năm nhang khói thiếp tôi phụng thờ,
Đầu đội chữ hiếu, tay xe chữ tình.
Chữ Hiếu Trung, tôi gánh vác một mình,
Chẳng hay chàng có thấu tình thiếp hăng ?
Đường đi Khuất nẻo khói chùng.
Chỉ những lời ca ngắn ngủi mà chất chứa trong đó bao ý tình sâu xa. Đó là lời nhắn nhủ của những người phụ nữ trọn nghĩa vẹn tình. Dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, họ vẫn đồng cam cộng khổ cùng chồng, xây dựng một gia đình đầm ấm yên vui.
2.2. Nhân vật nam trên các phương diện
2.2.1 Trên phương diện người yêu
Vai giao tiếp là nam cũng biểu hiện trên nhiều phương diện, đặc sắc nhất vẫn là tình yêu đôi lứa.
Trên phương diện người yêu, được thể hiện qua nhiều cung bậc và sắc thái tình cảm. khi tình yêu bắt đầu nảy nở là sự tỏ tình khéo léo, kín đáo, có khi táo bạo, suồng sã chất phác, mảnh liệt. tình yêu nồng nàn, thắm đượm con tim yêu thương, là sự nhớ nhung vô bờ bến, là khát khao dâng hiến cho người mình yêu những gì tốt đẹp nhất. tình yêu của chàng chân thành, nhưng cũng có sự trách móc, phân vân khi phụ tình.
Hãy nghe chàng trai mở đầu, hỏi người thôn nữ bằng một câu hỏi ỡm ờ, gợi ý xa xôi:
Hôm qua tát nước đầu đình
Bỏ quên chiếc áo trên cành hoa sen
Em được thì cho anh xin
Hay là em để làm tin trong nhà.
Cái áo chàng bỏ quên có thể vô tình nhưng rất có thể là cố ý. Cũng có thể chỉ là sự bịa đặt khéo léo để tạo nên cái cửa sổ đầu tiên để chàng trai hé mở lòng mình với cô gái. Người con trai chưa thật sự chưa chắc để quên cái áo, nhưng chàng cố ý gài người thôn nữ vào thế phải trả lời khi tỏ ý ngờ rằng nàng đã giữ cái áo của mình để làm tin.
Cũng có khi chỉ là một câu hỏi bâng quơ nhưng diễn đạt bằng những câu thơ thật trữ tình của một đêm trăng sáng, chàng trai có nhiều hi vọng để được cô gái trả lời:
Hỡi cô tát nước đầu làng
Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi
Nhiều khi chàng mạnh dạn hơn:
Cô kia cắt cỏ một mình
Cho tôi cắt với chung tình làm đôi
Cô còn cắt nữa hay thôi
Cho tôi cắt với làm đôi vợ chồng.
Nhưng thường thì các chàng trai làng hỏi dọ ý một cách nhẹ nhàng hơn, không dung hai chữ “vợ chồng” nghe có vẻ suồng sã, mà dùng hai chữ “ kết duyên”, có vẻ thơ mộng hơn.
Hỏi xa anh lại hỏi gần
Hỏi em phỏng độ đương xuân thế nào
Thấy em là gái má đào
Lòng anh chỉ muốn ra vào kết duyên
Có kiểu suồng sã, chất phát:
Gặp em anh nắm cổ tay
Nhờ vá cái áo mượn may cái quần.
Khi đã yêu người con trai muốn làm tất cả cho người mình yêu, một khát khao hiến dâng cho người mình yêu những gì tốt đẹp nhất:
Ước gì anh hóa ra hoa
Để em nâng lấy rồi mà cài khăn
Ước gì anh hóa ra chăn
Để cho em đắp, em lăn, em nằm
Ước gì anh hóa ra gương
Để cho em cứ ngày thường em soi
Ước gì anh hóa ra cơi
Để cho em đựng cau tươi, trầu vàng.
Ở đây sử dụng điệp ngữ “ước gì” hai lần một cách dứt khoát, thể hiện ước nguyện chính đáng và trong sáng của chàng trai đó, về sự chung đôi của với cô gái qua các từ “gương” “cơi”. “Gương” là vật dụng hằng ngày các cô gái thường dùng để làm đẹp cho chính bản thân, ở thì đây, chàng trai cũng muốn được bên người con gái đó mỗi ngày. “Cơi” và “ cau tươi trầu vàng” là những thứ luôn gặp trong đám cưới. Ước nguyện được cưới cô gái, được cùng ăn đời ở kiếp với cô cho đến cuối đời mình, vì lẽ “Cơi” luôn đồng hành với “cau”, “trầu”. “Cau tươi trẩu vàng” còn thể hiện sự thiêng liêng, bất tử của tình yêu. Chàng đã dùng những hình ảnh đó như là lời cầu hôn của mình. Điệp từ “ước gì” là những mong muốn, ước vọng của chàng trai với cô gái, đến những điều tốt đẹp. Bài ca dao đã cho ta thấy một cách tỏ tình hết sức giản dị mà sâu sắc. Khát vọng yêu và được yêu của nhân vật trữ tình.
Sau gian đoạn tỏ tình là đến giai đoạn yêu đương và đây là thời gian thơ mộng nhất cũng như đầy thử thách nhất. Nào yêu thương, nào nhớ nhung, nào giận hờn, nào xa cách, nào đợi chờ…
Chàng trai thủ thỉ bên nàng:
Thương anh em để ở đâu
Để trong cuốn sách để đầu trang thơ
Thương em anh để ở đâu
Để trong tay áo lâu lâu lại dòm.
Khi phải tạm xa nhau, chàng trai luyến tiếc những giây phút cận kề:
Còn đêm nay nữa mai đi
Lạng vàng không tiếc, tiếc khi ngồi kề.
Trời đã sáng, những gặp gỡ hàn huyên đêm qua giờ chỉ còn là kỉ niệm mong mênh để làm hành trang cho cuộc đăng trình.
Trạng thái tình cảm của phái nam lại chủ yếu là thương yêu “thương em”, “anh thương”, “yêu em”, nhưng lại ít “nhớ em”, “thương vợ” “thương em” cũng không kém phần mãnh liệt sâu sắc, đắm say:
Thương em vô giá quá chừng
Trèo non quên mệt, ngậm gừng quên cay
Thương em nỏ biết mần răng
Mười đêm ra đứng trông trăng cả mười
Những nhớ nhung đó đã đong đầy thêm tình yêu, để khi gặp lại thì hai người vội vã ước hẹn cho những mộng ước mai sau:
Ước gì ta lấy được nàng
Để ta mua gạch Bát Tràng về xây
Xây dọc rổi lại xây ngang
Xây hồ bán nguyệt cho nàng rửa chân.
Tình yêu của chàng chân thành, nhưng cũng có sự trách móc, phân vân khi bị phụ tình.
Ngày nào em nói em thương
Như trầm mà để trong rương chắc rồi
Bây giờ khóa rớt chìa rơi
Rương long, nắp vỡ bay hơi mùi trầm
2.2.2 Trên phương diện người con, người con trai hiếu thảo
Trên phương diện người con, người con hiếu thảo, biết ơn thể hiện chí nam nhi, là sự nhớ thương khi xa gia đình, mẹ già.
Trong ca dao, người con trai hiếu thảo luôn luôn dành tình cảm yêu thương cho cha mẹ, luôn cầu mong cho cha mẹ mạnh khỏe, sống lâu.
Mỗi đêm mỗi thắp đèn trời
Cầu cho cha mẹ sống đời với con.
Người con trai luôn biết ơn công lao cha mẹ, cho nên giờ đây, chàng trai ra sức chăm sóc, nuôi dưỡng mẹ già.
Tôm rằn lột vỏ bỏ đuôi
Gạo lúa nhe An Cựu mà nuôi mẹ già
Mẹ già là mẹ nhà anh
Em vô bảo dưỡng cá canh cho thường
Mẹ già như chuối ba hương
Như xôi nếp một, như đường mía lau
Hay trong câu ca dao.
Làm trai nết đủ trăm đường
Trước tiên điều hiếu đạo thường ngày xưa
Công cha đức mẹ cao dày
Cưu mang trứng nước những ngày ngày thơ
Nuôi con khó nhọc đến giờ
Trưởng thành con phải biết thờ hai thân
Thức khuya dậy sớm chuyên cần
Quạt nồng ấp lạnh giữ phần đạo con.
Người con trai có hiếu, luôn muốn phụng dưỡng mẹ cha, thể hiện ý chí nam nhi.
Em thời đi cấy ruộng bông
Anh đi cắt lúa để chung một nhà
Đem về phụng dưỡng mẹ cha
Muôn đời tiềng hiếu người ta còn truyền.
Như vậy người con trai trong gia đình được ca dao thể hiện đó là người con hiếu thảo, biết ơn thể hiện chí nam nhi. Đồng thời thể hiện sự nhớ nhung da diết khi xa nhà, xa quê hương.
2.2.3 Trên phương diện người cha
Trên phương diện người cha, ngoài việc sinh thành ra con cái, còn là tình yêu thương tha thiết, là trụ cột gia đình, chỉ bảo nuôi dạy con trưởng thành. Người cha là trụ cột trong gia đình, có trách nhiện quan trọng là chỉ dạy nuôi dạy con nên người.
Trước hết người cha dạy con phải giữ trọn làm con.
Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con
Mặt khác cha dạy con đã là anh em thì phải yêu thương lẫn nhau.
Khôn ngoan đối đáp người ngoài
Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau
Cha còn dạy con, phải biết kính trên, nhường dưới.
Chữ nghĩa là chử nhường
Nhường anh, nhường chị là nhường người trên
Ghi lòng tạc dạ chớ quên
Con em phải giữ lấy nền con em.
Như vậy vai trò của người cha là rất quan trọng. Cha dành tất cả tình thương yêu tốt đẹp nhất cho những người con của mình.
2.3. Sự hòa hợp và đối trọng trong quan hệ nam nữ
2.3.1 Sự hòa hợp trong quan hệ nam nữ
Bước đầu của tình cảm hoà hợp là sự gần gũi, tìm cách giao tiếp nhẹ nhàng, hữu tình, hữu ý. Đôi lứa cùng chung lý tưởng tình yêu và xây dựng hạnh phúc gia đình. Sự hòa hợp là sự đối đáp qua lại có sự gợi mở cho tâm hồn.
Đêm khuya thiếp mới hỏi chàng
Cau xanh ăn với trầu vàng xứng chăng?
Cau xanh nhá lẫn trầu vàng
Duyên em sánh với tình anh tuyệt vời
Hay
Đêm trăng thanh anh mới hỏi nàng,
Tre non đổ lá đan sàng nên chăng?
Đan sàng thiếp cũng xin vâng,
Tre vừa đủ lá, non chăng hỡi chàng?
Ca dao dân ca Việt Nam có khá nhiều bài ca đối đáp rất hay, rất đẹp như một bài thơ tình tuyệt tác. Hát đối đáp để giao duyên, để tỏ tình là một hình thức sinh hoạt của trai gái làng quê ngày xưa rất trong sáng lành mạnh, là một nét đẹp văn hóa truyền thống mang tính nhân văn của xã hội, của nền văn minh sông Hồng trồng lúa nước mấy nghìn năm.
Những đêm hè, những đêm th gió mát trăng thanh, trong dịp nông nhàn, trên sân nhà, sân đình, trai gái trong xóm ngoài làng, tụ họp đông vui để hát đúng, hát giặm, hát đối đáp giao duyên. Từ những câu hát đối đáp ấy mà có biết bao anh Mận cô Đào, cậu Điền cô Tấm kết thành bạn trăm năm.
Đan sàng thiếp cững xin vâng
Câu hỏi của chàng trai thì mặn mà. Câu trả lời của cô thôn nữ thì vừa thông minh sắc sảo, vừa có duyên. Một nửa câu xác nhận, một nửa câu hỏi lại.
Tre vừa đủ lá non chăng hỡi chàng?
Cô gái nhắc lại hai lần ẩn dụ. “Đan sàng” và “tre vừa đủ lá’. Bốn chữ “thiếp cũng xin vâng” có ngữ điệu nhẹ nhàng, lễ phép, biểu lộ sự hài lòng, đồng ý, chấp nhận lời tỏ tình của chàng trai. Bài ca giao duyên “Đêm trăng thanh, anh mới hỏi nàng…” có lời đẹp, tình đẹp. Thấm đượm chất phong tình. Một cách tỏ tình trang nhã, duyên dáng rất xứng đôi. Bóng trăng thanh đã làm cho cuộc giao duyên của lứa đôi thêm phần thơ mộng.
Cặp xưng hô “mình- ta” mang sắc thái biểu cảm, là từ xưng gọi ân tình, trìu mến thường thể hiện trong giao tiếp của những đôi lứa yêu nhau mà tình cảm đã đến độ chín muồi.
Mình về có nhớ ta chăng?
Ta như lạc buộc khăng khăng nhớ mình
Ta về ta cũng nhớ mình
Nhớ yếm mình mặc, nhớ tình mình trao.
2.3.2 Sự đối trọng trong quan hệ nam nữ
Đối trọng giữa hai vai giao tiếp có điểm giống nhau về thân phận con người, nhưng khác nhau do phân cách trọng khinh: trọng nam, kinh nữ và giới tính. Đối trọng do quan niệm phong kiến, địa vị, phân chia giàu nghèo.
Chiếu hoa mà trải sập vàng
Điếu ngô xe trúc sao chàng chẳng say
Nhưng nơi chiếu cói võng đay
Điếu sần xe sậy chàng say la đà
Hay trong câu ca dao thể hiện sự than trách của người con gái đối với người con trai.
Chàng ơi phụ thiếp làm chi
Thiếp như cơm nguội đỡ khi đói lòng
C. KẾT LUẬN
Tôi vẫn thích ca dao hơn bất cứ bộ phận văn học nào khác của Việt Nam bởi ca dao chính là tiếng nói của đồng nội, là âm vang của làng quê tổ truyền, phản ảnh sinh hoạt nông thôn, chứa chan tình cảm dân tộc và màu sắc xứ sở. Ca dao là tiếng vọng ngàn năm của cha ông, là nhịp cầu nối giữa quá khứ và hiện tại, giúp chúng ta hiểu thêm về dân tộc mình, về đất nước mình, hiểu hơn về chúng ta. Chúng ta hãy cùng chiêm ngưỡng những viên ngọc quý và hãy cùng trân trọng, nâng niu, góp phần làm cho ngọc càng ngày tỏa sáng hơn.
Ca dao là tấm gương trung thực về cuộc sống muôn màu muôn vẻ của nhân dân lao động, trong đó ca dao trữ tình là một thiên tình ca muôn điệu. Qua thế giới nhân vật trữ tình chúng ta đã khám phá ra được tình yêu, tình cảm, cảm xúc của con người. Sau lũy tre làng, những cánh đồng bát ngát, những dòng suối mát, cả những chẽn lúa đồng, con đê là hiện hữu của tình yêu lành mạnh, đằm thắm, hồn nhiên vượt ngoài lễ giáo phong kiến. Bên cạnh đó là những tình cảm của người cha, người mẹ, những đứa con, anh em, bạn bè,…họ đều dành cho nhau những tình cảm chân thành và sâu sắc.