Câu 115: Tình hình phát triển và sự phân bố của ngành chăn nuôi lợn và gia cầm.
Lợn và gia cầm là hai nguồn cung cấp thịt chủ yếu.
Đàn lợn hơn 27 triệu con ( năm 2005) cung cấp trên 3/4 sản lượng thịt các loại.
Chăn nuôi gia cầm tăng mạnh, với tổng đàn trên 250 triệu con ( năm 2003), nhưng do dịch bệnh nên năm 2005 tổng đàn gia cầm còn khoảng 220 triệu con. Chăn nuôi gà công nghiệp đã phát triển mạnh ở các tỉnh giáp các thành phố lớn ( Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh ) và ở các địa phương có các cơ sở công nghiệp chế biến thịt.
Theo quy luật, chăn nuôi lợn và gia cầm tập trung nhiều nhất ở đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long.
Câu 116: Tình hình phát triển và sự phân bố của ngành chăn nuôi gia súc ăn cỏ.
Chăn nuôi gia súc ăn cỏ chủ yếu dựa vào các đồng cỏ tự nhiên .
Đàn trâu ổn định ở mức 2,9 triệu con, trong khi đàn bò từ chỗ chỉ bằng 2/ 3 đàn trâu ( thập kỷ 80 của thế kỷ XX), đến năm 2005 đã là 5, 5 triệu con và còn có xu hướng tăng mạnh.
Trâu được nuôi nhiều nhất ở Trung du và miền núi phía Bắc ( hơn ½ đàn trâu cả nước) và Bắc Trung Bộ.
Bò được nuôi nhiều ở Bắc Trung Bộ, duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên. Chăn nuôi bò sữa đã phát triển khá mạnh ở ven Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội với tổng đàn khoảng 50 ngàn con,
Chăn nuôi dê, cừu cũng tăng mạnh trong những năm gần đây ( 540 nghìn con, năm 2000, tăng lên 1314 nghìn con năm 2005).
Câu 117: Trình bày những điều kiện thuận lợi và khó khăn để phát triển ngành nuôi trồng thủy sản ở nước ta.
a> Thuận lợi.
Điều kiện tự nhiên: Nước ta có bờ biển dài 3260 km và vùng đặc quyền kinh tế rộng lớn. Vùng biển nước ta có nguồn lợi hải sản khá phong phú.
Biển nước ta có hơn 2000 loài cá, trong đó khoảng 100 loài có giá trị kinh tế, 1647 loài giáp xác, trong đó có hơn 100 loài tôm, nhiều loại có giá trị xuất khẩu cao, nhuyễn thể có hơn 2500 loài, rong biển hơn 600 loài. Ngoài ra còn nhiều loại đặc sản như hải sâm, bào ngư, sò, điệp.
Dọc bờ biển nước ta có những bãi triều, đầm phá, các cánh rừng ngập mặn, đó là những khu vực thuận lợi cho nuôi trồng thủy sản nước lợ. Ở một số hải đảo có các rạn đá, là nơi tập trung nhiều hải sản có giá trị kinh tế. Ven bờ có nhiều đảo và vụng, vịnh tạo điều kiện hình thành các bãi cho cá đẻ.
Nước ta có nhiều sông suối, kênh rạch, ao hồ, các ô trũng ở vùng đồng bằng có thể nuôi thả cá, tôm nước ngọt. Cả nước đã sử dụng hơn 850 nghìn ha diện tích mặt nước để nuôi trồng thủy sản, trong đó 45% thuộc các tỉnh Cà Mau và Bạc Liêu.
Điều kiện kinh tế - xã hội.
Nhân dân có kinh nghiệm, truyền thống nuôi trồng thủy sản.
Các phương tiện tàu thuyền, ngư cụ được trang bị ngày càng tốt hơn.
Hoạt động nuôi trồng được thuận lợi hơn nhờ phát triển dịch vụ thủy sản và mở rộng chế biến thủy sản.
Cùng với sự gia tăng dân số thế giới và trong nước, nhu cầu về các mặt hàng thủy sản tăng nhiều trong những năm gần đây. Các mặt hàng thủy sản của nước ta cũng đã thâm nhập được vào thị trường châu Âu, Nhật Bản, Hoa Kỳ.
Những đổi mới trong chính sách của Nhà nước đã và đang có tác động tích cực tới sự phát triển ngành thủy sản, nghề cá ngày càng được chú trọng, khai thác gắn liền với bảo vệ môi nguồn lợi và giữ vững chủ quyền vùng biển, hải đảo.
b> Khó khăn:
Tuy nhiên, việc phát triển ngành thủy sản ở nước ta gặp không ít khó khăn.
Hằng năm, có tới chín đến mười cơn bão xuất hiện ở Biển Đông và khoảng 30 đến 35 đợt gió mùa Đông Bắc nhiều khi gây thiệt hại nặng nề về người và tài sản của nhân dân.
Năng suất lao động còn thấp.
Việc chế biến thủy sản, nâng cao chất lượng thương phẩm cũng còn nhiều hạn chế.
Ở một số vùng ven biển, môi trường bị suy thoái và nguồn lợi thủy sản suy giảm.
Câu 118: Trình bày những điều kiện thuận lợi và khó khăn để phát triển ngành khai thác thủy sản ở nước ta.
a> Thuận lợi.
Điều kiện tự nhiên. Nước ta có bờ biển dài 3260km và vùng đặc quyền kinh tế rộng lớn. Vùng biển nước ta có nguồn lợi hải sản khá phong phú.
Tổng trữ lượng hải sản khoảng 3, 9 – 4,0 triệu tấn,cho phép khai thác hằng năm khoảng 1,9 triệu tấn.
Biển nước ta có hơn 2000 loài cá, trong đó có khoảng 100 loài có giá trị kinh tế, 1647 loài giáp xác, trong đó có hơn 100 loái tôm, nhiều loài có giá trị xuất khẩu cao, nhuyễn thể có hơn 2500 loài, rong biển có hơn 600 loài. Ngoài ra còn nhiều loại đặc sản như hải sâm, bào ngư, sò, điệp.
Nước ta có nhiều ngư trường, trong đó có bốn ngư trường trọng điểm đã được xác định là: ngư trường Cà Mau – Kiên Giang ( ngư trường Vịnh Thái Lan), ngư trường Ninh Thuận – Bình Thuận – Bà Rịa – Vũng Tàu, ngư trường Hải Phòng – Quảng Ninh ( ngư trường Vịnh Bắc Bộ) và ngư trường quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa.
Điền kiện kinh tế - xã hội.
Nhân dân có kinh nghiệm, truyền thống đánh bắt thủy sản.
Các phương tiện tàu thuyền, ngư cụ được trang bị ngày càng tốt hơn.
Hoạt động được khai thác thuận lợi hơn nhờ phát triển dịch vụ thủy sản và mở rộng chế biến thủy sản.
.Cùng với sự gia tăng dân số thế giới và trong nước, nhu cầu về mặt hàng thủy sản tăng nhiều trong những năm gần đây. Các mặt hàng thủy sản của nước ta cũng đã thâm nhập được vào thị trường châu Âu, Nhật Bản, Hoa Kỳ.
Những đổi mới trong chính sách của Nhà nước đã và đang có tác động tích cực tới sự phát triển ngành thủy sản, nghề cá ngày càng được chú trọng, khai thác gắn liền với bảo vệ môi nguồn lợi và giữ vững chủ quyền vùng biển, hải đảo.
b>Khó khăn:
Tuy nhiên, việc phát triển ngành thủy sản ở nước ta gặp không ít khó khăn.
Hằng năm, có tới chín đến mười cơn bão xuất hiện ở Biển Đông và khoảng 30 đến 35 đợt gió mùa Đông Bắc nhiều khi gây thiệt hại nặng nề về người và tài sản của ngư dân, hạn chế số lần ra khơi.
Tàu thuyền và các phương tiện đánh bắt nói chung còn chậm được đổi mới, do vậy năng suất lao động còn thấp.
Hệ thống các cảng cá còn chưa đáp ứng được yêu cầu.
Việc chế biến thủy sản, nâng cao chất lượng thương phẩm cũng còn nhiều hạn chế.
Ở một số vùng ven biển, môi trường bị suy thoái và nguồn lợi thủy sản suy giảm.
Câu 119: Tình hình phát triển của ngành thủy sản ở nước ta.
Trong những năm gần đây, ngành thủy sản đã có bước phát triển đột phá. Sản lượng thủy sản năm 2005 là hơn 3,4 triệu tấn, lớn hơn sản lượng thịt cộng lại từ chăn nuôi gia súc, gia cầm. Sản lượng thủy sản bình quân trên đầu người hiện nay khoảng 42kg/ năm. Nuôi trồng thủy sản chiếm tỉ trọng ngày càng cao trong cơ cấu sản lượng và giá trị sản xuất thủy sản.
Câu 120: Tình hình phát triển và sự phân bố của ngành khai thác thủy sản nước ta.
Sản lượng khai thác hài sản năm 2005 đạt 1791 nghìn tấn, gấp 2,7 lần năm 1990, trong đó riêng cá biển là 1367 nghìn tấn.
Sản lượng khai thác thủy sản nội địa đạt khoảng 200 nghìn tấn.
Tất cả các tỉnh giáp biển đều đẩy mạnh đánh bắt hải sản, nhưng nghề cá ở các tỉnh duyên hải Nam Trung Bộ và Nam Bộ có vai trò lớn hơn. Các tỉnh dẫn đầu về sản lượng đánh bắt là Kiên Giang, Bà Rịa – Vũng Tàu, Bình Thuận và Cà Mau. Riêng bốn tỉnh này chiếm 38% sản lượng thủy sản khai thác của cả nước.