Lương Thế Vinh Ông đỗ trạng nguyên dưới triều Lê Thánh Tông và làm quan tại viện Hàn Lâm. Ông là một trong 28 nhà thơ của hội Tao Đàn do vua Lê Thánh Tông lập năm 1495.
Lương Thế Vinh sinh ngày 1 tháng 8 năm 1441(Tân Dậu) tại làng Cao Hương, huyện Thiên Bản, trấn Sơn Nam (nay là thôn Cao Phương, xã Liên Bảo, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định). Từ nhỏ Lương Thế Vinh đã nổi tiếng về khả năng học mau thuộc, nhanh hiểu, và khả năng sáng tạo trong các trò chơi như đá bóng, thả diều, câu cá, bẫy chim.
Lương Thế Vinh nổi tiếng với tài năng toán học. Quyển Đại thành toán pháp của ông được đưa vào chương trình thi cử suốt 450 năm trong lịch sử giáo dục Việt Nam. Ông cũng được xem là người chế ra bàn tính gẩy cho người Việt, lúc đầu làm bằng đất rồi bằng trúc, bằng gỗ, sơn mầu khác nhau, đẹp và dễ tính, dễ nhớ. Các chuyện truyền miệng dân gian còn cho biết tài năng của ông được thể hiện từ khi nhỏ tuổi. Ông được nhân dân gọi tên là Trạng Lường sau khi đỗ trạng nguyên.
Sự sáng tạo khoa học của Lương Thế Vinh được truyền khẩu qua câu chuyện ông tiếp đón sứ nhà Minh là Chu Hy. Hy đã nghe nói về Lương Thế Vinh, không những nổi tiếng về văn chương âm nhạc, mà còn tinh thông toán học, nên thách đố Vinh cân một con voi. Lương Thế Vinh đưa voi lên một chiếc thuyền rồi đánh dấu mép nước bên thuyền, sau đó dắt voi lên. Tiếp theo, ông ra lệnh đổ đá hộc xuống thuyền, cho đến lúc thuyền chìm xuống đến đúng dấu cũ. Việc còn lại là đưa từng viên đá lên cân và cộng kết quả. Chu Hy thán phục ông nhưng tiếp tục đố ông đo bề dày của một tờ giấy xé ra từ một quyển sách. Khi nghe ông nói chỉ cần đo bề dày cả cuốn sách rồi chia đều cho số tờ là ra ngay kết quả, Chu Hy ngửa mặt lên trời than: "Nước Nam quả có lắm người tài!". Lương Thế Vinh đáp lại rằng người nghĩ ra cách cân voi thật sự là Tào Xung, con của Tào Tháo. Điều này càng khiến cho sứ giả hổ thẹn vì chưa thuộc sử nước nhà.[FONT="]
Ý kiến như thế nào vậy bạn. Tất cả mọi người đều biết Lương Thế Vinh là người tài giỏi, thông minh tuyệt đỉnh. Nếu khen một người như vậy e rằng thừa, mà chê một người như vậy thì quả là...vô duyên. Vậy phải ý kiến gì đây...
Lương thế Vinh sinh ngày mồng 1 tháng 8 năm Tân Dậu (1441) trong một gia đình nông dân nghèo ở làng Cao Hương, nay là làng Cao Phương, xã Liên bảo , huyện Vũ bản, tỉnh Nam định. Tuy nhà nghèo, nhưng thấy con mình thông minh ham học nên bố mẹ Thế Vinh cố lo cho con được học hành. Càng học càng giỏi , ngay từ bé Lương thế Vinh đã nổi tiếng “thần đồng làng Hương”.
Năm 21 tuổi, Lương thế Vinh đi thi Hương, đậu Giải nguyên khoa Nhâm ngọ (1462). Năm 1463, về kinh thi Hội, Lương thế Vinh đậu thứ hai trong số 44 vị tân khoa chọn từ 1400 cống sĩ dự thi. Tiếp theo đó là cuộc thi Đình cho 44 vị tân khoa. Vua Lê thánh Tông tự tay ra đề thi với đề văn sách hỏi về “đạo trị nước của các bậc đế vương”. Trong bài làm của mình, Lương thế Vinh đã trình bày đường lối chính sách của các bậc vua chúa xưa nay, mạnh dạn khen chê, thẳng thừng phê phán, nêu điều hay đáng học, vạch điều dở cần tránh, để xây dựng và bảo vệ đất nước, làm cho dân ấm no hạnh phúc. Đọc bài văn nay, nhà vua đã phê: “Quyển này không hổ danh là một bài đối sách.Văn càng đọc càng thấy thích thú”, còn các khảo quan thì đánh giá : “Quyển này có học thức, xứng đáng đỗ đầu”. Và nhà vua đã cho Lương thế Vinh đậu Trạng nguyên, đứng đầu 44 vị Tiến sĩ. Ra làm quan, Lương thế Vinh là một bậc đại sĩ phu thanh liêm cương trực, chỉ trong 4 năm làm quan trong triều đã ba lần viết hặc tấu khiến nhà vua phải cách chức ba tên ba đại thần vì tội tham nhũng, ăn hối lộ, và vô luân.
Ông có tài ngoại giao, thường giúp cho nhà vua việc văn từ bang giao với nước ngoài.
Lương thế Vinh còn là một nhà giáo dục giỏi. Ông đã đề nghị nhà vua cải cách việc học hành thi cử , đưa việc học xuống tận nông thôn, cần quan tâm đến cả việc dạy tri thức và đạo đức. Ông là người đứng đầu Viện Hàn lâm, đồng Bí thơ giám trông coi kho sách của nhà vua, dạy học ở Quốc tử giám, còn là Tư huấn của Sùng văn quán và Tú Lâm cục, là những trường đào tạo nhân tài.
Đặc biệt, Lương thế Vinh rất chú trọng đến môn toán, đến việc dạy toán và học toán. Ông đã biên soạn cuốn “Toán pháp đại thành” dày 160 trang, là cuốn sách giáo khoa toán đầu tiên ở nơớc ta. Bản cửu chương và bàn tính của ông rất thông dụng trong công sở và trong nhân dân. Dân quý mến gọi ông là Trạng Lường, tức là ông Trạng giỏi tính toán, đo lường.
Lương thế Vinh còn có những công trình về âm nhạc nhơ bộ Đồng Văn chuyên hợp xướng và bộ Nhã nhạc chuyên hòa tấu bằng nhạc khí, dùng trong quốc lễ và triều hội. Tác phẩm Hý phường phả lục của ông là tác phẩm lí luận đầu tiên về nghệ thuật sân khấu chèo ở nước ta.
Cuối đời , Lương thế Vinh về trí sĩ ở quê nhà và soạn cuốn “Thích điển giáo khoa Phật kinh thập giới” , chú giải hai tác phẩm Nam tông tự pháp đồ và Thiền môn giáo khoa của sơ Thường Chiếu đời Lý .
Cuộc đời và sự nghiệp của trạng nguyên Lương thế Vinh đời đời được truyền tụng. Bức hoành phi “thiên hạ tri danh” đặt ở chính đường đền thờ Lương thế Vinh nói lên điều đó